Thứ Hai, 17 tháng 5, 2010

Luca 4.1-13: "SỰ CÁM DỖ CỦA CHÚA JÊSUS"



Phần giới thiệu
Cám dỗ là gì?
Những sự cám dỗ của Đấng Christ và chúng ta
Phần kết luận
BÀI 12
SỰ CÁM DỖ CỦA CHÚA JÊSUS
(Luca 4.1-13)
Phần giới thiệu
Tôi lớn lên ở phần xứ sở mà ở đấy có một bầy nai, ý nói cũng có một số thợ săn nai trong suốt mùa săn. Một số trong các thợ săn nầy là “những tay mánh khoé cấp thành phố”, họ chẳng biết gì về loài nai hay về săn bắn. Những người trong chúng ta sinh sống trong thành phố hẳn là không bằng lòng số dân thành phố đi ra ngoài săn nai trên vùng đất của chúng ta, loài nai đã làm cho đất màu mỡ để trồng táo và các loại rau xanh suốt cả năm. Một số các “thợ săn” nầy rất nguy hiểm, họ săn bắn theo những cách thức gây nguy hại cho tài sản và thậm chí cả mạng sống của con người nữa.
Vì mối căng thẳng giữa cư dân thành thị và chúng ta vùng nông thôn, luôn luôn có những câu chuyện xoay quanh về các tay thợ săn. Một câu chuyện như vậy (có khi đã trở thành hiện thực) nói về một chàng công tử bột dừng lại trước một cửa hàng ở vùng quê hỏi thăm xem con nai hình thù ra sao. Đây là tay thợ săn thậm chí chẳng biết mình sẽ bắn vào con gì. Loại thiếu hiểu biết nầy đã khiến cho các nhà nông gặp phải một số rắc rối. Tôi có đọc một bài báo nói về nhà nông kia, ông ta sơn các chữ cái “BÒ” lên con bò của mình, vì sợ rằng nó sẽ bị người ta bắn, giống như nhiều gia súc đã bị bắn trong mùa săn nai.
Chẳng biết gì về thứ mà quý vị đang tìm kiếm thì nguy hiểm lắm khi gặp phải cơn cám dỗ. Suy nghĩ đầu tiên của tôi là phải xem cám dỗ giống như một sự gạ gẫm buộc chúng ta phải làm theo điều chi chúng ta biết rõ là xấu. Ađam và Êva đã bị cám dỗ phải làm theo điều mà Đức Chúa Trời rõ ràng đã chỉ ra là xấu. Chàng trai dại dột trong sách Châm ngôn (chương 7), chàng ta bị dụ dỗ bởi “mụ chủ dại dột”, mụ nầy cũng bị nhữ làm theo điều ác.
Khi đến lúc thì Satan cần phải tác động loại cám dỗ nầy. Vì con người hiện nay là một tạo vật sa ngã, sống trong sự loạn nghịch chống lại Đức Chúa Trời và ở dưới quyền quản trị của Satan qua các tư dục của xác thịt và sự sợ hãi cái chết, con người cần lý do xui khiến phải phạm tội. Trong Rôma chương 7 Phaolô nói cho chúng ta biết rằng Luật pháp được sử dụng nói tới tội lỗi để khuyến khích tội lỗi. Khi luật pháp ngăn cấm tội lỗi, bổn tánh hay loạn nghịch của chúng ta muốn làm theo chính xác điều chi luật pháp đã ngăn cấm. Khi luật pháp đòi hỏi phải làm ra một số việc nhất định nào đó, xác thịt của chúng ta liền có xu hướng bất tuân ngay.
Kết quả, hình thức cám dỗ cao cường nhất, nguy hiểm nhất chính là sự cám dỗ lôi cuốn con người phải làm theo điều gây ra sự tàn phá và huỷ diệt hoàn toàn, mặc dù sự việc đã được làm ra là đúng đắn. Đó là việc mà Satan đã tìm cách cám dỗ Chúa chúng ta phải làm theo, không biểu hiện đấy là điều ác, mà là điều lành. Các sứ giả của Satan không những xuất hiện giống như loại công cụ chuyên gây ra bất hạnh, mà chúng còn giống như “thiên sứ sáng láng” nữa (đối chiếu II Côrinhtô 11.14-15), chúng xúi giục điều ác theo danh nghĩa của điều lành.
Tôi đã nhìn thấy một minh hoạ nói về loại lừa dối nầy cuối tuần qua. Có một bức thư đã được gửi đến qua bưu điện. Ở ngoài bức thư là những dòng chữ, viết bằng mực đỏ, “quảng cáo về tình dục”. Với suy nghĩ đầu tiên người ta sẽ có khuynh hướng nghĩ tốt về những nhà quảng cáo nầy. Rốt lại, họ rất thành thật “cảnh cáo” độc giả về điều chướng tai gai mắt và dễ bị phản đối ấy. Song suy nghĩ thứ nhì, sự “cảnh tỉnh” nầy có thể được xem là “khó giải quyết”, những nhà quảng cáo “đang câu nhữ” đang [hết sức] lôi cuốn tánh tò mò của người ta, cám dỗ người ta phải nhìn xem những điều đã được nói toạt thẳng ra rồi.
Quý vị và tôi không nghi ngờ chi nữa chưa hề bị Satan cám dỗ giống như Chúa chúng ta đã bị. Có lẽ chúng ta không đánh giá được một sự hiện ra riêng tư của Satan hoặc sự hắn chú ý chúng ta theo cách riêng tư. Thường thì sự cám dỗ đến với chúng ta không hẳn là xúi giục phải làm theo điều ác đâu. Sự cám dỗ thường đến với chúng ta giống như một “cơ hội bằng vàng”, hoặc “cơ hội ngàn năm có một”. Sự cám dỗ đến theo nhiều hình thức khác nhau, một số trong những điều ấy rất là tin kính. Vì thế, chúng ta cần phải rất cẩn thận khi xác định sự cám dỗ, phải có khả năng nhận dạng nó, và rồi phải biết cách xử lý nó.
Tôi đã nói ở phần đầu sứ điệp nầy rằng không những chúng ta cần học biết phải xử lý như thế nào với sự cám dỗ, chúng ta cũng cần phải biết cách xác minh sự cám dỗ nữa. Điều nầy là thật vì vài lý do. Lý do thứ nhất: ấy là sự sa ngã của con người đã ngăn trở khả năng phân biệt đâu là thiện đâu là ác của con người. Nếu Satan chính xác trong sự cám dỗ của hắn đối với Ađam và Êva, việc công nhận sự cám dỗ sẽ không là vấn đề đối với con người. Rốt lại, có phải hắn đã không dám đảm bảo với họ rằng việc ăn lấy trái cấm của cây biết điều thiện điều ác sẽ khiến cho họ khôn ngoan, giống như Đức Chúa Trời không (Sáng thế ký 3.5)? Tội lỗi và Satan không khiến cho tội lỗi hiển nhiên nhiều giống như chúng làm cho nhận thức của con người bị mù loà đối với tội lỗi (II Côrinhtô 4.4; I Giăng 2.11). Chính Đức Chúa Jêsus Christ trong sự đến của Ngài, đã bày tỏ ra tội lỗi (Giăng 1).
Lý do thứ hai tại sao khả năng nhìn nhận sự cám dỗ là bắt buộc đối với chúng ta là vì hầu hết cách quảng cáo đều là cám dỗ cả. Hàng trăm lần trong ngày chúng ta bị oanh tạc với những sự xúi giục phải mua cái nầy hay cái kia bằng đủ thứ phương tiện. Phương pháp được sử dụng đều đồng nhất hay giống hệt với mọi kỹ thuật cám dỗ của Satan. Kết quả là chúng ta đã phải quên đi sự hiện hữu của kỹ xảo và cách tiếp cận của “cám dỗ”. Thực vậy, chúng ta hầu hết đều có khuynh hướng mong đợi bị cám dỗ. Chúng ta ở trong trạng thái phải mua lấy sản phẩm mà những nhà chế tạo đang thực hiện hết mức công việc cám dỗ chúng ta phải mua lấy nó. Sau cùng, cám dỗ rất phổ thông đến nỗi chúng ta chẳng còn nhận ra được nó nữa.
Trong bài học nầy chúng ta sẽ ra sức cùng nhau rút tỉa ra những phần đặc biệt của ba bài học trước và đi tới một vài kết luận và ứng dụng. Thứ nhất, chúng ta sẽ tìm cách xác định sự cám dỗ, và nhận dạng một số đặc điểm của nó, hầu cho chúng ta có khả năng nhận ra nó khi nó xông vào cuộc sống của chúng ta. Thứ hai, chúng ta sẽ tìm cách làm cho sáng tỏ các phương thức trong đó sự cám dỗ Chúa chúng ta giống như những cám dỗ của chính chúng ta. Sau hết, chúng ta sẽ nhận dạng một số nguyên tắc đã cai quản phần đáp ứng của Chúa đối với mưu chước của Satan, các nguyên tắc ấy cũng có thể đem ứng dụng cho chúng ta.
Vậy cám dỗ là gì?
Khi Chúa chúng ta xử lý với các sự xui giục của Satan, Ngài đã phản ứng với chúng thực sự như loại cám dỗ vậy. Chúng ta sẽ được giúp đỡ nhiều trong cuộc chiến đấu với tội lỗi nếu chúng ta có khả năng xác định loại cám dỗ đang đến với chúng ta. Chúng ta xác định loại cám dỗ bằng cách nào đây? Cũng theo một phương thức mà Chúa chúng ta đã xác định trong phần Kinh Thánh đã cho biết. Rồi, trên cơ sở nào Chúa chúng ta xác định từng loại cám dỗ là những cách xúi giục phải phạm tội? Đâu là loại dấu hiệu riêng của cám dỗ? Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta chỉ ra một vài đặc điểm của sự cám dỗ.
(1) Chúa chúng ta đã nhận ra chính Satan là nguồn những sự cám dỗ Ngài. Chúng ta biết rõ không có một sự cám dỗ nào đến từ phía Đức Chúa Trời hết (Giacơ 1.13). Chúng ta cũng biết rõ Satan là một kẻ nói dối, một kẻ giết người, một tên lường gạt, và là một tên cướp. Vì thế, bất cứ điều chi đến từ Satan tự nhiên đều là tội lỗi cả thôi. Satan không hề xui giục con người phải hành động theo cách ngay thẳng đâu. Hắn có thể xui giục con người tỏ ra ngay thẳng, nhưng hắn không hề giục giã sự công bình. Cho nên, chúng ta phải luôn luôn xem điều được “đề nghị” theo các giới hạn của kẻ đưa ra đề nghị đó. Những việc tốt lành và trọn vẹn chỉ đến từ Đức Chúa Trời, là “Cha sáng láng” (Giacơ 1.17). Những việc gian ác thì đến từ Satan, là chúa của sự tối tăm (Êphêsô 6.12; Côlôse 1.13).
Khi tìm tòi học hỏi, tôi đề nghị quý vị nên đọc qua sách Châm ngôn, ở đó kẻ ác được vạch ra như hạng người đang khích lệ đồng loại mình phải phạm vào điều ác (đối chiếu thí dụ 1.10…). Satan, các quỷ sứ nó, và mọi người trong thế gian nầy đang ở dưới quyền quản cai của hắn, hết thảy đều là nguồn của những sự cám dỗ không sao kể xiết được. Kẻ ác không thể là nguồn của điều lành, và vì thế chúng ta phải luôn luôn tra xét nguồn gốc của vấn đề đã được đưa ra.
(2) Cám dỗ là đề nghị bất cứ một hành động nào trái ngược với mọi chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời đang dành cho người đó. Ấy không phải chỉ có kẻ ác mới là kẻ cám dỗ chúng ta thôi đâu, như lời lẽ của Chúa chúng ta nói với Phierơ cho thấy rất rõ ràng:
“Ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta! Ngươi làm gương xấu cho ta; vì ngươi chẳng nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, song nghĩ đến việc người ta” (Mathiơ 16.23).
Phierơ đã trách Chúa chúng ta vì đã nói tới sự thương khó và sự chết của Ngài tại thành Giêrusalem. Trong khi tìm cách xây Chúa chúng ta ra khỏi số phận của Ngài, Phierơ đã trở thành người phát ngôn cho Satan nên mới thốt ra như thế. Cám dỗ là điều giục giã chúng ta phải làm theo điều chi chống nghịch lại Lời của Đức Chúa Trời và ý chỉ của Ngài. Cám dỗ nói chung là một sự xúi giục phải phạm tội, nó cũng là một sự câu nhữ phải phạm tội, nói chung nó tìm cách gạt chúng ta ra khỏi mọi điều Đức Chúa Trời đã dành cho chúng ta phải sống và phải làm theo. Hết thảy ba lần cám dỗ của Satan đều là những điều khiến cho sự kêu gọi và chức vụ của Đấng Mêsi phải bị sai lệch đi. Chúa chúng ta đã xác định chúng rõ ràng, rồi vì thế đã từ chối chúng.
(3) Cám dỗ có thể xui giục một hành động có bề ngoài rất tin kính và công bình, và dường như có cả nền tảng theo Kinh Thánh nữa. Lần cám dỗ sau cùng của Satan trong câu chuyện của Luca là lần cám dỗ “đặt nền tảng theo Kinh Thánh”, ít nhất là theo lý trí của Satan. Cám dỗ có thể diễn đạt rất hay qua thuật ngữ của Kinh Thánh. Cám dỗ đề ngghị, như nó đã làm, một “con sư tử đang ở trên đường cái” trong Kinh Thánh (sử dụng thuật ngữ của sách Châm ngôn), là cám dỗ dường như đang thúc ép một hành động có cần.
(4) Cám dỗ buộc người ta phải làm thoả mãn một nhu cần hay một ham muốn, nhưng phải theo một cách thức không đẹp lòng Đức Chúa Trời. Khi Satan cám dỗ con người (dù trực tiếp hay gián tiếp) hắn trưng ra một nhu cần hay một ước muốn của con người, cám dỗ ấy tạo ra một sức đẩy phải đạt cho kỳ được điều đó. Satan chỉ ra sự đói khát của Chúa chúng ta, hy vọng rằng Ngài sẽ làm thoả mãn cơn đói ấy theo một cách thức sẽ bị coi là phạm tội. Cũng thế, trong lần cám dỗ thứ hai, hắn chỉ ra “nhu cần” của Chúa chúng ta là Đấng Mêsi thì phải có một nước.
(5) Cám dỗ là một sự kêu gọi phải hành động độc lập đối với Đức Chúa Trời và phải theo đuổi sở thích riêng cao hơn ý chỉ của Đức Chúa Trời. Hoá đá thành bánh sẽ là một hành động độc lập nơi phần của Chúa chúng ta, vì mục đích của việc làm ấy là làm thoả mãn các nhu cần riêng của Ngài, nhưng độc lập đối với Đức Chúa Trời. Cám dỗ sẽ thách thức chúng ta phải hành động (hoá đá thành bánh) khi chúng ta nên chờ đợi (Đức Chúa Trời tiếp trợ cho), hay thụ động (quỳ gối xuống trước mặt Satan) khi chúng ta nên hành động (xông xáo tấn công Satan và nước của hắn).
(6) Cám dỗ thường tìm cách tác động hành động bất tuân bằng cách tạo ra một sự nghi ngờ về lòng nhơn từ hay quyền phép của Đức Chúa Trời, nhơn đó giục giã người ta phải hành động vì lợi ích của họ. Sự nhơn từ của Đức Chúa Trời bị thắc mắc ngay bởi thách thức của Satan cho rằng Chúa chúng ta một là hoá đá thành bánh, hoặc là nhảy xuống từ nóc cao của đền thờ.
(7) Cám dỗ là một sự xúi giục phải theo đuổi ý chỉ và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, nhưng bởi các phương tiện hay động lực đi ngược lại với sự kêu gọi đó. Về bề ngoài, Satan đang khích lệ Chúa chúng ta phải theo đuổi sự kêu gọi của Ngài trong vai trò “Con Đức Chúa Trời”. Nhưng trong thực tế, Satan đang thách thức Chúa chúng ta phải thiết lập nước của Ngài bằng cách nhảy xuống từ nóc cao của đền thờ, thúc đẩy bàn tay của Đức Chúa Trời và làm thay đổi thì giờ của Đức Chúa Trời. Satan buộc Chúa chúng ta có được nước của Ngài bằng cách thờ lạy hắn, hơn là thờ lạy và vâng theo Đức Chúa Trời.
(8) Cám dỗ đề nghị một đường lối ngắn gọn, dễ dàng để đạt tới mục tiêu. Những lần cám dỗ của Satan đề nghị một đường lối trong đó con người có thể làm thoả mãn mọi nhu cần hay các mục tiêu của mình, nhưng với một cái giá thật hời, với ít đau khổ và hy sinh hơn. Cám dỗ dường như luôn luôn hiến cho một giải thưởng lớn với một giá thật nhỏ, một vương quốc chỉ cần quỳ gối xuống, nhưng luôn luôn có một cái giá cao hơn, kín giấu. Cám dỗ hiến ngay những phần thưởng trong tương lai; nó tráo tương lai thay cho hiện tại, khoái lạc thay cho đau khổ, và cái thấy được thay cho điều không thấy được.
(9) Cám dỗ luôn làm phát triển tình trạng giả dối, lường gạt, và sự thoái thác. Cám dỗ và sự thật có khi lại thấy đứng chung với nhau. Cám dỗ luôn luôn dựa trên sự lựa chọn về những sự kiện nó đưa ra, và hầu hết nó nói dối về các sự kiện. Cám dỗ nói cho con người biết điều họ muốn nghe, chớ không phải điều họ cần nghe. Vì lẽ đó, nó thu nhỏ lại mọi hậu quả của một hành động xấu và phóng to ra những lợi ích. Nó hứa sự hiểu biết về điều thiện và điều ác, và nó từ chối hình phạt sự chết.
(10) Cám dỗ thường là một sự xui giục phải hành động ngay lập tức, mau chóng, không cần cầu nguyện, hỏi han, hay suy nghĩ cân nhắc. Mỗi hành động mà Satan đề nghị Chúa chúng ta phải lo làm đều là một hành động ngay lập tức. Nghĩa là, từng cơn cám dỗ đã được mô tả đều là cám dỗ phải hành động “ngay bây giờ”. Chúa chúng ta được truyền cho phải hoá đá thành bánh ngay bây giờ. Ngài cần phải quỳ xuống trước mặt Satan đề thờ lạy, rồi nhơn đó nhận được nước của Ngài ngay bây giờ. Ngài cũng phải nhào đại xuống từ nóc đền thờ ngay bây giờ. Tội lỗi hoàn toàn vượt quá điều hợp lý, và thế là Satan cung ứng một thì giờ ít ỏi để suy nghĩ về mọi hành động của Ngài.
(11) Cám dỗ thường đưa ra những hành động và bản năng thấp kém. Chúng ta không nhất thiết phải chịu cám dỗ đi mua lấy bảo hiểm. Một người khó mà tin về trách nhiệm của họ phải chu cấp cho người thân của họ. Đó là một sự lạm dụng, với “những thứ hàng hoá” cùng những sự phục vụ gần như vô ích đòi hỏi phải có “người đi bán rong” và người đứng rao hàng. Cám dỗ chỉ nói ra tánh tham của tôi, nhưng lẽ thật thì bày ra ân điển. Cám dỗ chỉ ra tư dục, còn lẽ thật thì tỏ ra tình yêu thương.
(12) Cám dỗ thường chỉ cho con người thấy họ có nhu cần phải tự minh chứng. Những quảng cáo chỉ cho người tuổi trẻ thấy mình phải minh chứng tính chất đàn ông mình có, đây là điều cần thiết đấy, hay với người phụ nữ họ cảm thấy cần thiết phải chứng minh tính chất của nữ giới nơi họ. Hết thảy ba lần cám dỗ của Satan đều dựa trên một thách thức Chúa Jêsus phải chứng minh Ngài là con của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý chữ: “nếu” to tướng của Satan.
Trong phần phân tích sau cùng, chúng ta có thể tóm tắt lại các dấu hiệu của sự cám dỗ theo các quan điểm trên. Từ phía quan điểm của Đức Chúa Trời, cám dỗ xui giục phải nghi ngờ sự nhơn từ, tình yêu, và quyền phép của Đức Chúa Trời, nó dẫn tới vô tín, bất tuân, và thờ lạy không đúng chỗ. Từ phía quan điểm của con người, cám dỗ khích lệ con người lo tìm kiếm những sở thích riêng của mình, hành động theo lợi ích riêng, và sống độc lập, tự tin cậy vào bản năng. Từ phía nhận định của Satan, cám dỗ tìm cách gạt con người ra khỏi sự hầu việc Đức Chúa Trời để lo phục vụ cho Satan.
Những lần cám dỗ của Đấng Christ và của chúng ta
Sự Đấng Christ thắng hơn mấy lần cám dỗ của Satan đều có những hàm ý và ứng dụng khác nhau. Đối với Đấng Christ, tình trạng vô tội nổi bật lên từ những lần bị cám dỗ cho thấy Ngài rất xứng đáng trong vai trò Con của Đức Chúa Trời để quản trị đất. Tình trạng ấy còn xác minh Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời, không lỗi không vít, và nhơn đó xứng đáng để chịu chết vì tội lỗi loài người. Theo ý kiến của tôi, sự cám dỗ của Chúa chúng ta đóng vai trò làm sáng tỏ và làm tăng thêm sức mạnh cho ý thức về sự kêu gọi và hướng đi của Ngài. Ngài đã bước tới từ chỗ bị thử thách, đầy dẫy Thánh Linh và quyền phép, và ngay lập tức bắt đầu công bố Tin lành nói về Nước Trời. Thêm nữa, Ngài bắt đầu tấn công vào nước của Satan, đánh đuổi ma quỷ, rồi bắt đầu được chúng công nhận là Con Đức Chúa Trời. Thậm chí chúng đã nhìn nhận rằng Ngài đã đến để tiêu diệt chúng (đối chiếu Luca 4.31-34). Đối với Ysơraên, sự cám dỗ ấy minh chứng Chúa Jêsus là Đấng Mêsi. Ngài đồng hoá với dân tộc bằng cách hồi tưởng lại kinh nghiệm của Ysơraên trong đồng vắng, nhưng không có sự loạn nghịch hay tội lỗi, như trong trường hợp của Ysơraên. Nhưng còn hơn cả điều nầy nữa, trong sự cám dỗ, Đấng Christ đã đồng hoá với con người, nói chung với cả nhân loại. Đặc biệt, chúng ta có thể nói rằng Ngài đã đồng hoá với chúng ta. Thắc mắc là: “Ngài đã đồng hoá với con người tới chừng mực nào?”
Tác giả Hêbơrơ trình bày chi tiết ý nghĩa sự cám dỗ và thử thách của Chúa chúng ta có lẽ còn hơn cả bất kỳ một trước giả nào khác trong Tân ước. Hai phân đoạn Kinh Thánh sau đây nhắm vào sự đồng hoá của Chúa chúng ta với con người trong sự cám dỗ và thử thách của Ngài: “Vậy thì, vì con cái có phần về huyết và thịt, nên chính Đức Chúa Jêsus cũng có phần vào đó, hầu cho Ngài bởi sự chết mình mà phá diệt kẻ cầm quyền sự chết, là ma quỉ, lại cho giải thoát mọi người vì sợ sự chết, bị cầm trong vòng tôi mọi trọn đời. Vì quả thật không phải Ngài đến vùa giúp các thiên sứ, bèn là vùa giúp dòng dõi của Áp-ra-ham. Nhân đó, Ngài phải chịu làm giống như anh em mình trong mọi sự, hầu cho đối với Đức Chúa Trời, trở nên thầy tế lễ thượng phẩm, hay thương xót và trung tín, đặng đền tội cho chúng dân. Vả, vì chính mình Ngài chịu khổ trong khi bị cám dỗ, nên có thể cứu những kẻ bị cám dỗ vậy” (Hêbơrơ 2.14-18).
“Ấy vậy, vì chúng ta có thầy tế lễ thượng phẩm lớn đã trải qua các từng trời, tức là Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, thì hãy bền giữ đạo chúng ta đã nhận tin. Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng. Phàm thầy tế lễ thượng phẩm, từ trong loài người chọn ra, thì vì loài người lập nên hầu việc Đức Chúa Trời, để dâng lễ vật và hi sinh vì tội lỗi. Người đã bị vây trong sự yếu đuối, nên có thể thương xót những kẻ ngu dốt sai lầm. Ấy bởi sự yếu đuối đó mà người buộc phải vì tội lỗi mình dâng của tế lễ, cũng như vì tội lỗi của dân chúng. Vả lại không ai chiếm lấy chức trọng đó cho mình; phải được Đức Chúa Trời kêu gọi như A-rôn ngày xưa. Cũng một thể ấy, Đấng Christ không tự tôn mình làm thầy tế lễ thượng phẩm; như tại Đấng đã phán cùng Ngài rằng: NGƯƠI LÀ CON TA, TA ĐÃ SANH NGƯƠI NGÀY NAY. Lại nơi khác có phán cùng Ngài rằng: NGƯƠI LÀM THẦY TẾ LỄ ĐỜI ĐỜI THEO BAN MÊN-CHI-XÊ-ĐÉC. Khi Đấng Christ còn trong xác thịt, thì đã kêu lớn tiếng khóc lóc mà dâng những lời cầu nguyện nài xin cho Đấng có quyền cứu mình khỏi chết, và vì lòng nhân đức Ngài, nên được nhậm lời. Dầu Ngài là Con, cũng đã học tập vâng lời bởi những sự khốn khổ mình đã chịu, và sau khi đã được làm nên trọn vẹn rồi, thì trở nên cội rễ của sự cứu rỗi đời đời cho kẻ vâng lời Ngài, lại có Đức Chúa Trời xưng Ngài là thầy tế lễ thượng phẩm theo ban Mên-chi- xê-đéc” (Hêbơrơ 4.14 – 5.10).
Trong phân đoạn đầu tiên chúng ta được truyền cho rằng Chúa đã đồng hoá với con người bằng cách mặc lấy xác thịt, bằng cách dự phần vào thịt và huyết (Hêbơrơ 2.14). Chúng ta cũng được truyền cho biết: “Ngài phải chịu làm giống như anh em mình trong mọi sự” (2.17). Điều chi đã thiết lập nên “mọi sự” mà tác giả đã nói đến vậy?
Từ ngữ “mọi sự” không thể gồm cả bổn tánh tội lỗi của con người và sự người sanh ra trong tội lỗi, vì Chúa chúng ta không có cả “tội lỗi” và không có “bổn tánh tội lỗi”. Như Giacơ đã nói, Đức Chúa Trời không thể bị tội lỗi cám dỗ được (Giacơ 1.13). Nghĩa là, khi Satan “cám dỗ” con người, hắn tìm thấy bên trong mỗi một người một khuynh hướng tự nhiên muốn chống nghịch lại Đức Chúa Trời. Điều nầy là thực cả cho Cơ đốc nhân (Rôma 7) và cho người không tin Chúa (I Côrinhtô 2.14; Rôma 8.5-8; Êphêsô 2.1-3).
Chìa khoá cho vấn đề ở đây được thấy trong từ ngữ “trở nên”. Chúa chúng ta, tác giả nói đã được làm nên giống như anh em Ngài trong mọi sự. Tội lỗi và bổn tánh tội lỗi không phải là một vấn đề của sự sáng tạo, mà là vấn đề của sự truyền đạt. Chúa chúng ta giống như con người trong mỗi phương diện, trong các phương diện đã được ấn định bởi sự sáng tạo. Không nghi ngờ chi nữa, Luca đi vào từng chi tiết quan trọng để mô tả sự ra đời [sáng tạo] lạ lùng và có một không hai của Chúa chúng ta.
Cái khác biệt giữa việc thiếu bổn tánh tội lỗi nơi Chúa chúng ta và khuynh hướng bẩm sinh của con người đối với tội lỗi có thể được chỉ ra theo cách nầy. Một người nghiện rượu có khuynh hướng để nhận ra và dễ công nhận đối với rượu. Một lời nói bóng gió về chất liệu nầy có thể tạo ra một sự cám dỗ rất lạ thường. Một người không nghiện rượu không bị tác động bởi chất liệu nầy theo cách bóng gió ấy được, và vì có thể sống gần kề với chất đó mà không có một sự mến khích hay cám dỗ nào. Cũng một thể ấy đối với mọi sự xui giục phải phạm tội của Satan. Hết thảy mọi người, giống như người nghiện rượu, đều có khuynh hướng chiều theo tội lỗi và vì thế bị nó cám dỗ. Cho nên, chúng ta phải cầu nguyện: “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ”. Mặt khác, Chúa chúng ta, không có lựa chọn hấp dẫn đó, và vì thế Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể dẫn Ngài vào trong sự cám dỗ và Ngài sẽ đắc thắng nổi bật lên.
Thật đúng như thế, vì Chúa chúng ta đã được tự do ở ngoài tội lỗi để Ngài có thể chịu chết như người mang lấy tội lỗi của thế gian. Mặt khác, tác giả thơ Hêbơrơ sốt sắng nhấn mạnh các phương thức mà Chúa chúng ta đã đồng hoá với cả nhân loại trong đó. Đặc biệt, tôi tin rằng Chúa chúng ta đã đồng hoá với hạng người sa ngã bằng cách khoác lấy những nổi yếu đuối cùng các giới hạn. Nghĩa là, trong sự Satan cám dỗ Chúa chúng ta tôi tin rằng Ngài đã chọn không sử dụng một quyền phép nào có quan hệ với Thần Tính của Ngài, nhưng đắc thắng nổi bật lên khỏi sự cám dỗ bằng cách sử dụng các năng lực sẵn có cho mỗi một con cái của Đức Chúa Trời. Giống như chúng ta không thể cưỡng lại đối với tội lỗi và Satan trong các khả năng tự nhiên của mình, cũng một thể ấy trong việc gạt qua một bên sự sử dụng quyền phép thiêng liêng của Ngài, Chúa chúng ta buộc phải sử dụng chính những khả năng mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta. Tác giả thơ Hêbơrơ nhấn mạnh nổi “yếu đuối” tạm thời và tình nguyện nầy của Chúa chúng ta khi ông nói:
“Nhưng Đức Chúa Jêsus nầy, mà đã ở dưới các thiên sứ một chút, chúng ta thấy Ngài, vì sự chết Ngài đã chịu được đội mão triều vinh hiển tôn trọng. Ay vậy, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Jêsus đã vì mọi người nếm sự chết” (Hêbơrơ 2.9).
Đấng Christ đã đồng hoá với con người, đã gánh lấy mọi nỗi yếu đuối của con người và tạm thời gạt qua một bên sự sử dụng quyền phép bẩm sinh của Ngài. Năng lực bởi đó Ngài đắc thắng Satan và đảm đương chức vụ là năng lực mà Ngài đã có trong sự thần phục đối với ý chỉ và Lời của Đức Chúa Trời, trong sự nương cậy và Đức Thánh Linh. Vì thế Đấng Christ, mặc dù Ngài không có một bổn tánh tội lỗi, đã kinh nghiệm cuộc vật vã đối với tội lỗi mà con người vốn có trong nhân tánh của họ. Ngài đã không đánh bại Satan và kháng cự cơn cám dỗ với quyền phép thiêng liêng [bên trong] của Ngài, mà Ngài đã đánh bại Satan bằng chính các phương tiện đã được cung ứng cho chúng ta – Thánh Linh của Đức Chúa Trời, Lời của Đức Chúa Trời, và sự thờ lạy Đức Chúa Trời.
Phần kết luận
Bài học đầu tiên mà chúng ta có thể tiếp thu từ phân đoạn Kinh Thánh là phải xác nhận sự cám dỗ bằng cách nào!?! Hãy để tôi đề nghị một số thử nghiệm về sự cám dỗ, dựa theo các đặc điểm của sự cám dỗ, đã chỉ ra ở phần bài học nầy:
(1) Ai hay cái gì là nguồn của sự đề nghị? Tôi có thể tin vào người xúi giục hay không? Có phải [ông hay bà ấy] là hạng người có tên tuổi hay không? Họ sẽ có lợi gì?
(2) Đâu là những hậu quả lâu dài của hành động đã được đề nghị? Có phải tôi thấy thích thú ngay tức thì, nhưng còn cái giá của mọi lợi ích? Có phải lợi ích kéo dài, hay nó chỉ mau mau?
(3) Cơ hội dẫn tới động lực hay ham muốn nào?
(4) Hành động đã được đề nghị có phù hợp với Lời của Đức Chúa Trời không? Có một ngăn trở nào theo Kinh Thánh cấm đoán điều đó không? Có một đòi hỏi nào theo Kinh Thánh buộc phải làm điều đó không? Có phải đó là một vấn đề của quyền tự do hay giải phóng cá nhân không?
(5) Lời đề nghị đó có phù hợp với các mục tiêu và sự kêu gọi của tôi trong cuộc sống không? Với mọi điều ưu tiên của tôi? Với mọi giá trị của tôi?
(6) Lời đề nghị ấy tác động ra sao với cách ăn ở của tôi với Đức Chúa Trời? Liệu nó có kéo tôi đến gần Chúa không? Việc ấy có khiến tôi càng nương cậy vào Ngài càng hơn không? Lời đề nghị đó có làm cho sự thờ phượng của tôi càng được nâng cao và phong phú không? Nó có làm cho đức tin tôi mạnh mẽ hơn không?
(7) Đâu là giá của nó? Đâu là cái giá tận cùng bằng số của nó? Đâu là cái giá kín giấu? Ai sẽ trả giá? Có phải lời đề nghị đó khiến tôi có thể làm lợi cho nhiều người khác, hoặc nhiều người khác sẽ làm lợi ích cho tôi? (lý tưởng theo Kinh Thánh)
(8) Có phải tôi mau mau hành động, hơn là suy nghĩ thật kỹ lưỡng vấn đề? Há cách xử lý thực sự không hữu hiệu trong tương lai? Tại sao không?
(9) Phần nghiên cứu hay tra xét kỹ càng có được khuyến khích và được phép không? Có phải kẻ xúi giục muốn tôi kiểm tra lại lời đề nghị, hay phải hành động mau chóng?
(10) Tôi có xem xét lời đề nghị nầy vì tôi cảm thấy mình phải xác minh điều chi đó cho ai chăng?
Thêm vào “những bài tập về sự cám dỗ” như thế nầy, chúng ta có một số nguyên tắc có quan hệ với đời sống hàng ngày của chúng ta.
Nguyên tắc Một: Chịu cám dỗ không phải là tội lỗi. Tôi biết có nhiều người đang cố gắng vượt qua cơn cám dỗ. Thật vậy, họ đã vượt qua. Quý vị sẽ nhớ lại “Lót công bình” đã bực tức khi ông nhìn thấy tội lỗi ở quanh ông. Nhưng trong khi chúng ta tỏ ra bực bội bởi cơn cám dỗ, chúng ta không cảm thấy tội lỗi về sự chịu cám dỗ. Nếu Chúa chúng ta bị cám dỗ vượt quá sự cám dỗ mà bất cứ ai đã chịu và đã không phạm tội, thì chúng ta phải kết luận rằng chịu cám dỗ không phải là một tội lỗi. Những gì chúng ta có thể làm với cơn cám dỗ đó có thể trở thành một vấn đề của tội lỗi.
Nguyên tắc Hai: Không một cơn cám dỗ nào vượt quá khả năng đề kháng của chúng ta. Nếu quý vị chấp nhận phần tóm tắt Chúa chúng ta đã đối diện với mọi cơn cám dỗ của Satan với cùng các phương tiện thiêng liêng đã được trang bị giống như các phương tiện mà Đức Chúa Trời đã ban cho từng Cơ đốc nhân và đã đắc thắng nổi bật lên, thì chúng ta phải kết luận rằng không có một cơn cám dỗ nào đến với chúng ta vượt quá khả năng đề kháng mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Phaolô đã trình bày như sau trong một thư tín ông gửi cho người thành Côrinhtô:
“Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được” (I Côrinhtô 10.13).
Trong chương đầu tiên của thư tín thứ nhất, sứ đồ Phierơ nói gần như cùng một sự việc, chỉ thêm chi tiết thôi. Ông nhắc độc giả của ông nhớ rằng Đức Chúa Trời bởi quyền phép thiêng liêng của Ngài đã: “ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta” (I Phierơ 1.3). Đức Chúa Trời không cần phải tiếp trợ thêm điều chi nữa. Cơ đốc nhân cần phải tiếp lấy làm của riêng mọi điều mà Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho rồi. Ngài đã ban cho chúng ta Lời của Ngài và Thánh Linh Ngài. Khi chúng ta được dẫn dắt và cai quản bởi những phần này. Chúng ta sẽ kinh nghiệm sự thắng hơn tội lỗi và sự cám dỗ. Sẽ chẳng có sự trọn lành trong đời này, nhưng sẽ có và có thể tấn tới ở trong đó.
Có lẽ quý vị có nghe nói ai đó đang gắng sức xưng công bình tội lỗi của họ bằng cách phát biểu giống như vầy: “Tôi chỉ là một con người mà thôi”. Trong ý nghĩa nầy, Chúa chúng ta cũng vậy, Ngài đã sử dụng các phương tiện xử lý với những quả tạc đạn của Satan ngay từ xa. Cũng thế, các thánh đồ thuộc mọi thời đại, họ đã kháng cự lại tội lỗi và sự cám dỗ.
Nguyên tắc Ba: Cám dỗ không bao giờ trở lại hay xuất hiện lại với chúng ta một khi nó đã bị thắng hơn rồi. Chúa chúng ta đã nổi bật lên đắc thắng khỏi những cơn cám dỗ nầy, vì Chúa chúng ta đã thắng hơn không có nghĩa là Satan rút tay hắn lại và thối lui đâu. Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta có những lời nầy:
“Ma quỉ dùng hết cách cám dỗ Ngài rồi, bèn tạm lìa Ngài” (Luca 4.13).
Người ta có thể nhìn thấy cũng chính những cơn cám dỗ ấy khi đời sống của Chúa chúng ta cứ tiếp tục được tường trình lại trong bốn sách Tin lành, đôi khi nơi môi miệng của kẻ thù Chúa Jêsus, và đôi khi nơi môi miệng của hàng môn đồ Ngài (thí dụ Mathiơ 16.23).
Nguyên tắc Bốn: Không một cơn cám dỗ nào là đặc biệt đối với chúng ta, vì chẳng có một tiền tệ hay nguyên tắc nào theo Kinh Thánh. Trong I Côrinhtô 10.13 chúng ta được truyền cho biết rằng chẳng có một sự cám dỗ nào đến với chúng ta mà quá sức loài người. Không một sự cám dỗ nào là đặc biệt hết. Mỗi cơn cám dỗ mà chúng ta sẽ đối mặt thì đã được đối diện trước đó rồi, nhiều lần lắm. Thậm chí những cơn cám dỗ của Chúa chúng ta không phải là đặc biệt lắm đâu. Về từng cơn cám dỗ, Chúa chúng ta đã tìm thấy một sự song hành theo nguyên tắc trong lịch sử Ysơraên, và vì thế Ngài đã từ chối Satan bằng cách liệt kê ra nguyên tắc Kinh Thánh từ Cựu ước.
Thường thì tôi có nghe người ta xưng công bình các hành động của họ bằng cách xưng công bình hoàn cảnh đặc biệt của họ và sự cám dỗ là rất đặc biệt. Họ nói rất hăng say: “Chưa có ai từng đối diện với hoàn cảnh mà tôi đã ở trong đó, và nếuuhọ lâm vào, thì họ cũng sẽ phạm tội thôi”.
Tác giả thơ Hêbơrơ cho chúng ta biết Chúa Jêsus đã bị thử nghiệm trong từng lãnh vực, và câu chuyện của chúng ta trong sách Luca ủng hộ vấn đề nầy (đối chiếu Luca 4.2, 13). Một khi những sự cám dỗ của chúng ta không có gì đặc biệt, Chúa chúng ta đã đối diện với nó trước đó (với quyền phép Đức Chúa Trời tiếp trợ cho mọi con cái của Ngài), và các thánh đồ đã đối diện với chúng trước đây, một cách đắc thắng.
Nguyên tắc Năm: Cổ vũ là sự đối lập hoàn toàn và là thuốc giải đối với sự cám dỗ theo Kinh Thánh. Khi tôi suy nghĩ về vấn đề cám dỗ thì tôi thấy rằng chúng ta có thể hiểu rõ cám dỗ hơn theo ánh sáng đối ngược lại với nó. Cái gì là sự đối lập lại hoàn toàn trước sự cám dỗ? Tôi tin là chính sự cổ vũ – sự khích lệ. Nếu cám dỗ là sự xui giục phải làm theo điều chi đó sai lầm, sự cổ vũ là niềm khích lệ phải làm theo điều chi là đúng. Đây là một lợi thế mà chúng ta có trong khi Chúa chúng ta không có. Thậm chí các môn đồ thân tín nhất của Ngài đã thất bại không nắm bắt được những gì Đức Chúa Trời kêu gọi Chúa chúng ta phải làm theo – phải chết như hàng tội phạm trên thập tự giá của người La mã, phải gánh lấy tội lỗi của cả nhân loại. Vì thế, lẽ ra phải khích lệ Chúa chúng ta, họ đã kháng cự lại thực tại sự kêu gọi của đời sống Ngài. Chính Phierơ đã quở trách Chúa chúng ta vì đã nói về cái chết hầu đến của Ngài tại thành Giêrusalem ở Mathiơ 16.
Kinh Thánh thường khuyên các thánh đồ phải khích lệ lẫn nhau:
“Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trông cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín. Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; chớ bỏ sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (Hêbơrơ 10.23-25).
“Hỡi anh em, về phần anh em, tôi cũng tin chắc rằng anh em có đầy lòng nhân từ, đủ điều thông biết trọn vẹn, lại có tài khuyên bảo nhau” (Rôma 15.14).
“Vậy thì anh em hãy khuyên bảo nhau, gây dựng cho nhau, như anh em vẫn thường làm. Nhưng, hỡi anh em, xin anh em hãy răn bảo những kẻ ăn ở bậy bạ, yên ủi những kẻ ngã lòng, nâng đỡ những kẻ yếu đuối, phải nhịn nhục đối với mọi người” (I Têsalônica 5.11, 14).
Sự khích lệ, khuyên bảo khiến cho Cơ đốc nhân đến bên cạnh nhau, cảnh tỉnh con người [nam hay nữ] về các hậu quả của việc theo đuổi con đường tội lỗi, và nhắc nhở rằng họ cần phải theo đuổi con đường công bình. Đây là một trong những khả năng thiêng liêng của Đức Chúa Trời chống nghịch lại tội lỗi.
Nguyên tắc Sáu: Chúa chúng ta xử lý tích cực với sự cám dỗ, chớ không phải tiêu cực. Tôi không nói về loại “suy nghĩ tích cực” được nhiều người ưa chuộng hôm nay. Đúng hơn, tôi muốn nhấn mạnh rằng Satan dường như đang phấn đấu để khiến cho thánh đồ phải suy nghĩ tiêu cực, suy nghĩ trong những giới hạn của sự việc mà người [nam hay nữ] không thể làm được, hơn là trong các giới hạn của sự tự do mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Cho nên, thay vì chỉ ra hết thảy những cây mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ađam và Êva để ăn thì Satan lại kéo sự chú ý của họ đến một cây duy nhất mà họ không thể ăn được. Mỗi đề xướng của Satan hầu khiến cho Chúa chúng ta phải suy thoái, sở dĩ Ngài không chịu vì Ngài đang theo đuổi một điều xứng đáng tích cực, cao cả hơn. Ngài không suy nghĩ theo một giới hạn của sự đói khát của mình, mà theo các giới hạn của tính ưu việt của đời sống mình trong sự vâng phục đối với Lời của Đức Chúa Trời. Giống như một vận động viên Olympic vui sướng lìa bỏ một số việc hầu đạt được “phần thưởng tốt hơn”, cũng một thể ấy Chúa chúng ta đã xem xét những việc mà Satan cung hiến và Ngài đã từ chối.
Có một bài học chót cần phải tiếp thu từ phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta chưa hiểu ra tức thì được, nhưng lại rất quan trọng cho một sự hiểu biết về bản chất của nước của mà Chúa chúng ta được chỉ định làm Vua nước ấy. Bản chất của nước ấy là bản chất tương tự như hệ điều hành của một máy vi tính vậy. Máy vi tính là một loại thiết bị rất kỳ diệu, nhưng nó không có một giá trị gì trừ phi có một hệ điều hành xác định phương thức nhiều thành phần của máy tính sẽ đi vào hoạt động. Hệ điều hành phải luôn luôn hoạt động, thậm chí dù người sử dụng máy chẳng nhìn thấy nó rõ ràng. Trong trường hợp quý vị đang thực hiện công đoạn xử lý văn bản, sử dụng cơ sở dữ liệu, hệ điều hành âm thầm thực hiện công việc của nó. Gây trở ngại với hệ điều hành thì chương trình sẽ bị tắt nghẽn ngay. Trong sự cám dỗ của Chúa chúng ta, Satan đang tìm cách làm “tắt nghẽn hệ thống”, “phá hỏng chương trình” của nước Đức Chúa Trời. Hắn đang tìm cách làm thế bằng sự thay đổi các nguyên tắc chính mà Đức Chúa Trời đang dựa trên đó.
Nói cách đơn giản, “hệ điều hành” của Satan là hệ đặt cơ sở trên quyền phép rất non nớt, trong khi quyền phép của Chúa chúng ta dựa trên tình yêu thương. Xuyên suốt sự cám dỗ của Chúa chúng ta Satan đã thách thức Chúa Jêsus phải minh chứng địa vị làm con của Ngài và thiết lập nước của Ngài bằng cách sử dụng quyền phép của mình, bằng cách buộc mọi vật phải y theo mọi nhu cần và ước muốn của Ngài. Dĩ nhiên, đây quả là đường lối mà Satan đang vận hành. Tôi chưa hề nghe có người nào trở thành môn đệ của Satan vì cớ tình yêu thương, mà chỉ vì quyền lực mà thôi. Họ sợ hãi quyền lực của Satan và hầu việc hắn để cho hắn nguôi lòng, hoặc họ muốn sử dụng quyền lực của hắn để làm lợi cho chính họ mà thôi.
Nước của Chúa chúng ta không dựa trên quyền thế quá non tay, mà dựa trên tình yêu thương. Đấng Christ không bắt buộc con người phải là một phần của nước Ngài do sự sử dụng quyền lực của Ngài, song lôi kéo họ đến với chính mình Ngài và nước Ngài bằng tình yêu thương. Bài Giảng Trên Núi chính là “bản hiến pháp của quốc gia”. Thay vì trả đũa, một người phải đưa luôn má bên kia. Thay vì một nước được dựng nên giàu có và đầy quyền lực, đó là một nước nhu mì, của những người làm nên sự hoà bình. Lý do rất đơn giản: con người sẽ không bước vào nước ấy trên nền tảng công lao của họ [sức lực, giàu có, uy quyền], mà trên nền tảng huyết của Đấng Mêsi đã đổ ra.
Các môn đồ của Chúa chúng ta thường phạm phải sự suy nghĩ trong các giới hạn của quyền lực, hơn là tình yêu thương, y như nhiều người khác vậy. Khi Chúa chúng ta bị chống đối, họ muốn sử dụng quyền lực của Đức Chúa Trời để quét sạch “kẻ thù” của họ (Luca 9.51-66). Khi các môn đồ suy nghĩ về nước, một trong những mối quan tâm chính của họ: ấy là địa vị quyền lực mà họ sẽ nắm giữ (Mác 9.33…). Khi Chúa Jêsus nói tới sự thương khó và sự chết của chính Ngài, song đã chống lại suy nghĩ đó (Mathiơ 16.21).
Mặt khác, tình yêu thương không chấp nhận quyền lực, mà tình yêu thương chính là quyền lực cao cả nhất. Sự sử dụng sức mạnh thúc đẩy nhóm kia phải chống lại với sức mạnh tương đương hay lớn lao hơn. Tình yêu thương giải giới nhóm đối lập, và tạo điều kiện cho người nầy phải thay đổi, và bước vào một mối giao thông của tình yêu và tình bạn chân chính. Thế lực của sức mạnh tuyệt đối mau chóng tan biến đi trong sự thiếu vắng kẻ môi giới quyền lực, còn thế lực của tình yêu thương cứ bám lấy mãi, lâu dài sau cả sự chết nữa.
Tôi không có ý mô tả sức mạnh và tình yêu như hai đối thủ, hai bên không xứng hợp với nhau. Tôi muốn nói rằng sức mạnh hay thế lực luôn luôn phải được tình yêu thương quản trị. Trong nước của Đức Chúa Trời, quyền phép của Đức Chúa Trời được tình yêu của Chúa soi dẫn. Tình yêu có thể đòi hỏi sự sử dụng sức mạnh hay thế lực, nhưng sức mạnh thường được sử dụng mà chẳng có tình yêu thương.
Tôi tin rằng mối quan hệ giữa sức mạnh và tình yêu thương là một trong những vấn nạn khó khăn nhất trong kinh nghiệm của Cơ đốc nhân. Các thánh đồ người thành Côrinhtô đều sợ đụng chạm tới quyền lực, nhưng họ lại thiếu đi tình yêu thương. Cơ đốc nhân bị quyến rũ bởi hạng người “lôi cuốn”, có sức thuyết phục và đầy quyền lực. Họ rất tự hào nơi cấp lãnh đạo của họ. Họ tự kiêu khi thấy mình được ơn, là điều mà họ xem là bằng chứng của quyền lực thuộc linh cao cả hơn. Chương 13 của sách I Côrinhtô đã nhấn mạnh về tính siêu việt của tình yêu thương.
Hội thánh Êphêsô, như đã được mô tả ở chương hai sách Khải huyền (ácc câu 1-7) đã được đánh dấu bằng tình trạng thanh sạch và sự bền đỗ của nó, nhưng nó lại bị quở trách vì thiếu tình yêu thương. Toàn bộ luật pháp Cựu ước đã được tóm tắt lại bằng hai điều răn, cả hai đều là tình yêu thương. Mục tiêu huấn thị của Phaolô là tình yêu thương (I Timôthê 1.5). điều đánh dấu các môn đồ của Chúa chúng ta: ấy là tình yêu của họ dành cho nhau (Giăng 13.35). Chính tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho thế gian mới đưa Đức Chúa Jêsus Christ vào trong thế gian, bị con người chối bỏ, và chịu chết để con người được cứu rỗi (Giăng 3.16). Tình yêu thương là một thứ mà Satan không thể với tới được, và là điều hắn mong muốn đẩy Chúa ra khỏi đó. Nền tảng của nước Satan là quyền lực và sợ hãi, nền tảng của Chúa chúng ta là tình yêu thương, không còn sợ hãi nữa.
Mối quan hệ giữa tình yêu thương và quyền lực nâng cao mức độ hiểu biết của tôi lên. Trong thơ Êphêsô chúng ta đọc:
“Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó” (Êphêsô 6.4).
Giải thích cho câu gốc nầy có rất nhiều. Thắc mắc luôn luôn là: “Tại sao những người làm cha bị coi là đang ở trong mối nguy hiểm khi họ chọc giận con cái của họ, khi những người làm mẹ thì không phải như vậy?” Tôi nghĩ câu trả lời phải như sau: “Ấy là những người làm cha đều có khuynh hướng phải sử dụng tới quyền lực, sức mạnh, uy quyền, hơn là dựa vào tình yêu thương”. “Đừng hỏi tại sao. Hãy làm theo đi”. “Vì ba bảo con phải làm theo y như vậy!” Cách dễ dàng nhất để mọi việc được làm xong là vận dụng quyền lực. Nhưng kỷ luật và sự dạy dỗ là sản phẩm của tình yêu thương, chớ không phải sản phẩm của quyền lực bao giờ (đối chiếu Hêbơrơ 12). Hãy chú ý Chúa chúng ta kêu gọi các môn đồ Ngài phải vâng theo Ngài xuất phát từ sự kính sợ Ngài (đối chiếu Giăng 15).
Còn đây là lời khuyên những người làm chồng, cũng từa tựa thể ấy:
“Cũng một thể ấy, chồng phải yêu vợ như chính thân mình. Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy. Vì chẳng hề có người nào ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng săn sóc nó như Đấng Christ đối với Hội thánh, vì chúng ta là các chi thể của thân Ngài” (Hêbơrơ 5.28-30).
Tại sao những người làm vợ không được truyền cho phải yêu chồng mình, trong khi những người làm chồng lại được truyền cho phải yêu vợ mình? Tôi nghĩ câu trả lời là đây: Những người làm chồng vốn có uy quyền cao hơn, và vì thế bị cám dỗ phải vận dụng tới quyền lực của họ, hơn là phải yêu thương khi yêu thương là nguyên tắc chính và là động lực chính trong mối quan hệ của họ với vợ của họ. Mạng lệnh từ Kinh Thánh dành cho những người làm vợ là phải thuận phục trong Êphêsô 5 đang trở thành một cây gậy trong hai bàn tay của người chồng không biết yêu thương, họ sử dụng những câu Kinh Thánh nầy để làm tăng thêm địa vị và quyền lực của họ, chớ không làm nâng cao vợ mình, giống như Đấng Christ đã phó chính mình Ngài vì Hội thánh.
Theo quan điểm của tôi, thì Satan, không cứ cách nào đó giống như “sát thủ” [hacker] trong máy vi tính, hắn đang cố gắng “phá hỏng chương trình” mà Đức Chúa Trời đã có cho Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ. Hắn đang ra sức đẩy Chúa chúng ta ra khỏi con đường yêu thương (dành cho đức tin và con người), sự thuận phục (theo ý chỉ của Đức Chúa Trời) và sự phục vụ. Tôi tin chắc rằng trong những lãnh vực nầy hầu hết Cơ đốc nhân đều bị cám dỗ và đã thất bại. Chúng ta hãy tìm cách bước đi trên con đường yêu thương, bằng quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời, đến với sự vinh hiển Ngài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét