MATHIƠ – VUA CÁC VUA
“Suỵt, đừng nói tới chuyện sống lại”
Mathiơ 28.11-15
Ai thực sự bắn Tổng Thống John F. Kennedy? Phải chăng Oswald hành động có một mình? Thực sự có ai đó trên ngọn đồi cỏ kia không? Điều chi thực sự tiếp diễn tại khu vực 51? Đâu là sự thực về cái chết của Vince Foster? Mối liên kết giữa chế độ của Clinton và Trung quốc là gì? Những học thuyết về che giấu đang bao trùm lấy xã hội của chúng ta. Mới đây, tôi thực hiện một cuộc tra cứu trên Internet về "học thuyết che giấu và tìm thấy hàng tá trường hợp được bày ra cho việc thăm dò vô số học thuyết nằm ở đàng sau các thắc mắc nầy và nhiều nữa”.
Đối với nhiều người, sự sống lại của Đấng Christ chỉ là một học thuyết che giấu rất xa xưa. Ở bề mặt chứng cớ khó có thể vượt qua được, họ tuyệt đối từ chối không chịu tin rằng sự thực của Tin lành, ấy là Chúa Jêsus chịu chết, bị chôn, và đã sống lại ra khỏi mồ mả. Để ủng hộ cho sự chối bỏ Đấng Christ đã sống lại với nhiều bằng chứng như thế, người ta đã nghĩ ra một số học thuyết để lý giải khác đi về sự sống lại.
Quí vị có bao giờ tranh luận về sự sống lại với một người chưa tin Chúa chưa? Quí vị có thể trình ra bằng chứng về việc Đấng Christ thắng hơn sự chết không? I Phierơ 3.15 chép: "nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ".
Hôm nay, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách nhìn vào một số học thuyết đang cố gắng bài bác sự sống lại. Kế đó chúng ta tra xét từ phân đoạn Kinh Thánh gốc một sự che đậy có mưu tính, một lời nói dối đã được dự trù để bài bác sự sống lại, nhưng thực tế lại trở thành chứng cớ cho sự sống lại đó.
I. Các học thuyết có mưu tính đang cố gắng bài bác sự sống lại.
A. Học thuyết về ngôi mộ khác.
Trải qua nhiều thế kỹ, một số những nhà phê bình đã đề ra ý tưởng cho rằng mấy người đàn bà đã đến thăm mộ của Đấng Christ vào buổi sáng phục sinh đầu tiên đó đã nhầm lẫn và đã bước vào ngôi mộ khác. Ý tưởng nầy cho rằng họ đã bước vào một ngôi mộ mới khác chưa có ai được chôn ở đó, và họ tưởng Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết. Phần còn lại của các chi tiết có trong các câu 1-10 được xem là cánh cửa sổ trình bày câu chuyện và làm cho câu chuyện ra dễ tin hơn.
Chúng ta chỉ ra vài vấn đề rất rõ ràng với học thuyết nầy. Thứ nhứt, mấy người đàn bà vốn biết rõ ngôi mộ thật nằm ở chỗ nào rồi. Họ đã ở lại với Chúa Jêsus và đã quan sát Ngài đã gục chết trên thập tự giá (27.55-56). Sau đó, ít nhất một số người trong họ đã đi theo Giô-sép người Arimathê và Ni-cô-đem ra đến mộ. 27.61 cho biết họ đã "ngồi đối ngang [ở trước mặt] huyệt". Có lẽ họ đã trợ giúp trong việc sửa soạn cho thi thể nữa. Họ đã trở lại "sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhất trong tuần lễ, lúc tưng tưng sáng". Họ vốn biết chắc về địa điểm của ngôi mộ đến nỗi họ đã đến trong ánh sáng mờ mờ của buổi sáng sớm (28.1).
Thứ hai, nếu mấy người đàn bà đã đưa ra những lời xưng nhận như thế sau khi thăm qua ngôi mộ khác, các cấp lãnh đạo người Do thái sẽ dễ dàng chấm dứt câu chuyện bằng cách chỉ ra rằng ngôi mộ đúng vẫn còn mang lấy dấu ấn La mã và vẫn còn được mấy tên lính La mã canh gát, vẫn còn chứa thi hài của Chúa Jêsus ở bên trong. Tuy nhiên, họ bị buộc phải chứng kiến im lặng với các của hối lộ.
Thứ ba, nếu đây là trường hợp ngôi mộ khác, tại sao Giô-sép và Ni-cô-đem không chỉ ra ngôi mộ thật? Sao các môn đồ không suy nghĩ sâu xa hơn? Làm sao họ có thể dâng đời sống của họ để rao truyền một niềm tin như thế và chịu chết cho niềm tin đó nếu họ không dám chắc đấy là ngôi mộ thực?
B. Học thuyết Đấng Mêsi bị ngất đi.
Tôi đã nhắc tới vấn đề nầy trước đây rồi, nhưng có một số người tin rằng Chúa Jêsus không thực sự chết trên thập tự giá, mà chỉ ngất đi, do bị sốc, mất máu, và kiệt sức. Học thuyết nầy cho rằng không cứ cách nào đó Ngài đã hồi tỉnh lại trong không khí lạnh lẽo của ngôi mộ, đã thoát ra khỏi ngôi mộ rồi xuất hiện cùng các môn đồ của Ngài. Tiếp đến, Ngài đã sống phần đời còn lại của mình trong bóng tối tăm. Một người có tên là Venturini khoảng năm 1600 đã đưa ra nhận định nầy.
Thứ nhứt, mỗi nổ lực được lập ra để bảo đảm rằng Chúa Jêsus đã chết. Mấy tên lính, họ là hạng người chuyên hành quyết đã công bố Ngài đã chết. Họ chẳng phiền đánh gãy chân của Ngài mà chỉ đâm mũi giáo vào sườn của Ngài. Giăng 19.33-34 đặc biệt chép: "Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngài; nhưng có một tên lính lấy giáo đâm ngang sườn Ngài, tức thì máu và nước chảy ra (cho thấy Ngài đã chết trước đó rồi)". Thêm nữa, Mác 15.43-45 cho rằng Phi-lát đã sai “một thầy đội” La mã đến để xác định Chúa Jêsus đã chết trước khi ông ta cho Giô-sép người Arimathê gỡ lấy xác xuống.
Thứ hai, hãy xét qua những trở ngại mà một Đấng Mêsi bị ngất sẽ phải thắng hơn. Trước tiên Ngài phải thoát ra khỏi lớp vải liệm quấn thật chặt, lớp nầy chứa "khoảng một trăm cân" một dược (Giăng 19.39). Tiếp đến, Ngài phải lăn hòn đá nặng nề kia rồi phải chiến đấu với khoảng cả tá binh lính La mã thuần thục.
Rồi Ngài phải đi bộ 7 dặm tới Emmaút, người ta đã gặp Ngài ở đó theo (Luca 24.13-41). Cũng một thể ấy, Ngài phải đi bộ ngược về lại thành Jerusalem, các vị sứ đồ cũng đã trông thấy Ngài ở đây (các câu 32-49).
Tôi vẫn ưa thích câu chuyện mà tôi đã chia sẻ cách đây mấy tuần nói về một phụ nữ đã viết cho J. Vernon McGee nói về vị truyền đạo của bà đã tin theo học thuyết Chúa bị ngất xỉu đi. Ông đáp: "Thưa bà chị, hãy quất vị giáo sư ấy bằng 39 roi da bò cạp. Hãy đóng đinh ông ấy trên thập tự giá. Hãy treo ông ấy giữa trời trong 6 tiếng đồng hồ. Hãy đâm ngọn giáo qua trái tim của ông ta. Hãy ướp xác ông ta. Hãy đặt ông ta vào ngôi mộ không có không khí trong ba ngày. Kế đó, hãy chờ xem điều gì xảy ra".
C. Học thuyết về ảo giác.
Học thuyết nầy cho rằng những lần xuất hiện hậu-phục sinh của Đấng Christ không phải là những lần hiện ra có thực đâu, mà những kẻ tự nhận mình trông thấy Chúa Jêsus chỉ đang kinh nghiệm những ảo giác về tôn giáo đấy thôi. Có nhiều nan đề với quan điểm nầy rất là rõ ràng.
Thứ nhứt, nhiều cá nhân có ảo giác, chớ không phải nhiều nhóm người. Nhiều nhóm người đã trông thấy Chúa Jêsus sau sự sống lại của Ngài. Có hai môn đồ đang trên đường về làng Em-ma-út trong Luca 24.13-15. 10 trong số các môn đồ đang ẩn náu tại thành Jerusalem khi Chúa Jêsus thình lình hiện ra trong căn phòng theo Giăng 19.19-25. Còn đáng tin hơn thế nữa, I Côrinhtô 15.6 chép: "Rồi đó, cùng trong một lần, Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em xem thấy, phần nhiều người trong số ấy hiện bây giờ còn sống, nhưng có mấy người đã ngủ rồi".
Thứ hai, học thuyết về ảo giác mâu thuẩn đối với các định luật và nguyên tắc của khoa học vốn là rất quan trọng với các sự cố gây ảo giác. Thí dụ, chỉ có một số người nhất định nào đó mới kinh nghiệm các loại ảo giác. Thường thì chỉ có hạng người có trí tưởng tượng cao độ, có vấn đề về thần kinh mới kinh nghiệm ảo giác đó. Người nào mắc phải chứng hoang tưởng và tâm thần phân liệt là đối tượng mạnh nhất cho ảo giác. Các nhà tâm lý học cũng cho rằng những ảo giác luôn luôn được nối kết với tiềm thức của một người. Nhiều cá nhân có một tiềm thức. Các nhóm người không có một tiềm thức chọn lọc được. Thường thì ảo giác tiêu biểu cho sự tán thưởng các sự cố trong tương lai. Các môn đồ không tin sự sống lại thậm chí sau khi họ đã nhìn thấy ngôi mộ trống. Thôma vốn không tin dù Chúa Jêsus đã hiện ra cho nhiều người khác thấy.
D. Học thuyết mạo nhận danh nghĩa người khác.
Như danh xưng ấy ám chỉ, học thuyết nầy cho rằng Đấng Christ thực sự không hề hiện ra sau sự chết của Ngài, mà có ai đó đã mạo nhận Ngài. Những kẻ đề xướng quan điểm nầy chỉ ra các kinh nghiệm của những người không công nhận Ngài khi lần đầu tiên họ nhìn thấy Ngài là bằng chứng. Rõ ràng có những lỗ hỗng trong học thuyết nầy.
Thứ nhứt, các môn đồ đã hiện diện với Chúa Jêsus trong hơn ba năm trời. Trong khoảng thời gian ấy, họ rất ít khi rời khỏi Ngài. Liệu có ai đó đến mạo nhận một trong các thành viên trong gia đình của quí vị và làm cho quí vị ra dại dột không?
Thứ hai, một kẻ mạo danh cũng phải có cùng những vết thương mà Đấng Christ đã có. Người ấy đã bị đòn vọt, bị đội bằng mão gai, bị đóng bằng nhiều mũi đinh và bị một mũi giáo đâm vào sườn mình. Thôma nghi ngờ kia, một người hay nghi ngờ theo lẽ tự nhiên hoàn toàn bị thuyết phục khi Chúa Jêsus bảo ông ta: "Hãy đặt ngón tay ngươi vào đây, và xem bàn tay ta; cũng hãy giơ bàn tay ngươi ra và đặt vào sườn ta, chớ cứng lòng, song hãy tin!" (Giăng 20.27).
Thứ ba, một kẻ mạo danh phải có phép lạ dấu kỳ. Như trong Giăng 20.19, người ấy cần có khả năng đi xuyên qua bức tường rồi xuất hiện trong căn phòng cách thình lình. Như trong Giăng 21.1-7, người ấy cần phải có khả năng tạo ra một ngư trường trong biển Galilê.
Thứ tư, vượt cao hơn tất cả, là một kẻ mạo danh phải có quyền phép cao hơn mấy tên lính canh cửa mộ, cướp lấy thi hài của Chúa Jêsus rồi đem giấu đi để chẳng ai khám phá ra.
E. Học thuyết lầm lẫn lai lịch.
Học thuyết nầy cho rằng những kẻ trông thấy hình thái sống lại của Đấng Christ là không đúng đâu. Thí dụ, khi Mary Mađơlen trông thấy Chúa Jêsus lần đầu tiên, nàng tưởng Ngài là người làm vườn, Quan điểm nầy cho rằng Ngài thực sự là người làm vườn và Mary đã lầm lẫn khi nghĩ ông ta là Chúa Jêsus.
Một lần nữa, nan đề vẫn như nhau. Làm sao các môn đồ của Chúa Jêsus lại lầm lẫn về nhân vật mà họ vốn biết rất rõ chứ? Làm sao họ có thể lầm bởi các vết thương của Ngài cho được? Làm sao họ có thể lầm lẫn về các phép lạ hậu phục sinh của Ngài chứ? Có ai xuất hiện trong căn phòng theo cách lạ lùng chưa? Phải chăng họ đã nhìn thấy nhân vật chưa biết chắc đó thăng thiên về trời?
F. Học thuyết sống lại về mặt thuộc linh.
Một số nhà thần học theo phái phê bình, họ không thể chấp nhận một sự sống lại thuộc thể, theo phần xác thịt; họ cho rằng Chúa Jêsus không sống lại từ kẻ chết về phần xác mà các môn đồ đã trông thấy linh hồn của Ngài. Họ nói rằng các trước giả Tin lành nói tới xác thịt của Ngài để minh hoạ cho sự sống lại về mặt thuộc linh.
Nếu đó là một sự sống lại về mặt thuộc linh, thì ngôi mộ không bị quấy rối và rất dễ lật tẩy câu chuyện tai nghe mắt thấy bằng cách tạo ra thi hài đã chết của Chúa Jêsus.
Thêm nữa, những tường trình của những người chứng kiến cho thấy thể nào họ đã trông thấy Chúa Jêsus ăn thức ăn. Linh hồn không có ăn uống. Họ đã chạm vào thân thể phục sinh của Ngài bằng chính bàn tay của họ.
Luca 24.36-43 cho biết khi Chúa Jêsus hiện ra cùng họ, họ "đều sửng sốt rụng rời, tưởng thấy thần". Chúa Jêsus phán: "Hãy xem tay chân ta: thật chính ta. Hãy rờ đến ta, và hãy xem; thần thì không có thịt xương, mà các ngươi thấy ta có". Các câu 41-43 chép: "Nhưng vì cớ môn đồ vui mừng nên chưa tin chắc, và lấy làm lạ, thì Ngài phán rằng: Ở đây các ngươi có gì ăn không? Môn đồ dâng cho Ngài một miếng cá nướng. Ngài nhận lấy mà ăn trước mặt môn đồ".
Mặc dù có vô số tham khảo đến thân thể của Chúa theo phần xác sau sự sống lại, tôi vẫn ưa thích nhất câu nói của Giăng, ông đã viết khi là một cụ già quay nhìn lại cuộc đời của mình. Ông nói ở 1 Giăng 1.1-2: "Điều có từ trước hết, là điều chúng tôi đã nghe, điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã ngắm và tay chúng tôi đã rờ, về lời sự sống; vì sự sống đã bày tỏ ra, chúng tôi có thấy, và đang làm chứng cho, chúng tôi rao truyền cho anh em sự sống đời đời vốn ở cùng Đức Chúa Cha và đã bày tỏ ra cho chúng tôi rồi".
II. Học thuyết có mưu tính góp phần minh chứng cho sự sống lại.
Bảng liệt kê của chúng ta không cạn kiệt đâu. Có vô số học thuyết khác, chúng ta khó mà bàn bạc hết cho được. Thực vậy, có một học thuyết rất hợp lý giải thích bài bác sự sống lại, và nó đã được các cấp lãnh đạo Do thái ngay lập tức đưa ra liền. Mathiơ ghi lại học thuyết đó cho chúng ta trong phân đoạn Kinh Thánh gốc ở trên. Đây là học thuyết cho rằng các môn đồ đã đánh cắp thi thể của Chúa Jêsus rồi dựng lên phần còn lại. Tuy nhiên, Chúa toàn năng của chúng ta đã sử dụng học thuyết nầy làm bằng chứng thuyết phục rất sâu sắc cho thực tại sự sống lại.
A. Trả tiền cho mấy tên lính (các câu 11-14).
Câu 1 cho chúng ta biết rằng "trong khi hai người đàn bà đó đi đường" để báo cho các môn đồ về ngôi mộ trống và đang khi họ gặp gỡ chính mình Chúa Jêsus trên đường, mấy tên lính La mã đã tỉnh ra từ chỗ chết điếng người. Hãy nhớ câu 4 chép rằng khi họ trông thấy thiên sứ, họ đã "sợ hãi run rẩy, trở nên như người chết". Họ bị như thế khi nhìn thấy hòn đá lăn trở ra và ngôi mộ trống trơn.
Tôi tưởng tượng họ đang bàn bạc trong nỗi sợ hãi và thất kinh mọi điều mà họ sẽ làm. Phi-lát chắc chắn sẽ tử hình họ vì để cho dấu ấn La mã bị phá đi và thi thể bị đánh cắp mất. Có lẽ họ đã xét tới việc gọi lực lượng đặc nhiệm. Rõ ràng, họ đã quyết định phái "mấy tên" hay đại biểu đến gặp các cấp lãnh đạo Do thái. Phần còn lại trong số họ đã ở lại trạm gát cho đến chừng họ có lịnh giải tán.
"Mấy tên lính canh vào thành thuật lại cho các thầy tế lễ cả biết mọi việc đã xảy đến". Họ biết rõ họ đã ở trong chỗ phục vụ tạm thời cho người Do thái và biết rõ rằng với người Do thái họ sẽ rơi vào chỗ ít rắc rối hơn là với Phi-lát. Có lẽ các cấp lãnh đạo nầy sẽ che chở cho chúng không bị án phạt khó có thể tránh được.
Họ báo cáo lại "mọi việc đã xảy đến". Tôi cho rằng họ đã trình lại về cơn động đất, sự xuất hiện đáng sợ của thiên sứ đến lăn hòn đá đi và thể nào họ thức tỉnh khi thấy ngôi mộ trống và thiên sứ đã đi mất rồi. Các cấp lãnh đạo Do thái rất cứng lòng trong sự vô tín đến nỗi họ không chấp nhận câu chuyện mắt thấy nầy. Có lẽ họ đã hay về sự sống lại của Chúa Jêsus trước các môn đồ của Ngài.
Họ mau chóng "nhóm lại cùng các trưởng lão đặng bàn luận". Họ có một buổi nhóm lại ứng khẩu với cả toà công luận rồi đưa ra một kế hoạch. Họ "cho những lính đó nhiều tiền bạc" và bảo chúng đi nói: "Môn đồ nó đã đến lúc ban đêm, khi chúng tôi đang ngủ, mà lấy trộm nó đi". Họ quyết chắc với chúng rằng họ sẽ "khuyên giải" Phi-lát và làm cho chúng "khỏi lo sợ". Dù chúng có trình sự vụ ra trước mặt Phi-lát hay không hoặc chúng bị án phạt chi đó thì chẳng ai biết được.
B. Lời nói dối của các cấp lãnh đạo Do thái (câu 15).
Mấy tên lính đã bớt căng thẳng khi được người Do thái săn đón đàng hoàng. Họ vui sướng "lấy bạc, và làm theo y như lời". Họ đã phụ giúp phổ biến lời nói dối, lời ấy đã trở thành học thuyết mói tới thi hài bị đánh cắp, như Mathiơ ghi lại rằng "Tiếng ấy đã đồn ra trong dân Giu-đa cho đến ngày nay", khoảng 30 năm sau, vào năm 63SC.
C. Quyền tể trị của Chúa.
Đức Chúa Trời trong sự tể trị của Ngài đã sử dụng lời nói dối nầy làm bằng cớ cho sự sống lại. Sự thật cho thấy rằng các kẻ thù của Đấng Christ rao truyền chuyện bịa đặt khó tin nầy, nó củng cố mạnh cho sự thực của sự sống lại của Ngài. Sự thật cho thấy rằng câu chuyện nầy là câu chuyện hay nhất được dựng lên với nhiều bằng chứng về sự sống lại.
Thứ nhứt, binh lính La mã KHÔNG NGỦ khi canh gát. Nếu họ ngủ mê, làm sao họ biết chính các môn đồ đến lấy cắp thi thể? Làm sao hòn đá lớn kia bị lăn ra mà không làm cho họ thức giấc? Tại sao họ không lần theo dấu vết của các môn đồ và thẩm tra họ cho đến chừng nào họ chịu tội mới thôi? Phải chăng các môn đồ liều mạng sống họ để tích cực ủng hộ một lời nói dối?
Bằng chứng thổi tung hết mọi học thuyết có mưu tính nói về sự sống lại là Hội Thánh sống động của Đức Chúa Jêsus Christ. Các môn đồ nhỏ bé nầy đã trở thành những sứ đồ mạnh mẽ và đã "gây thiên hạ nên loạn lạc" (Công vụ Các Sứ Đồ 17.6). Những lời dối trá không làm được như thế đâu, chỉ có lẽ thật mới có thể làm thay đổi thế gian mà thôi.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét