Thứ Ba, 18 tháng 5, 2010

Luca 10.1-16: "KHI CÁ NHÂN CHỨNG ĐẠO KHÔNG THÍCH NGHI"



Phần giới thiệu
Tiếp cận
Cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh
Bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh
Vấn nạn trong phân đoạn Kinh Thánh
Việc sai phái 70 môn đồ là phải đến với các thành phố.
Tại sao phải rao giảng ở chỗ đông người và không nên cá nhân chứng đạo?
Việc sai phái 70 môn đồ và sách Công Vụ các Sứ đồ
Những phân đoạn Kinh Thánh đang dạy điều gì cho chúng ta
BÀI 34
KHI CÁ NHÂN CHỨNG ĐẠO KHÔNG THÍCH NGHI
(Luca 10.1-16)
Phần giới thiệu
Trong bài học rồi tôi đã nói cho quý vị biết rằng đang khi “bò thiêng làm thịt hamburger rất ngon”, người nào xay thịt hamburger chẳng được nhiều người ưa chuộng lắm đâu. Và thế tôi phải nói “gia đình” là một con bò thiêng, một con bò mà, đối với nhiều Cơ đốc nhân, là một sự cáo lỗi cho việc không đi theo Đấng Christ, là mối ngăn trở cho địa vị môn đồ của họ, hơn là một sự bày tỏ ra địa vị ấy. Hiển nhiên một số người trong quý vị đồng ý rằng sự dạy đó là một vấn đề đem lại nhiều sự va chạm. Một phụ nữ đứng dạy ở Lớp Trường Chúa Nhật đã đến gặp tôi ngay trước giờ nhóm rồi đáp: “Tôi không sẵn lòng đứng nghe bài giảng của ông ấy bởi vì tôi sẽ trở lại vào bài giảng sau. Tôi sẽ nghe ông giảng trên băng ghi âm. Tôi thực sự lấy làm tiếc về chuyện nầy – tôi muốn dự khán ở đó rồi quan sát cảnh ném đá”.
Tuần nầy, tôi muốn bình lặng hơn. Tôi chẳng muốn tranh cãi chi và muốn tích cực hơn. Tôi muốn như thế, song lại không thể được. Tôi không thể tránh được cảnh phải chỉ tay vào “bò thiêng” khác trong lối tư duy Cơ đốc. Tuần nầy chúng ta sẽ tìm cách xay một miếng hamburger nhỏ từ bò thiêng khác, và con bò đó chính là: “chứng đạo cá nhân”.
Trước khi tôi tiến xa hơn, tôi thấy xác định rõ ràng từ ngữ: “chứng đạo cá nhân” là một việc rất cần thiết. Đây không phải là thuật ngữ của Kinh Thánh, và vì thế là từ ngữ rất dễ bị hiểu lầm. Qua từ ngữ: “cá nhân chứng đạo” tôi muốn nói tới việc chia sẻ đức tin mà chúng ta đã thực hiện trên cơ sở một cặp một, cách chứng đạo ấy chúng ta thực hiện trên cấp độ quen biết thân mật, với những người mà chúng ta quen thuộc, hoặc tìm cách làm quen theo cách riêng. Nói ngắn gọn, “chứng đạo cá nhân” là “làm chứng riêng tư” hay “cá nhân hoá việc truyền đạo”. Chúa Jêsus đã thực hành “cá nhân chứng đạo” khi Ngài phán với Nicôđem ở sách Giăng chương 3, và một lần nữa trong cách ứng xử với người đờn bà Samari trong Giăng 4. Tin lành đã được ứng dụng trong bối cảnh tội lỗi, và nhu cần riêng của người mà Ngài gặp gỡ.
Cá nhân chứng đạo, giống như gia đình, là một việc rất kỳ diệu. Xin cho phép tôi nhắc cho quý vị nhớ rằng đây luôn luôn là “một việc tốt”, việc ấy đang trở thành một loại “bò thiêng”. Cá nhân chứng đạo là một việc rất kỳ diệu. Đa số trong quý vị đều có được đức tin nơi Đấng Christ qua sự làm chứng và truyền đạo cá nhân của một người quen biết. Thế nhưng cá nhân chứng đạo dường như đã trở thành phương tiện truyền giáo, hơn là phương tiện đem người hư mất đến với Đấng Christ. Đó là phương pháp mà hầu hết chúng ta đều ưa thích. Đó là phương pháp truyền đạo khác, bất cứ lúc nào. Khi chúng ta cứ khư khư sử dụng phương pháp “cá nhân chứng đạo” lúc chúng ta đang dùng phương pháp khác, chúng ta đã biến phương pháp ấy thành một con bò thiêng, và đấy là lúc phải làm thành thịt hamburger.
Trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, Chúa chúng ta phán ra một việc gây kinh ngạc rất nhiều. Thực ra, Ngài đang ngăn cấm các môn đồ nào đã được sai đi truyền đạo đừng chứng đạo theo cách cá nhân. Ngài cấm họ đừng chào ai dọc đường và họ được lệnh đừng đi “nhà nầy sang nhà khác”. Khi nào thì cá nhân chứng đạo là phương pháp sai, và tại sao phương pháp ấy lại sai chứ? Đấy mới là chỗ căng thẳng của phân đoạn Kinh Thánh. Phần nghiên cứu của chúng ta cung ứng cho chúng ta giải đáp cho mọi thắc mắc nầy.
Tiếp cận
Phần tiếp cận của chúng ta trong bài học nầy trước tiên là phải hiểu rõ những điều Chúa Jêsus đang tìm cách thâu đạt được khi sai phái 70 môn đồ ra đi – mục tiêu của chiến dịch truyền giáo nầy. Kế đó, chúng ta sẽ xét qua các phương pháp mà Chúa Jêsus đã đề ra cho 70 môn đồ và họ có quan hệ thể nào với mục tiêu của sứ mệnh. Tiếp đến, chúng ta sẽ tìm cách xét qua các lý do tại sao chỉ có một mình Luca tường thuật lại sự kiện nầy, và Ngài mong muốn chúng ta tiếp thu điều chi từ sự kiện đó, đặc biệt khi sự kiện đó có quan hệ với công tác rao giảng tin lành liên tục, như chúng ta đang nhìn thấy sự kiện nầy được mô tả trong sách thứ hai của Luca, sách Công vụ các sứ đồ. Sau cùng, chúng ta sẽ tìm cách nhận dạng các nguyên tắc ấy cùng mọi ứng dụng của chúng, những điều có quan hệ thật nhiều với chúng ta về thời buổi chúng ta y như chúng có quan hệ với các môn đồ vậy.
Cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh
Luca 10.1-16 được chia ra thành vài phân đoạn sau:
Các câu 1-3: Phần uỷ nhiệm của Chúa Jêsus và 70 môn đồ
Các câu 4-9: Các phương pháp của Chúa Jêsus và 70 môn đồ
Các câu 10-12: Huấn thị của Chúa Jêsus căn cứ theo đáp ứng hay chối bỏ
Các câu 13-16: Lời quở trách của Chúa Jêsus về việc chối bỏ các thành phố
Bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh
Luca chương 9 là phần nền cho phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta trong chương 10. Phân đoạn nầy bắt đầu với việc sai 70 môn đồ ra đi. Tường trình về mối lo âu của Hêrốt với lai lịch của Chúa Jêsus được nối theo sau bằng việc cho 5000 người ăn. Sau sự việc nầy, lời tuyên xưng long trọng của Phierơ đã được ghi lại, theo sau là sự hoá hình của Chúa Jêsus. Sau khi Chúa chúng ta trở lại cùng với ba môn đồ từ đỉnh núi xuống, các mối ngăn trở khác nhau cho địa vị môn đồ đã được mô tả:
Thiếu quyền năng – phản ảnh qua sự bất khả không đuổi được quỷ ra khỏi cậu bé con kia
Thiếu hiệp một – phản ảnh qua cuộc tranh cãi ai là lớn nhất
Thiếu lòng thương xót – phản ảnh qua ao ước của họ muốn thiêu đốt thành Samari
Thiếu sự đầu phục – như đã được thấy trong các lý do của con người cho việc không lập tức đi theo Đấng Christ
Hai chữ đầu trong câu 1 chương 10 (“Kế đó...”) cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa việc sai 70 môn đồ ra đi và phần văn mạch đứng trước đó. Việc sai phái 70 môn đồ có quan hệ với việc sai phái 12 môn đồ ra đi (Luca 9.1-6) và huấn thị của Chúa về địa vị môn đồ Luca 9.37-62).
Vấn nạn trong phân đoạn Kinh Thánh
Khi tham khảo phần giải thích, có hai vấn nạn thường được nhắc tới. Tôi chỉ tóm tắt hai phần nầy mà thôi. Vấn nạn thứ nhất cần phải giải quyết với sự khác biệt trong các phân đoạn Kinh Thánh về con số các môn đồ đã được sai phái. Một số phân đoạn đọc 70, trong khi các phân đoạn khác đọc là 72. Theo cách thức nào đó, đây là vấn nạn thuộc về bản gốc, điều nầy cũng dễ giải thích, cho dù vấn nạn không được giải quyết dễ dàng hay mau chóng. Nói theo cách khác thì đây là vấn nạn chẳng có gì là trầm trọng lắm. Ý nghĩa và ứng dụng của phân đoạn Kinh Thánh không có gì khác biệt.
Vấn nạn thứ hai là phân đoạn Kinh Thánh nầy là một sự vui thích cho học viên Kinh Thánh. Họ thích chỉ ra sự thật câu chuyện sai phái 70 môn đồ ra đi chỉ được thấy trong sách tin lành Luca mà thôi, và trong câu chuyện nầy có nhiều điểm tương tự với việc sai phái 12 môn đồ ra đi. Dù vậy, họ rơi vào chỗ sai lầm khi nghĩ rằng câu chuyện nầy là một sự bịa đặt nơi phần Luca, để thiết lập các lý thuyết thiên về lịch sử của chính ông.
Khi hai lần sai phái (trong câu chuyện của Luca) được đặt song đối với nhau, có một số điểm tương tự nhau rất rõ ràng, và có chủ định:
a. Luca 9.1-5: “Đức Chúa Jêsus nhóm họp mười hai sứ đồ, ban quyền năng phép tắc để trị quỉ chữa bịnh. Rồi Ngài sai đi rao giảng về nước Đức Chúa Trời cùng chữa lành kẻ có bịnh. Ngài dạy rằng: Đi đường chớ đem gì theo hết, hoặc gậy, hoặc bao, hoặc bánh, hoặc tiền bạc; cũng đừng đem hai áo. Hễ các ngươi vào nhà nào, hãy ở đó cho đến khi đi. Còn ai không tiếp rước các ngươi, hãy ra khỏi thành họ, và phủi bụi chân mình để làm chứng nghịch cùng họ”.
b. Luca 10.1-24: “Kế đó, Chúa chọn bảy mươi môn đồ khác, sai từng đôi đi trước Ngài, đến các thành các chỗ mà chính Ngài sẽ đi. Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình. Hãy đi; nầy, ta sai các ngươi đi, khác nào như chiên con ở giữa bầy muông sói. Đừng đem túi, bao, giày, và đừng chào ai dọc đường. Hễ các ngươi vào nhà nào, trước hết hãy nói rằng: Cầu sự bình an cho nhà nầy! Nếu nhà đó có người nào đáng được bình an, sự bình an của các ngươi sẽ giáng cho họ; bằng không, sẽ trở về các ngươi. Hãy ở nhà đó, ăn uống đồ người ta sẽ cho các ngươi, vì người làm công đáng được tiền lương mình. Đừng đi nhà nầy sang nhà khác. Hễ các ngươi vào thành nào, mà người ta tiếp rước, hãy ăn đồ họ sẽ dọn cho. Hãy chữa kẻ bịnh ở đó, và nói với họ rằng: Nước Đức Chúa Trời đến gần các ngươi. Song hễ các ngươi vào thành nào, họ không tiếp rước, hãy đi ra ngoài chợ, mà nói rằng: Đối với các ngươi, chúng ta cũng phủi bụi của thành các ngươi đã dính chân chúng ta; nhưng phải biết nước Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi. Ta phán cùng các ngươi, đến ngày cuối cùng, thành Sô-đôm sẽ chịu nhẹ hơn thành nầy. Khốn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn cho mầy, thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và thành Si-đôn, thì hai thành ấy đã mặc áo gai và đội tro mà ăn năn từ lâu rồi. Vậy, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu nhẹ hơn bay. Còn mầy, thành Ca-bê-na-um, mầy sẽ được nhắc lên tận trời sao? Không, sẽ bị hạ xuống tới dưới Âm phủ! Ai nghe các ngươi, ấy là nghe ta; ai bỏ các ngươi, ấy là bỏ ta; còn ai bỏ ta, ấy là bỏ Đấng đã sai ta. Bảy mươi môn đồ trở về cách vui vẻ, thưa rằng: Lạy Chúa, vì danh Chúa, các quỉ cũng phục chúng tôi. Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã thấy quỉ Sa-tan từ trời sa xuống như chớp. Nầy, ta đã ban quyền cho các ngươi giày đạp rắn, bò cạp, và mọi quyền của kẻ nghịch dưới chân; không gì làm hại các ngươi được. Dầu vậy, chớ mừng vì các quỉ phục các ngươi; nhưng hãy mừng vì tên các ngươi đã ghi trên thiên đàng. Cũng giờ đó, Đức Chúa Jêsus nức lòng bởi Đức Thánh Linh, bèn nói rằng: Lạy Cha, là Chúa trời đất, tôi ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu những sự nầy với kẻ khôn ngoan, người sáng dạ, mà tỏ ra cho trẻ nhỏ hay! Thưa Cha, phải, thật như vậy, vì Cha đã thấy điều đó là tốt lành. Cha ta đã giao mọi sự cho ta; ngoài Cha không ai biết Con là ai; ngoài Con, và người nào mà Con muốn tỏ ra cùng, thì cũng không có ai biết Cha là ai. Đoạn, Ngài xây lại cùng môn đồ mà phán riêng rằng: Phước cho mắt nào được thấy điều các ngươi thấy! Vì ta nói cùng các ngươi, có nhiều đấng tiên tri và vua chúa ước ao thấy điều các ngươi thấy, mà chẳng từng thấy, ước ao nghe điều các ngươi nghe, mà chẳng từng nghe”.
Cho dù có nhiều điểm giống nhau, cũng có nhiều điểm khác biệt, và khác biệt rất quan trọng. Các điểm khác biệt nầy góp phần rất đặc biệt vào phân đoạn Kinh Thánh nầy, góp phần vào câu chuyện sai phái 12 môn đồ:
Trong Luca 9 chỉ có 12 môn đồ được sai phái. Còn bây giờ, có 70 môn đồ khác nữa
12 môn đồ được nhận biết như các cá nhân, còn 70 môn đồ kia thì không
12 môn đồ được sai phái từ xứ Gaililê, nhưng việc sai phái nầy thực hiện trên hành trình Chúa Jêsus đến tại thành Giêrusalem
12 môn đồ được truyền cho đừng giảng cho dân Ngoại hay cho người thành Samari, nhưng có một hàm ý rõ ràng việc sai phái nầy bao gồm cả dân Ngoại. Dường như đây là lãnh thổ của dân Ngoại, và chẳng cần phải giảng, nếu họ chỉ có mặt trong các nhà hội của người Do thái.
Việc sai phái 12 môn đồ dường như kết thúc chức vụ của Chúa Jêsus xứ Gailiê, còn việc sai 70 môn đồ lại có tính cách mở đầu
12 môn đồ được sai phái theo vị trí của Chúa Jêsus, còn 70 người kia thì là người tiền khu, được sai đi trước Chúa Jêsus (câu 1)
12 môn đồ được sai phái đi khắp mọi nơi, và có ấn tượng rằng họ đã đi tới những nơi xa xôi hẻo lánh, trước đây họ đã bị bỏ quên. Đây dường như là một sứ mệnh cho vùng sâu vùng xa. 70 môn đồ kia được sai đến các thành phố
Vậy thì, sức thúc đẩy chính yếu của việc sai phái 70 môn đồ nầy là gì, khi đặt đối chiếu với việc sai phái trong chương 9, những dấu hiệu nào cho chúng ta nhìn thấy ý nghĩa và phần ứng dụng của việc sai phái đó? Tôi nghĩ chìa khoá cho toàn bộ phân đoạn Kinh Thánh nằm ở đây: SỨC THÚC ĐẨY CỦA VIỆC SAI PHÁI 70 MÔN ĐỒ LÀ PHẢI ĐẾN VỚI CÁC THÀNH PHỐ.
Tôi không trưng dẫn chính bản thân mình, nhưng tôi muốn chia sẻ một điểm mà tôi đã đề ra khi tôi nghiên cứu phân đoạn Kinh Thánh để sửa soạn sứ điệp nầy. Tôi muốn đưa ra chìa khoá phân đoạn Kinh Thánh, chớ không biết điều chi đã làm ra chìa khoá ấy. Tôi viết:
“Có ‘phần nhấn mạnh về thành phố’ ở đây. Tôi có thể cảm nhận được nó song tôi không thể quyết định phải làm chi với cách nhấn mạnh ấy. Có phải chúng ta biết nhu cần của thành phố không? Thành phố nầy sao? Dallas? Richardson? Thành phố có biết tin lành không? Chính bản thân chúng ta từng dự trù (ở nhiều thời điểm) về cá nhân chứng đạo, nhưng tôi nghĩ có khía cạnh khác về truyền giáo ở đây. Thí dụ, Moody, và cái chạm của ông trên thành phố Chicago”.
Tôi bắt đầu với phần lưu ý rằng THÀNH PHỐ, vì lý do đó là học thuyết trung tâm, là sợi dây nối kết toàn bộ phân đoạn Kinh Thánh. Phần quan trọng đến với các thành thị dường như là tách việc sai phái 70 môn đồ với việc sai phái 12 môn đồ ra khác. Có một số thứ tự bị đảo lộn, tôi muốn quay lại với phân đoạn Kinh Thánh để chỉ ra thể nào học thuyết đến với thành thị cung ứng sự hiệp nhất và sự dễ hiểu cho phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta.
Chứng cớ rất quan trọng trong phân đoạn Kinh Thánh: ấy là THÀNH PHỐ chính là quan điểm trung tâm trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta. Trước tiên hãy chú ý số lần THÀNH PHỐ được nhắc tới trong phân đoạn Kinh Thánh:
Câu 1: “Các thành các chỗ”
Câu 8: “các ngươi vào thành nào”
Câu 10: “thành nào”
Câu 11: “bụi của thành các ngươi”
Câu 12: “thành nầy”
Các câu 13-16: “tất cả các thành thị bị quở trách”
Trong chương 9 chữ “thành” được nhắc tới có một lần (Luca 9.5), với “làng nầy tới làng kia” được nhắc tới nhiều hơn. Cũng hãy chú ý rằng đang khi chữ “thành” xuất hiện 5 lần trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, sáu thành phố đặc biệt được kể tên: Sôđôm, Côraxin, Bếtsaiđa, Tyrơ (2lần), Siđôn (2lần), và Cabênaum. Một số trong các thành nầy không được đề cập tới ở những chỗ khác.
Trong khi nói tới sự chối bỏ của các môn đồ, Chúa chúng ta nói nhiều về các thành phố hơn là nói về những cá nhân:
“Hễ các ngươi vào thành nào, mà người ta tiếp rước, hãy ăn đồ họ sẽ dọn cho. Hãy chữa kẻ bịnh ở đó, và nói với họ rằng: Nước Đức Chúa Trời đến gần các ngươi Song hễ các ngươi vào thành nào, họ không tiếp rước, hãy đi ra ngoài chợ, mà nói rằng: Đối với các ngươi, chúng ta cũng phủi bụi của thành các ngươi đã dính chân chúng ta; nhưng phải biết nước Đức Chúa Trời đã đến gần các ngươi rồi. Ta phán cùng các ngươi, đến ngày cuối cùng, thành Sô-đôm sẽ chịu nhẹ hơn thành nầy” (Luca 10.8-12).
Trong mấy lời nầy chúng ta thấy, khi các môn đồ sẽ bị những thành phố chối bỏ, và vì vậy các thành thị bị cảnh cáo về sự phán xét hầu đến của Đức Chúa Trời giáng trên thành phố, giống như các thành phố ngày xưa (như Sôđôm) đã bị Đức Chúa Trời đoán phạt.
Nếu mục tiêu của việc sai phái 70 môn đồ là tin lành sẽ được rao giảng trong các thành phố, thì đa phần trong các nan đề khó khăn do phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta dấy lên sẽ được giải quyết.
(1) Lời phán trong câu 2: “Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít” được giải thích. Nan đề với câu nói nầy: ấy là Chúa chúng ta đã nhắc đi nhắc lại dạy dỗ ở khắp mọi nơi là có ít người chọn “con đường hẹp” của sự cứu rỗi qua Ngài:
“Hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó cũng nhiều. Song cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ kiếm được thì ít” (Mathiơ 7.13-14).
“Bởi vì có nhiều kẻ được gọi, mà ít người được chọn” (Mathiơ 22.14).
Mấy câu nầy cho chúng ta biết đầy đủ rằng Chúa Jêsus đang trên đường vào thành Giêrusalem, để chịu đóng đinh trên thập tự giá (đối chiếu Luca 9.22, 44, 51-53). Ngài không được tiếp nhận là Đấng Mêsi bởi đoàn dân đông hay bởi các cấp lãnh đạo của Ysơraên. “Mùa gặt trúng” sẽ không đến từ dân Ysơraên, và chắc chắn không nhằm vào thời điểm nầy. Vậy thì Chúa Jêsus phán về mùa gặt trúng với một ít nhân sự là nghĩa làm sao? Tại sao Ngài không nói về một mùa gặt vừa vừa, hay về một mùa gặt của một số người?
Câu nói nầy “mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít” cung ứng cho chúng ta phần giải thích nói tới sự nhấn mạnh của Chúa về sự phải giảng đạo cho các thành phố. Nếu mùa gặt thật trúng, nhưng có ít người nghe giảng tin lành để tiếp nhận tin lành ấy, thì tin lành phải được công bố cách rộng rãi, cho thật nhiều người nếu có thể được. Nếu nhiều người phải nghe giảng tin lành để có được một mùa gặt trúng, thì điểm hợp lý để rao giảng tin lành là ở trong các thành thị, nơi có đoàn dân đông tụ tập lại.
Nói theo thuật ngữ của nhà nông, tôi tin Chúa Jêsus đã dạy rằng “cả mẫu ruộng” để dành cho việc gieo tin lành vẫn còn là nhỏ lắm. Nếu mùa gặt thật trúng, cách duy nhất cho điều nầy xảy ra do gieo thật nhiều mẫu ruộng. Phương thức duy nhất bởi tin lành thu gặt được nhiều người là có nhiều người được sai ra đi, bao trùm một đoàn đông dân chúng. Thành phố là tiêu điểm của mọi nổ lực của các môn đồ vì tiếp cận được nhiều người chính là mục tiêu sứ mệnh của họ.
(2) Tầm quan trọng của việc xâm nhập vào các thành thị bằng tin lành cũng giúp chúng ta hiểu rõ mọi huấn thị của Chúa khi bảo đừng chào ai ở ngoài đường lộ. Lời lẽ của Chúa chúng ta ở đây không làm cho chúng ta phải bối rối nếu chúng ta xem xét cách cẩn thận:
“Đừng đem túi, bao, giày, và đừng chào ai dọc đường” (Luca 10.4, tôi muốn nhấn mạnh).
Chúa Jêsus ra lệnh cho các môn đồ đừng có tỏ ra thái độ lịch sự tối thiểu trong xã hội chào hỏi thân mật ngoài đuờng phố là nghĩa làm sao? Nếu Chúa Jêsus dự tính rao giảng tin lành cho “đám dân đông” hơn là cho từng người một, và nếu thì giờ bị hạn chế, sự tiếp xúc cá nhân cần phải bị giới hạn.
Thiết tưởng rằng quý vị làm việc lo quảng cáo cho một công ty xà bông và chủ nhân của quý vị muốn làm cho người ta biết về sản phẩm của công ty. Sau khi suy nghĩ nhiều, việc ấy được ấn định rằng một chương trình quảng cáo thương mại trên vô tuyến truyền hình sẽ đạt được mục tiêu nầy. Phòng thu hình cần chừng một tiếng đồng hồ vào buổi trưa nào đó, và quý vị cần phải có mặt ở đấy để thực hiện quảng cáo. Trên đường đi tới phòng thu hình, quý vị sẽ dừng lại để thuật cho 5 người biết về xà bông của công ty. Nhưng nếu quý vị làm như thế, hàng triệu người sẽ không thể trông thấy phần quảng cáo thương mại trên TV. Vì thế, không cần thiết để trao đổi với bất kỳ ai mà quý vị gặp gỡ trên đuờng, phần hành của quý vị đòi hỏi quý vị phải tránh né những cuộc trao đổi đó, mà phải ưu tiên một cho phòng thu hình và thực hiện chương trình quảng cáo để nhiều người có thể nhận biết sản phẩm của quý vị.
Đây đúng là những gì Chúa Jêsus đang dạy cho 70 người kia lo làm. Trong khi họ có thể làm chứng về Môise cho nhiều nhóm người tuỳ theo thì giờ của từng nhóm, họ cần phải dùng thì giờ của họ để nói cho nhiều người biết trong cùng một thời điểm. Và địa điểm cần có cho sự tập trung dân chúng không dọc theo con đuờng, mà là ở trong thành phố, ở đó có nhiều người sinh sống và tụ tập. Cho nên, không được phí thì gờ khi đang trên đuờng đến thành phố. Các môn đồ phải vội vã tới thành phố và ở đó giảng tin lành cho người ta biết với số lượng dân chúng đông đảo nhất.
(3) Phần nhấn mạnh của Chúa chúng ta về các thành phố cũng giải thích lý do tại sao các môn đồ không nên “đi từ nhà nầy sang nhà khác” (Luca 10.7). Nhà cửa nơi họ trú ngụ lại là nơi chỉ để ăn uống và ngủ nghỉ mà thôi. Có lẽ tin lành cũng đã được rao giảng từ nhà nầy sang nhà khác rồi, nhưng việc nầy đã được thực hiện trên đuờng phố hoặc tại cổng thành. Đây là chỗ các vấn đề quan trọng đã được bàn luận trong dân Ysơraên. Nói cách khác, đây phải là chỗ công cộng, không phải địa điểm riêng biệt, quen thuộc. Yếu tố công cộng thì quan trọng hơn yếu tố riêng tư. Đây là sự thật.
(4) Mạng lệnh của Chúa cấm các môn đồ đừng đem theo với họ bất kỳ một đồ dùng nào cũng làm sáng tỏ mục tiêu tiếp cận các thành phố. Chúa bảo các môn đồ đừng đem gì theo bên mình (Luca 10.4), ngay lập tức sau khi truyền cho họ Ngài đã sai họ ra đi khác nào “chiên con ở giữa bầy muông sói” (Luca 10.3). Tại sao Chúa Jêsus lại sai các môn đồ vào trong lãnh thổ thù nghịch mà chẳng vũ trang gì cho họ và chẳng đem theo đồ đạc cần dùng? Chìa khóa cho câu trả lời một lần nữa lại thấy có trong phần nhấn mạnh của Chúa về việc tiếp cận các thành thị.
Chúa Jêsus đã phán về muông sói và chiên con. Các môn đồ được sai phái giống như chiên con ở giữa bầy muông sói. Muông sói thường làm gì với bầy chiên? Đáp: CHÚNG ĂN THỊT CHIÊN CON. Khi Chúa Jêsus sai các môn đồ “chiên con” ra đi ở giữa bầy muông sói, làm sao họ biết được ai không phải là muông sói chứ? Đáp: NGƯỜI NÀO SẼ CHO HỌ ĂN. Điều nầy giúp tôi hiểu lý do tại sao các môn đồ đã được sai đi mà chẳng có sự tiếp trợ nào hết. Đáp ứng của dân chúng trong các thành phố đối với tin lành mà các môn đồ rao giảng rất rõ ràng qua sự hiếu khách của họ, bởi sự dâng hiến “bánh ăn và giường ngủ” cho những người đến trong danh của Đấng Mêsi. Khi người ta mở cửa lòng họ ra đối với tin lành, họ cũng mở cửa nhà của họ cho các môn đồ. Đây là thử nghiệm phần đáp ứng của dân chúng đối với sứ điệp mà họ đã lắng tai nghe.
Có nhiều tiền lệ trong Kinh Thánh cho điều mà tôi đang nói ra ở đây. Ápraham tiếp rước các thiên sứ (không biết rõ) với lòng hiếu khách, với một bữa ăn thịnh soạn, giống như Lót đã tiếp đãi vậy, nhưng dân sự Sôđôm chỉ muốn hãm hiếp những nhân vật ấy mà thôi (Sáng thế ký 18.1-8 với 19.1-11). Trong sách Các quan xét chương 19, người Lêvi từ vùng đồi núi xứ Épraim đã được tiếp đón từ người cha vợ ngoại giáo, nhưng không được tiếp đón trọng đãi từ những người đồng bào của mình, giống như người thành Sôđôm, chỉ muốn hãm hiếp người mà thôi. Trong các sách tin lành chúng ta thấy người nào yêu mến Chúa Jêsus đều yêu cầu Ngài đến nhà của họ (như Mary và Mathê). Trong sách Công vụ các sứ đồ, chương 16 (các câu 15, 34), chúng ta thấy viên cai ngục người thành Philíp và bà Lyđi bày tỏ ra sự tiếp nhận tin lành qua việc đem Phaolô và Sila về nhà của họ. Trong Hêbơrơ chương 13 các tín đồ thật cứ tiếp tục trọng đãi “thiên sứ mà không biết” (câu 2) qua việc tỏ ra lòng mến khách đối với người lạ.
Tại một trong các thành phố đó ai cũng biết là có hai người lạ vừa mới đến. Bổn phận theo luật pháp thì họ phải bày tỏ ra lòng mến khách. Nếu họ tiếp nhận sứ điệp của hai người nầy, họ phải đưa hai người ấy vào nhà. Nếu họ không tiếp đãi, sự từ chối của họ đã chỉ ra cho biết họ là ai. Tình cờ thôi, hành động đưa một nhà truyền đạo vào nhà của ai đó cũng giúp chúng ta hiểu rõ những lời cảnh cáo của Kinh Thánh nghịch lại việc mời các giáo sư giả vào nhà của chúng ta, vì khi làm như vậy, chúng ta trở nên đồng tình với sứ điệp mà họ đang rao giảng (đối chiếu II Giăng 10).
Tại sao phải rao giảng ở chỗ đông người và không nên cá nhân chứng đạo?
Phần nhấn mạnh của Chúa về việc tiếp cận các thành phố giờ đây rất rõ ràng từ phân đoạn Kinh Thánh, cũng như cung ứng cho chúng ta một sự giải thích hợp lý về các huấn thị mà Chúa Jêsus ban ra cho 70 môn đồ. Lý do Chúa chúng ta đã đưa ra trong phân đoạn Kinh Thánh nầy: “Ngài phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít. Vậy, hãy xin Chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình” (Luca 10.2). Bằng cách suy luận, tôi nghĩ rằng có một lý do khác nữa: ấy là thì giờ ngắn ngủi. Chúa Jêsus đang trên đường lên thành Giêrusalem, để chịu chết. Khi ấy Ngài sẽ từ kẻ chết sống lại và thăng thiên về với Cha của Ngài. Tầm quan trọng của Luca 9.51 là sự thăng thiên của Chúa chúng ta. Khi Chúa chúng ta đến tại các thành phố nầy trên đường đi lên thành Giêrusalem, họ vừa phải chấp nhận Ngài làm Vua của họ, hoặc họ phải chối bỏ Ngài. Thì giờ ngắn ngủi, phần quyết định phải gấp rút lắm. Đây không phải là thì giờ dành cho chứng đạo cá nhân, đó là thời gian dành cho việc dạn dĩ công bố tin lành, một sự công bố đến với nhiều người và rộng khắp như nếu có thể được, trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi. Đưa ra mục tiêu nầy, thật là dễ hiểu khi thấy lý do tại sao “giảng đạo ở chỗ đông người” đáng phải nên ưu tiên hơn “cá nhân chứng đạo”. Chúa Jêsus cho cá nhân chứng đạo là một sự lãng phí mà lý tưởng của tin lành không thể dung nạp.
Vì cớ đó chúng ta có thể nhìn thấy lý do tại sao 70 người nầy đã được lệnh phải tiếp cận các thành thị và để “giảng đạo ở chỗ đông người”. Song Luca dự tính dạy cho Hội thánh và chúng ta điều chi qua câu chuyện nầy? Các mạng lệnh của Chúa ở đây đã được dự trù để hình thành các phương pháp cho những môn đồ, nhưng họ tính dạy cho chúng ta phương pháp nào đây? Trước tiên chúng ta hãy xem xét sự cố nầy theo ánh sáng sách thứ hai của Luca – là Công vụ các sứ đồ – và rồi hãy tra xét các nguyên tắc cùng những ứng dụng của nó cho chúng ta.
Việc sai phái 70 môn đồ và Sách Công vụ các sứ đồ
Không những chúng ta biết rõ Luca là tác giả của sách tin lành nầy, mà ông còn là tác giả một sách khác nữa, đó là Công vụ các sứ đồ. Thật là khó tin khi thấy câu chuyện sai phái 70 môn đồ lại phù hợp và làm hình bóng trước cho sự rao giảng tin lành trong Công vụ các sứ đồ.
“Mùa gặt thì trúng” của Luca 10 có thể được xem là mùa gặt của dân Ngoại, cũng như của người Do thái. Khi Chúa Jêsus bảo (70) môn đồ Ngài mùa gặt thì thật trúng, chỉ có một cách để điều nầy trở thành sự thật, và qua sự mở rộng công tác rao giảng tin lành chỉ từ người Do thái (như trường hợp sai phái 12 môn đồ – Mathiơ 10.5-6) cũng như cho dân Ngoại. Điều nầy được nói rất bóng bẩy trong huấn thị của Chúa Jêsus cho 70 môn đồ về ăn món chi đã được đem đặt ở trước mặt họ (Luca 10.7-8). Sự nầy đã được trình bày trong sách Công vụ các sứ đồ.
Công vụ các sứ đồ 10 là khải tượng mà Đức Chúa Trời đã ban ra cho Phierơ, sửa soạn đường lối cho ông để ở lại nhà của Cọtnây, ông sẽ lo rao giảng tin lành cho dân Ngoại ở đó. Chương 11 mở rộng đề tài nầy bằng cách thuật lại phản ứng của các bạn đồng sự với Phierơ, và về phương thức mà Đức Chúa Trời phán với họ qua kinh nghiệm của Phierơ. Sách Công vụ các sứ đồ bắt đầu với Hội thánh người Do thái trong thành Giêrusalem, song tới chương 11 thì có một Hội thánh dân Ngoại rồi (Antiốt) đã trở thành điểm khởi đầu cho hoạt động của giáo sĩ nhắm vào dân Ngoại (đối chiếu Công vụ các sứ đồ 13.1...).
Điểm xoay chiều trong tin lành Luca dường như là bối cảnh mặt Chúa chúng ta hướng vào thành Giêrusalem (đối chiếu Luca 9.51-53). Trong sách Công vụ các sứ đồ, dường như mặt của Phaolô đã hướng vào thành Rôma. Tin lành đã được rao giảng ngày càng rộng rãi thêm trong sách Công vụ các sứ đồ, đã được nói trước trong Luca 10.
Cũng hãy chú ý rằng trong sách Công vụ các sứ đồ sức thúc đẩy của mọi nổ lực truyền giáo không những nhắm vào những cá nhân, mà còn nhắm vào các thành phố nữa. Đại mạng lệnh là mạng lệnh của Chúa chúng ta bảo phải đem tin lành đến cho các nước. Sách Công vụ các sứ đồ chỉ ra phần khởi sự của sức thúc đẩy khắp thế giới như thế nầy. Bàn tay dẫn dắt của Đức Thánh Linh có thể thấy được không những nơi các sứ đồ và các giáo sĩ hàng đầu của Ngài cho từng cá nhân, mà còn cho nhiều thành phố một cách mạnh mẽ nữa. Thật vậy, đã có sự dẫn dắt cho từng cá nhân. Đức Thánh Linh đã dẫn dắt Philíp đến với hoạn qua Êthiôpi (Công vụ các sứ đồ 8.26...), nhưng sự dẫn dắt nầy chỉ đóng vai trò bày tỏ ra mục tiêu, cho sự trở lại đạo nầy. Tôi tin chúng ta tìm thấy chìa khoá cho công cuộc truyền giáo ở Êthiôpi. Vì thế, chúng ta thấy Phaolô đã bị ngăn trở không được vào những địa điểm nhất định (Công vụ các sứ đồ 16.6-7), mà được dẫn dắt bằng sự khải thị để đến với Maxêđoan (Công vụ các sứ đồ 16.9).
Trong sách Công vụ các sứ đồ chúng ta thấy rằng công cuộc truyền giáo có nhiều tính cách “công cộng” hơn là “cá nhân”. Công cuộc truyền giáo đã diễn ra khi tin lành được rao giảng công khai (thí dụ Công vụ các sứ đồ 2, 4) hơn là gặp gỡ từng cá nhân. Truyền giáo đã bị phản đối đến nỗi có nhiều người đã trốn khỏi thành Giêrusalem (Công vụ các sứ đồ 8.1...), họ ra đi với tính cách cá nhân, nhưng tôi muốn nhắc cho quý vị nhớ rằng những người trốn tránh đã làm chứng trên đường đi của họ. Số người nầy dường như rày đây mai đó, và không phải là dân định cư, đã làm chứng cho những người sống cận kề cửa nhà họ. Nói theo cách thuật ngữ khác, họ đã không “chia sẻ đức tin” [cá nhân chứng đạo], mà là “giảng đạo” [truyền giáo nơi công cộng]:
“Những kẻ bị tản lạc bởi sự bắt bớ xảy đến về dịp Ê-tiên, bèn đi đến xứ Phê-ni-xi, đảo Chíp-rơ và thành An-ti-ốt, chỉ giảng đạo cho người Giu-đa thôi. Nhưng trong đám những người ấy có một vài người quê ở Chíp-rơ và Sy-ren đến thành An-ti-ốt, cũng giảng dạy cho người Gờ-réc nữa, truyền Tin Lành của Đức Chúa Jêsus cho họ. Tay Chúa ở cùng mấy người đó, nên số người tin và trở lại cùng Chúa rất nhiều” (Công vụ các sứ đồ 11.19-21).
Có một tương ứng khác thú vị giữa việc sai phái 70 môn đồ trong Luca 10 và việc truyền bá tin lành trong sách Công vụ các sứ đồ. Quý vị có thể kể tên 12 môn đồ được sai đi không? Phải, quý vị có thể kể được vì Mathiơ 10.2-4 cung ứng cho chúng ta tên tuổi của họ, và thậm chí nhóm của họ nữa (ông kể ra từng đôi một). Còn về 70 môn đồ thì sao? Quý vị có thể kể tên bất cứ ai trong số họ không? Không một ai hết, chắc chắn là như vậy. Trong sách Công vụ các sứ đồ, các sứ đồ, 12 người, là những nhà lãnh đạo chính trong Hội thánh, và trong công cuộc truyền giáo của phần nhiều người Do thái (thí dụ Công vụ các sứ đồ 2). Nhưng khi Hội thánh buộc phải trốn tránh khỏi thành Giêrusalem (Công vụ các sứ đồ 8.1...) các sứ đồ đã ở lại thành Giêrusalem (8.1...), trong khi nhiều người khác bỏ đi trốn, rao giảng tin lành khi họ ra đi. Nhưng có một vài ngoại lệ (như Phaolô), các nhà truyền giáo cho dân Ngoại nầy không được kể tên, cũng y như 70 người kia vậy.
Tất cả những câu nầy nhấn mạnh sự thật những gì Luca mô tả trong chương 10 sách tin lành của ông đều có tính cách dự bị và nền tảng cho mọi điều đã được ghi lại trong sách Công vụ các sứ đồ. Chẳng có gì phải ngạc nhiên đối với chúng ta trong trường hợp nầy. Bàn tay của Đức Thánh Linh một lần nữa rất rõ ràng trong Kinh Thánh.
Những phân đoạn Kinh Thánh đang dạy điều gì cho chúng ta?
Việc sai phái 70 môn đồ đã được viết ra không những cho Hội thánh đầu tiên, mà việc ấy đã được ghi lại để dạy dỗ chúng ta nữa. Chúng ta học được gì từ câu chuyện nầy? Chúng ta cần phải tiếp thu những bài học nào? Thắc mắc đầu tiên chúng ta phải giải đáp là đây:
Mối tương quan giữa việc sai phái 70 môn đồ và trách nhiệm của Cơ đốc nhân trong công cuộc truyền giáo hôm nay gắn bó như thế nào?
Đây là một thắc mắc rất khó xử lý. Thật là dễ xác định ở đây có một mục tiêu đặc biệt, ở một thời điểm đặc biệt trong chức vụ trên đất của Chúa Jêsus, mục tiêu nầy đòi hỏi một số phương pháp mà Ngài đã thực hiện. Nhưng chẳng lẽ chỉ có thế thôi sao? Đây có phải là một sự cố đặc biệt, một vấn đề chẳng có liên hệ gì tương ứng cho thời đại của chúng ta? Tôi nghĩ là có đấy! Cho phép tôi đưa ra một vài lý do để kết luận rằng có một sự tương ứng giữa sứ mệnh của 70 môn đồ và sứ mệnh cho chúng ta ngày hôm nay.
(1) Luca đã ghi lại sự cố cho chúng ta. Điều nầy rất đơn giản, song lại là quan trọng cho chúng ta. Đức Thánh Linh đã cảm động ông viết ra câu chuyện nầy vì nó có việc quan trọng cần nói cho chúng ta biết. Sự có mặt của phân đoạn nầy cho chúng ta biết rằng sứ mệnh của 70 môn đồ rất quan trọng cho chúng ta.
(2) Huấn thị của Chúa chúng ta cho 70 môn đồ dường như bao gồm cả một thời kỳ truyền giáo lâu dài hơn cả sứ mệnh duy nhất của 70 môn đồ trong một thời kỳ ngắn ngủi như thế nầy. Tại sao Luca dẫn nhập vào chi tiết của huấn thị mà Chúa chúng ta đưa ra cho 70 môn đồ nếu những sự dạy dỗ nầy không quan trọng cho chúng ta? Quý vị sẽ thấy rõ trong Luca 22.35-38, Chúa Jêsus chỉnh sửa huấn thị đã ban ra trước đó. (Chúa Jêsus đã chỉnh sửa huấn thị theo ánh sáng của sự Ngài bị chối bỏ và bị đóng đinh trên thập tự giá. Ngài phán: nếu họ ghét Ngài, người ta sẽ ghét bỏ các môn đồ của Ngài. Vì thế, các môn đồ giờ đây sửa soạn lo liệu mọi nhu cần của mình, vì dân chúng sẽ chối bỏ cả hai: chính họ và sứ điệp của họ nữa. Nhưng trong mọi việc nầy, tầm quan trọng của mọi huấn thị đã được đưa ra cho 12 và 70 môn đồ rất hữu ích cho Cơ đốc nhân ngày hôm nay), nhưng sự thật cho thấy rằng có một sự thay đổi mà Chúa chúng ta mong muốn mọi huấn thị trước đây của Ngài vẫn có sự xứng hiệp. Tại sao phải chỉnh sửa những huấn thị không thể ứng dụng được? Khi sai phái 12 môn đồ ra đi, các huấn thị tương tự đã được ban ra, rất chi tiết trong sách Mathiơ. Chi tiết của huấn thị nầy ám chỉ một khoảng thời gian ứng dụng rộng rãi hơn. Vì thế tôi hiểu chúng ứng dụng cho công cuộc truyền giáo xuyên suốt lịch sử Hội thánh, kể cả ngày hôm nay.
(3) Đại Mạng Lệnh trong Mathiơ 28 có ý nói tới một sự cần kíp, một thế giới cần phải chinh phục, một thế giới mà chúng ta phải bước vào đó. Nói ngắn gọn, Đại Mạng Lệnh dường như ít ỏi hơn tầm cỡ của các mạng lệnh đã được ban ra cho 70 môn đồ.
(4) Công tác của Đức Thánh Linh qua Hội thánh trong sách Công vụ các sứ đồ mang bằng chứng tỏ ra rằng các mạng lệnh ban ra cho 70 môn đồ có một cấp độ lớn lao hơn trong lịch sử đầu tiên của Hội thánh. Chúng ta đã thấy sách Công vụ các sứ đồ thể nào đã tỏ ra và mở rộng những điều chi đã bắt đầu trong sách Luca rồi. Tôi tin rằng chúng ta nhìn thấy điều nầy có mối quan hệ với công cuộc truyền giáo nữa.
(5) Mọi nhu cần và điều kiện của thời đại chúng ta rất gắn bó với các nhu cần và điều kiện của 70 môn đồ vào thời điểm đó. Lời phán dạy của Chúa chúng ta “Mùa gặt thì trúng lắm, song con gặt thì ít” há chẳng ứng dụng cho thời buổi của chúng ta như lời ấy khả thi cho thời buổi ấy sao? Hãy suy nghĩ về những sự nầy, rất thực trong thời buổi ấy cũng như rất thực cho thời buổi ngày nay:
Thế gian đang hư mất không có Đấng Christ
Chúa Jêsus sẽ mau mau đến
Có một vùng lãnh thổ cần phải chiếm lấy, một mùa gặt phải thu hoạch
Nhu cần đem tin lành đến với nhiều người rất khẩn cấp
Tất cả những điều nầy khiến cho tôi phải đi tới chỗ kết luận rằng nhu cần phải tiếp cận với thế gian đem họ về cho Đấng Christ ngày hôm nay lớn lao hơn bất kỳ một thời điểm nào khác trong lịch sử. Và tính cấp bách của nhu cần đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các phương pháp thích ứng hầu đạt được mục tiêu nầy.
Vậy thì, chúng ta tiếp thu được bài học nào trong việc sai phái 70 môn đồ? Cho phép tôi đề xuất một vài điều khả thi, mặc dù có rất nhiều việc cần phải lo thực hiện:
(1) Chúng ta cần phải có ý thức về sự cấp bách để đến với người nam người nữ bị hư mất với sứ điệp của tin lành. Có một sự cấp bách trong việc sai phái 70 môn đồ ra đi, nhận biết nhu cần phải đi từ thành nầy đến thành khác. Chúa Jêsus đã đến và mỗi thành thị cần phải nghe biết.
Chúa Jêsus sẽ tái lâm, lần nầy không phải để chịu chết vì tội lỗi của thế gian nữa, mà để xét đoán những ai đã chối bỏ Ngài. Những người nam người nữ nào không nhận biết Ngài làm Cứu Chúa sẽ bị hư mất, chịu đau khổ trong cơn thạnh nộ đời đời của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, họ chẳng còn có thể mong đợi điều chi khác hơn là địa ngục. Theo ý của tôi việc truyền giảng cho người bị hư mất, bị chịu chết thiệt nhiều là do động cơ xấu chớ không phải là do các phương pháp tồi đâu. Nếu chúng ta nhận rõ ý nghĩa cấp bách theo Kinh Thánh, như đã được thấy rõ qua việc sai phái 70 môn đồ, qua Đại Mạng Lệnh hay qua sách Công vụ các sứ đồ, chúng ta sẽ tìm ra một đường lối. Châm ngôn xưa có nói: “Đâu có ý chí, đó có đường lối” là thật. Chúng ta cần lưu ý để đến với người bị hư mất.
(2) Chúng ta cần mở rộng mặc khải từ việc đến với mọi người sống quanh chúng ta cho đến mọi nước trên khắp thế giới. Chúng ta cần một “khải tượng cấp thế giới”. Chúa chúng ta vốn yêu thương thế gian, Ngài đã chịu chết vì tội lỗi của thế gian. Ngài đã truyền cho Hội thánh phải ra đi khắp thế gian với tin lành. Nếu J. P. Phillips đúng khi cho rằng Đức Chúa Trời của chúng ta quá nhỏ bé, cũng một thể ấy, khải tượng của chúng ta cũng bị giới hạn nhiều rồi. Chúng ta cần một khải tượng để đem tin lành cho thế gian.
Chúng ta cần phải tiếp thu từ phân đoạn Kinh Thánh, rằng Chúa Jêsus vốn yêu thương và rất quan tâm đến các thành phố. Nói như thế có đôi chút kỳ lạ, song mối quan tâm của Ngài đối với thành phố được gói ghém trong mối quan tâm của Ngài đối với con người. Ápraham đã van nài Đức Chúa Trời buông tha cho thành Sôđôm, Ngài sẽ chịu tha nếu như chỉ cần có đủ 10 linh hồn công bình ở đó (Sáng thế ký 18.32-33). Trong khi Giôna thù ghét thành Ninive, Đức Giêhôva đã bày tỏ ra lòng thương xót của Ngài đối với thành phố nầy (Giôna 4.10-11). Chúa cũng yêu thương thành Giêrusalem và đã than khóc cho sự vô tín của thành ấy (Luca 13.34-35). Đức Chúa Trời quan phòng đến các thành phố nầy vì Ngài có lòng lo cho dân chúng.
Tôi không dám chắc chúng ta có mối quan tâm mà Chúa chúng ta đã có cho các thành phố đâu, hoặc cho con người giống như Ápraham đã có đâu. Dường như chúng ta đã đánh mất ý thức về sự hư mất của các thành phố, mặc dù bằng chứng về tội lỗi của con người và mọi lời cảnh cáo nói về sự phán xét hầu đến đang có đầy dẫy ở khắp mọi nơi. Nguyện Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một tấm lòng nhìn về các thành phố, và cho thành phố của chúng ta nói riêng. Ở Richardson, và ở Dallas, nhu cầu về tin lành nói tới Đức Chúa Jêsus Christ thật thất vọng dường bao! Nhu cần đem sứ điệp nói tới sự cứu rỗi ở tại các địa điểm nầy cần có những phương thức lớn lao dường bao!
(3) Chúng ta cần tận dụng các phương pháp đạt hiệu quả nhất để đem tin lành cho thế gian. Phần lớn huấn thị của Chúa chúng ta ban ra cho 70 môn đồ gắn liền với hệ phương pháp của họ. Để đạt được mục tiêu, chúng ta phải tận dụng các phương pháp thích nghi. Chúa Jêsus đã dạy 70 môn đồ rằng muốn tiếp cận với các đoàn dân đông, họ phải sử dụng các phương pháp đã được thực hiện rồi với các đoàn dân đông. Họ không thể không chào người ta dọc theo đường đi vì việc nầy quá cá nhân, quá riêng tư. Chẳng có chi là sai khi tiếp cận riêng tư như thế, bao lâu đến với đoàn dân đông không phải là mục tiêu của chúng ta.
Tôi có nghe nói như thế và ám chỉ rằng các phương pháp “cá nhân chứng đạo” là phương thức đem tin lành đến với thế gian. Tôi không nghĩ như vậy đâu. Có người cho như vầy đây: “Nếu mỗi Cơ đốc nhân cần phải đưa ra một người đến với Đấng Christ, và tân tín hữu ấy cần phải chinh phục một người...”. Sự thật cho thấy rằng điều nầy không xảy ra. Tôi tin rằng thế gian cần phải được chinh phục qua việc rao giảng tin lành, và điều nầy quan hệ hơn là làm chứng riêng tư, và rất quan trọng.
Sự dạy của Chúa Jêsus ám chỉ mạnh mẽ rằng các phương pháp “cá nhân chứng đạo” không đạt được hiệu quả trong việc tạo ra một mùa gặt thật trúng và trong việc bao phủ một khu vực lớn lao với những tin tức tốt lành của tin lành. Tôi e rằng chúng ta đến chỗ cân bằng công cuộc truyền giáo với “cá nhân chứng đạo” và chúng ta máy móc nghĩ tới việc tiếp cận với người ta bằng các phương pháp riêng tư khi chúng ta tận dụng những phương pháp đó sao cho phù hợp với các đoàn dân đông. Xa hơn nữa, tôi nghĩ rằng ai đó trong chúng ta đã đến với phần kết luận rằng “truyền đạo ở chỗ đông người” không hay bằng “cá nhân chứng đạo”, vì đây là phương thức duy nhất.
Cuốn phim “The Gospek Blip” (Quả khinh khí cầu tin lành) chỉ ra cho thấy chúng ta đã mắc phải rối ren thể nào trong suy nghĩ về lãnh vực truyền giáo. Tôi nhớ rất rõ cuộn phim, những Cơ đốc nhân trong một thành phố kia muốn đưa thành phố của họ đến với Đấng Christ, và họ bắt đầu thực hiện theo ý định bằng các phương thức rất dại dột, không thích nghi, và phạm phải nhiều lỗi lầm. Cuộn phim bắt đầu với những nổ lực thật lố bịch và đáng buồn cười khi truyền đạo cho thành phố của họ rồi kết thúc bằng cách nhắm vào một vài người, họ bắt đầu chia sẻ đức tin rất hiệu quả theo các giới hạn của “cá nhân chứng đạo”.
Cuộn phim còn khích lệ phần “cá nhân chứng đạo” đáng nên thực thi, đáng tác động, hay là ở chỗ đó. Thế nhưng cuốn phim đang cấy một sự thiệt hại nghiêm trọng cho người xem. Cuộn phim đề ra “cá nhân chứng đạo” ở mức độ chống đối lại “truyền đạo ở chỗ đông người”, và để lại cho chúng ta ấn tượng rằng chúng ta nên quên đi bất kỳ một nổ lực nào trong việc đến với thành phố như một tổng thể mà chỉ tập trung hoàn toàn vào “cá nhân chứng đạo” mà thôi. Có lẽ tôi đang chơi khăm cuộn phim, nhưng đó là ấn tượng mà tôi đã được cung ứng cho.
Trong cuốn phim không phải Cơ đốc nhân khao khát muốn nhìn thấy “truyền đạo ở chỗ đông người” đã diễn ra trong thành phố của họ là sai lầm. Cái điều sai lầm trong nổ lực của họ khi tiếp cận với thành phố: ấy là họ đang sử dụng các phương pháp rất lạc hậu, những phương pháp làm cho người ta bực bội không cần thiết và làm cho họ mích lòng với sứ điệp của tin lành. Điều mà chúng ta tiếp thu được từ cuộn phim: ấy là các phương pháp của chúng ta phải đạt được mục tiêu. Nếu chúng ta đang ra sức để đến với đoàn dân đông, chúng ta phải sử dụng những phương pháp thích ứng. Nếu chúng ta ra sức tiếp cận người lân cận mình, chúng ta sử dụng phương pháp khác. Điều mà chúng ta không tiếp thu được từ cuộn phim nầy: ấy là “truyền đạo cho số đông người” nên được thay thế bằng “cá nhân chứng đạo”.
(4) Phân đoạn Kinh Thánh nầy không nói cho chúng ta biết “cá nhân chứng đạo’ là sai, hoặc chúng ta nên giảm bớt mọi nổ lực của chúng ta trong công tác ấy. Như chúng ta thấy, Chúa Jêsus đã thực thi công tác “cá nhân chứng đạo”. Làm ơn đừng giải thích những gì tôi đang đề cập ở đây. Khi chúng ta nhận ra sự cấp bách của việc tiếp cận với người bị hư mất, chúng ta sẽ cố gắng hết sức để đến với mọi người mà chúng ta có thể, và chúng ta nên dùng các phương pháp khác nhau để tiếp cận họ. Một số người trong chúng ta chưa làm đầy đủ trong lãnh vực “cá nhân chứng đạo”. Chúa Jêsus không dạy chúng ta cần phải giảm bớt trong nổ lực nầy. Tôi muốn nói rằng chúng ta cần phải mở rộng khải tượng của mình từ chỗ “tiếp cận với người láng giềng” đến chỗ “tiếp cận với thế gian” và phải mở rộng các phương pháp từ chỗ “cá nhân chứng đạo” đến chỗ “truyền đạo cho số đông người”.
(5) Phân đoạn Kinh Thánh khiến tôi phải tái đánh giá lại cả phương pháp và động lực của tôi trong công tác cá nhân chứng đạo. Tôi đã từng công nhận “cá nhân chứng đạo” là một loại bò thiêng, tôi cũng nhìn biết đó không phải là đối tượng cho từng phần khảo sát kỹ càng. Rốt lại, cái điều Cơ đốc nhân cần, có phải họ bị kéo vào việc phê phán cá nhân chứng đạo hay không? Nhưng tôi đã khám phá ra cá nhân chứng đạo có một số nguy hiểm và là đối tượng cho những sự lạm dụng. Cho phép tôi nhắc tới một số điều thoắt hiện trong lý trí tôi.
Cá nhân chứng đạo có thể bị lợi dụng bởi cái mà tôi gọi là SÙNG BÁI CÁ NHÂN. Một trong những nan đề chính trong suy nghĩ của chúng ta về “cá nhân chứng đạo” là điều mà tôi đã gọi là “sùng bái cá nhân”. Trong mấy năm gần đây, chúng ta bị ám ảnh với việc khám phá ra “các nhu cầu của cá nhân” và đối xử với mọi người theo ánh sáng của các nhu cần nầy. Là một cựu giáo sư đứng lớp tôi thấy điều nầy rất hay có trong lớp học ở nhà trường. Trong những ngày gần đây, đã có một giáo viên đứng lớp với 30 sinh viên hay nhiều hơn đối mặt với vị giáo sư. Các sinh viên ngồi nghe giảng bài, vị giáo sư thì đứng giảng. Bây giờ tôi biết rõ đây không phải là một hệ thống toàn hảo, song tôi tin rằng chẳng có là sai khi nghĩ rằng đã có đủ các yếu tố thông thường mà mọi sinh viên phải xử lý theo một cách tương tự, trong cùng một thời điểm.
Giờ đây, lớp học là bối cảnh của những hỗn loạn và rối ren. Mỗi đứa trẻ “đều làm theo ý riêng mình”. Có đứa thì đi lang thang trong sảnh đường. Nhiều đứa khác đang lo ra. Nhiều đứa khác nữa đang “hoạt động độc lập” trong lớp học. Bất kỳ một hình thức thống nhất nào cũng dường như không đáng được chấp nhận cả. Giáo dục cải cách lèo lái quan niệm quyền lợi cá nhân. Sự thật cho thấy rằng về mặt cơ bản, các đứa trẻ đều giống y như nhau. Ồ, chúng phát triển theo nhiều cấp độ khác nhau, chúng có những sở thích và khuynh hướng khác nhau, song chúng có thể được xử lý như một nhóm – có lẽ vào một thời điểm nào đó, chứ không hẳn là lúc nào cũng vậy.
Sự “sùng bái cá nhân” đã vây lấy Hội thánh, và giờ đây chúng ta thấy khẩu lệnh của việc rao giảng Kinh Thánh là chúng ta phải “đưa lẽ thật đến với các nhu cần cá nhân” của con người. Một trong sự xác định rõ vấn đề nầy nằm ở trung tâm của việc “cá nhân chứng đạo”. Chúa Jêsus đã cá nhân hoá tin lành cho cả Nicôđem (Giăng 3) và cho người đờn bà Samari bên giếng (Giăng 4). Song xu hướng cá nhân hoá nầy không có lý do xác đáng. Giờ đây chúng ta sẽ xét đoán mọi sự truyền đạt nào không nhắc tới nhu cần đặc biệt của cá nhân. Chúng ta thường nói về “các nhu cầu của nữ giới” và bây giờ đó là “nhu cầu của người mẹ trẻ”, nhu cần của “người phụ nữ biết làm việc” và còn nhiều nữa.
Cách tiếp cận “theo cá nhân” như thế nầy không phù hợp với Kinh Thánh. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng: “những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người” (I Côrinhtô 10.13). Nhưng chúng ta đã xem nan đề của chúng ta là quá đặc biệt, vì thế chẳng có một giải pháp nào bình thường cho chúng ta. Sự thật cho thấy rằng nan đề của người nam (dù trẻ hay già), nữ (độc thân hay đã có gia đình), và trẻ em (nam hay nữ) chính là tội lỗi.
Tôi biết một người ở Dallas, ông nầy từng là đồng tính luyến ái đã trở lại đạo, và là một tín đồ rất tốt. Ông ta có một chức vụ quan trọng trong giới đồng tính luyến ái. Khi ông ta đến trao đổi với một nhóm Mục sư, đây là một nhóm người rất trung thực mà quý vị có thể tìm gặp, ông ta nói như vầy: “Đừng tìm cách chỉ ra hình thái tội lỗi đặc biệt nào với tôi. Hãy xác định với tôi về chiến trận mà chúng ta đang tranh dấu với xác thịt”. Con người nầy có cái đầu rất trung thực. Ông ta nhìn thấy vấn đề gốc rễ của sự đồng tình luyến ái cũng chính là nan đề giống như rượu chè, đánh đập vợ con, gạ gẫm trẻ em, hoặc là người công dân ngay thẳng bị sự kiêu ngạo của mình khống chế.
Chúng ta đã bị cá nhân hoá trong sự tiếp cận của mình đến với người ta đến nỗi chúng ta thất bại không chỉ ra cho người ta thấy được cấp độ thông thường và thấp kém nhất của tội lỗi của họ. Ápraham đã nói dối về thân phận của vợ mình, và chúng ta chỉ xử lý với ông về mặt nói dối thôi – nan đề của cá nhân ông. Song Đức Chúa Trời xử lý với ông về (việc ông thiếu) đức tin, đấy mới chính là vấn đề gốc. Phải thẳng thắn đi, mọi nan đề của cá nhân chúng ta có thể được rút lại thành một nhóm nan đề gốc phổ thông cho mọi người.
“Truyền đạo ở chỗ đông người” có ý nghĩa như thế nào đây? Chúng ta có thể giảng cho nhóm đông người với sứ điệp của tin lành, vì mỗi tội nhân đều có cùng những nan đề, và Đấng Christ đã cung ứng một giải pháp duy nhất cho vấn đề – thập tự giá tại đồi Gôgôtha. Theo giải pháp nầy, tin lành quá đơn giản cho một số người, họ thích nghĩ rằng các nan đề của con người rất phức tạp, rất cá nhân.
Có một loại cá nhân hoá rất đa dạng khác nữa, thường là hình thức cá nhân phức tạp, có quan hệ tới sự sùng bái cá nhân. Cá nhân chứng đạo có thể dẫn tới một cá nhân vì người ấy (nam hay nữ) có thể lọt vào đấy bằng sức riêng của họ, mà không phải bắt tay với ai khác, bất chấp ý kiến và lòng tin quyết của người khác. Một trong những lý do tại sao chúng ta không truyền giảng cho đám đông, tôi e, ấy là Cơ đốc nhân và Hội thánh quá độc lập, quá cá thể, đến nỗi họ không cùng nhau làm việc. Cá nhân chứng đạo đặc biệt dẫn tới loại tự trị nầy. Nói như vậy không phải là cho cá nhân chứng đạo là sai, mà để cho chúng ta biết rằng bất cứ điều chi tốt đẹp có thể bị hạng người tội lỗi lạm dụng.
Mối nguy hiểm khác của cá nhân chứng đạo đúng là – cá nhân. Chúng ta có thể bị lôi kéo vào mối quan hệ với ai đó mà chúng ta đang tìm cách chứng đạo cho đến nỗi chúng ta “chiếu sáng” hay làm cho sứ điệp phải “yếu đi”. Muốn giữ tính cấp bách theo Kinh Thánh và tiếp cận “sát sau lưng” để giới thiệu sứ điệp quả là đều thật khó. Vì tôi quen với người ta và cứ cho là đã đạt được mối quan hệ lâu dài, tôi không cảm thấy cấp bách để làm chứng đạo và làm chứng một cách trực tiếp nữa. Tôi đưa ra những chứng cớ thật hùng hồn. Nếu quý vị thành thật, quý vị không cảm thấy cùng mối căng thẳng mà tôi cảm nhận ở đây, sự cám dỗ phải nói ra những việc quá tiêu cực, quá quanh co, quá thất thường sao? Chứng đạo cho bạn bè có mối nguy hiểm đưa bạn bè lên cao hơn công việc truyền đạo. Các mối nguy hiểm nầy không có nghĩa là chúng ta loại bỏ cá nhân chứng đạo, mà chúng ta công nhận những điểm yếu đuối cố hữu rồi tìm cách lẫn tránh chúng.
Cá nhân chứng đạo cũng có phương thức khẳng định và giúp làm nên thánh đời sống tôi, hơn là thách thức và làm thay đổi nó. Từ ngữ và quan niệm “chứng đạo bằng đời sống” đã trở nên phổ thông, nhưng tôi không dám chắc rằng chúng ta đã suy nghĩ đủ về mọi vấn nạn cố hữu của nó. Cần phải suy luận như sau: “Tôi có thể là Cơ đốc nhân có nhiều hoài bảo, tự tìm tòi lấy, tự mãn, đam mê, và vì thế tôi có thể quan hệ với những người khác giống như tôi”. “Chứng đạo bằng đời sống” cho thấy cuộc sống của tôi đang làm đẹp lòng và đáng cho Đức Chúa Trời tiếp nhận, và vì thế tôi có thể truyền đạo từ cung cách đó. Kinh Thánh thách thức cung cách sống của tôi, Kinh Thánh cho tôi biết cuộc sống của tôi rất khác biệt đối với những người sống chung quanh không có Đấng Christ. Cuộc sống của tôi trước tiên cần phải thay đổi, và kế đó, từ cách sống Cơ đốc tôi sẽ tìm cách chinh phục người nào đang sống một cuộc sống theo thế gian.
Chứng đạo bằng đời sống cho tôi biết tôi rất xứng đáng như hiện nay, và tôi có thể có một sự đụng chạm khá tích cực.
Suy nghĩ theo cá nhân chứng đạo sẽ xưng công bình nhiều tội lỗi và nhìn xem chúng theo cách rất tin kính. Tôi có thể nhũ lòng rằng từ khi tôi là một người da trắng thuộc giai cấp trung thượng lưu, tôi chẳng có một điểm nào tương đồng với ai đó thuộc sắc dân khác thuộc tầng lớp kinh tế xã hội. Kinh Thánh bay lượn trên bề mặt của sự kiện nầy, thực ra Kinh Thánh cho điều nầy là ngược lại với bản thân của tin lành (đối chiếu lời quở trách Phierơ của Phaolô ở Galati chương 2). Một trong mấy người bạn thân của tôi, Tấn sĩ Ruben Conner, một nhà lãnh đạo Cơ đốc nhân da đen, đã đến với Đấng Christ qua sự làm chứng (cá nhân) của một người da trắng về công ăn việc làm.
Chúng ta sẽ làm gì với sứ điệp nầy? Tôi đề nghị chúng ta nên làm một việc gì đó còn thật là đặc biệt. Cho phép tôi tóm tắt và kết thúc với một vài lưu ý. Thứ nhất, chúng ta cần phải ý thức về sự khẩn cấp lớn lao hơn, ý thức nầy có được là nắm bắt mọi điều Kinh Thánh dạy dỗ chúng ta về số phận của người bị mất, và từ một sự nhận biết Chúa chúng ta sẽ tái lâm không bao lâu nữa. Thứ hai, chúng ta cần phải có khải tượng rộng lớn hơn, khải tượng về thế giới. Cá nhân chứng đạo là một sự khởi đầu tốt. Quan tâm đến người lân cận của chúng ta là một khởi đầu tốt, song như thế vẫn chưa đủ. Mạng lệnh phải được rao giảng trên khắp thế giới.
Tôi có nói rằng mọi người đều phải trở thành giáo sĩ, hay mọi người nên ra đứng ở góc đường kia không? Không. Nhưng tôi nói rằng chúng ta hết thảy cần phải dạn dĩ hơn trong sự làm chứng của chúng ta, hết thảy chúng ta nên tìm cách rao giảng tin lành cho số đông cá nhân đang bị hư mất nếu có thể được. Và, tôi muốn nói rằng chúng ta cần phải công nhận là có nhiều phương pháp khác hơn là chỉ có một kèm một, cần phải áp dụng khi chứng đạo cho nhiều người.
Sẽ như thế nào nếu điều tôi đề nghị đây lại đến với người không có ơn chứng đạo chỗ đông người? Rõ ràng chúng ta hết thảy không phải là Billy Graham hay Luis Palau. Đấy là sự thật. Vì một số người trong chúng ta, đang làm một công tác chia sẻ đức tin theo cách riêng, bản thân nó có một mục tiêu cao quý. Song mọi người đều cần phải biết rằng tiếp cận với thế gian bằng tin lành là một phần việc ai cũng có phần. Chứng đạo là góp phần vào mọi nổ lực giảng đạo. Cần phải hoạch định và thực thi công tác ấy (chúng ta có thể sử dụng chiến dịch truyền giảng ở đây tại Dallas). Nhưng chúng ta hết thảy cũng phải ý thức về gánh nặng, trách nhiệm, và tìm cách khám phá ra những cơ hội mà chúng ta có thể dự phần vào trong đó. Chắc chắn chúng ta sẽ làm theo chính xác mọi điều Chúa Jêsus đã dạy cho các môn đồ Ngài phải lo làm; xin cầu nguyện để Chúa của mùa gặt sai con gặt đến trong mùa của mình.
Là những cá nhân và là một Hội thánh, tôi tin rằng chúng ta cần phải cầu nguyện để Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một gánh nặng đối với nhiều linh hồn đang hư mất trong thành phố của chúng ta, Richardson, bang Texas, và cho thành phố Dallas nữa. Nói như thế có nghĩa là chúng ta cần phải cầu nguyện và tìm cho ra những phương thức giúp cho người dân trong thành phố của chúng ta biết họ là hạng tội nhân, bị định cho một cõi đời đời không có Đấng Christ, và Đức Chúa Jêsus Christ đã chịu chết cho tội nhân để họ nhận được sự sống đời đời. Nói như thế có nghĩa là chúng ta nên xem xét các đường lối trong đó sử dụng phương tiện truyền thông để công bố tin lành sao cho có hiệu quả. Chúng ta hãy cầu nguyện để tin lành được rao giảng, và chúng ta hãy làm theo mọi điều mà Chúa đang hướng dẫn chúng ta làm theo trong công cuộc truyền giảng tin lành trên khắp thế giới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét