Thứ Ba, 25 tháng 5, 2010

Luca 20.1-18: "BÃO TỐ TRONG ĐỀN THỜ: LẠM DỤNG UY QUYỀN"



Phần giới thiệu
Cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh
Bố cục của phân đoạn Kinh Thánh
Bối cảnh
Quyền làm chủ đền thờ của Chúa Jêsus (19.45-49)
Sự thách thức: Ai đang có quyền ở đây (20.1-2)
Sự thật hay các hậu quả (20.3-8)
Thí dụ nói tới vườn nho và những người trồng nho (20.9-16)
Cách gạn lọc sâu sắc của Chúa Jêsus (20.17-18).
Phần kết luận.
Bài 61:

BÃO TỐ TRONG ĐỀN THỜ: LẠM DỤNG UY QUYỀN

(Luca 20.1-18)
Luca 20.1-18: “Một ngày trong những ngày đó, Đức Chúa Jêsus đương dạy dỗ dân chúng trong đền thờ và rao truyền Tin Lành, thì các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão đến thình lình, hỏi Ngài như vầy: Hãy nói cho chúng tôi, bởi quyền phép nào mà thầy làm những điều nầy, hay là ai đã ban cho thầy quyền phép ấy? Ngài đáp rằng: Ta cũng hỏi các ngươi một câu. Hãy nói cho ta: Phép báptem của Giăng đến bởi trên trời, hay là bởi người ta? Vả, những người ấy bàn cùng nhau rằng: Nếu chúng ta nói: Bởi trời, thì người sẽ nói với ta rằng: Vậy sao các ngươi không tin lời người? Lại nếu chúng ta nói: Bởi người ta, thì các dân sự sẽ ném đá chúng ta; vì họ đã tin chắc Giăng là một đấng tiên tri. Vậy nên họ trả lời rằng không biết phép ấy bởi đâu mà đến. Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta cũng không nói cho các ngươi bởi quyền phép nào ta làm những điều nầy. Đức Chúa Jêsus phán cùng dân chúng lời thí dụ nầy: Người kia trồng một vườn nho, đã cho kẻ trồng nho mướn, rồi bỏ xứ đi lâu ngày. Đến mùa nho, chủ sai một đầy tớ tới cùng những kẻ trồng nho đặng nhận một phần hoa lợi; song bọn trồng nho đánh đầy tớ, đuổi về thay không. Chủ lại sai một đầy tớ khác nữa; song họ cũng đánh, chưởi, và đuổi về tay không. Chủ lại sai đầy tớ thứ ba; song họ cũng đánh cho bị thương và đuổi đi. Chủ vườn nho bèn nói rằng: Ta làm thể nào? Ta sẽ sai con trai yêu dấu ta đến; có lẽ chúng nó sẽ kính nể! Song khi bọn trồng nho thấy con trai ấy, thì bàn với nhau như vầy: Kìa, ấy là con kế tự; hãy giết nó, hầu cho gia tài nó sẽ về chúng ta. Họ bèn liệng con trai ấy ra ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy chủ vườn sẽ xứ họ làm sao? Chủ ấy chắc sẽ đến diệt những kẻ trồng nho nầy, rồi lấy vườn giao cho người khác. Ai nấy nghe những lời đó, thì nói rằng: Đức Chúa Trời nào nỡ vậy! Đức Chúa Jêsus bèn ngó họ mà rằng: Vậy thì lời chép: Hòn đá thợ xây nhà bỏ ra, trở nên đá góc nhà, nghĩa là gì? Hễ ai ngã nhằm đá nầy, thì sẽ bị giập nát, còn đá nầy ngã nhằm ai, thì sẽ giập người ấy”.
Mathiơ 21.23-27: “Đức Chúa Jêsus vào đền thờ rồi, đương giảng đạo, có các thầy tế lễ cả và các trưởng lão trong dân đến mà hỏi rằng: Bởi quyền phép nào mà thầy làm những sự nầy, và ai đã cho thầy quyền phép ấy? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta cũng sẽ hỏi các ngươi một điều; nếu trả lời được, thì ta cũng sẽ nói cho các ngươi bởi quyền phép nào mà ta đã làm những việc đó. Phép báptem của Giăng bởi đâu? Bởi trên trời hay là bởi người ta? Vả, họ bàn riêng với nhau như vầy: Nếu chúng ta đáp rằng: Bởi trên trời, thì người sẽ nói với ta rằng: Vậy sao không tin lời người ấy? Còn nếu đáp rằng: Bởi người ta, thì chúng ta sợ thiên hạ, vì thiên hạ đều cho Giăng là đấng tiên tri. Vậy, họ trả lời Đức Chúa Jêsus rằng: Chúng tôi không biết. Ngài bèn phán cùng họ rằng: Ta cũng không bảo cho các ngươi bởi quyền phép nào mà ta làm những điều nầy”.
Mathiơ 21.33-46: “Hãy nghe lời ví dụ khác. Có người chủ nhà kia, trồng một vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và cất một cái tháp; rồi cho những kẻ trồng nho mướn, và đi qua xứ khác. Đến mùa hái trái, người chủ sai đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu hoa lợi. Bọn trồng nho bắt các đầy tớ, đánh người nầy, giết người kia, và ném đá cho người nọ. Người chủ lại sai đầy tớ khác đông hơn khi trước; thì họ cũng đối đãi một cách. Sau hết, người chủ sai chính con trai mình đến cùng họ, vì nói rằng: Chúng nó sẽ kính trọng con ta. Nhưng khi bọn trồng nho thấy con đó, thì nói với nhau rằng: Người nầy là kẻ kế tự đây; hè! hãy giết nó đi, và chiếm lấy phần gia tài nó. Họ bèn bắt con ấy, quăng ra ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy, khi người chủ vườn đến, thì sẽ xử với bọn làm vườn ấy thể nào? Chúng trả lời rằng: Người chủ sẽ diệt đồ hung ác ấy cách khổ sở, và cho bọn trồng nho khác mướn vườn ấy, là kẻ sẽ nộp hoa lợi lúc đến mùa. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Các ngươi há chưa hề đọc lời trong Kinh Thánh: Hòn đá đã bị người xây nhà bỏ ra, trở nên đá đầu góc nhà; Ấy là một sự lạ trước mắt chúng ta, hay sao? Bởi vậy, ta phán cùng các ngươi, nước Đức Chúa Trời sẽ cất khỏi các ngươi, và cho một dân khác là dân sẽ có kết quả của nước đó. Kẻ nào rơi trên hòn đá ấy sẽ bị giập nát, còn kẻ nào bị đá ấy rớt nhằm thì sẽ tan tành như bụi. Các thầy tế lễ cả và người Pharisi nghe những lời ví dụ đó, thì biết Ngài nói về mình. Họ bèn tìm cách để bắt Ngài; song sợ thiên hạ vì thiên hạ tôn Ngài là đấng tiên tri”.
Mác 11.27-33: “Chúa và môn đồ trở lại thành Giêrusalem. Ngài đang đi dạo trong đền thờ, thì các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão tới gần Ngài, mà hỏi rằng: Thầy lấy quyền phép nào làm những điều nầy, hoặc ai đã cho thầy quyền phép làm những điều ấy? Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta cũng hỏi các ngươi một câu; hãy trả lời cho ta, thì ta sẽ nói cho các ngươi biết ta làm những điều đó bởi quyền phép nào. Phép báptem của Giăng đến bởi trên trời hay là bởi người ta? Hãy trả lời cho ta đi. Vả, họ bàn với nhau như vầy: Nếu chúng ta nói: Bởi trên trời, thì người sẽ nói rằng: Vậy, sao các ngươi không tin lời Giăng? Bằng chúng ta nói trái lại: Bởi người ta? ...Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều tin Giăng thật là Đấng tiên tri. Nên họ thưa lại cùng Đức Chúa Jêsus rằng: Chúng tôi không biết. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Ta cũng không nói cho các ngươi biết ta nhờ quyền phép nào mà làm những điều nầy”.
Mác 12.1-12: “Đức Chúa Jêsus khởi phán thí dụ cùng họ rằng: Một người kia trồng vườn nho, rào chung quanh, ở trong đào một cái hầm ép rượu, và dựng một cái tháp; đoạn cho mấy người làm nghề trồng nho thuê, mà lìa bổn xứ. Tới mùa, chủ vườn sai một đầy tớ đến cùng bọn trồng nho, đặng thâu lấy phần hoa lợi vườn nho nơi tay họ. Nhưng họ bắt đầy tớ mà đánh rồi đuổi về tay không. Người sai một đầy tớ khác đến; nhưng họ đánh đầu nó và chưởi rủa nữa. Người còn sai đứa khác đến, thì họ giết đi; lại sai nhiều đứa khác nữa, đứa thì bị họ đánh, đứa thì bị họ giết. Chủ vườn còn đứa con trai một rất yêu dấu, bèn sai đi lần cuối cùng mà nói rằng: Chúng nó sẽ kính vì con ta! Nhưng bọn trồng nho đó bàn với nhau rằng: Thằng nầy là con kế tự; hè, ta hãy giết nó, thì phần gia tài nó sẽ về chúng ta. Họ bắt con trai ấy giết đi, ném ra ngoài vườn nho. Vậy thì chủ vườn nho sẽ làm thế nào? Người sẽ đến giết bọn trồng nho đó, rồi lấy vườn nho lại mà cho người khác. Các người há chưa đọc lời Kinh Thánh nầy: Hòn đá bị thợ xây nhà bỏ ra, đã trở nên đá góc nhà; Ấy là công việc của Chúa, và là việc rất lạ trước mắt chúng ta, hay sao? Những người đó bèn tìm cách bắt Ngài, vì biết rõ rằng Ngài phán thí dụ ấy chỉ về mình; song sợ dân chúng, nên bỏ Ngài mà đi”.
PHẦN GIỚI THIỆU
Trong quyển sách có đề tựa “Shantung Compound”, Langdon Gilkey mô tả một nhóm người thuộc miền Tây Trung quốc, họ bị quân Nhật bản giữ trong một trại tù trong suốt Đệ II Thế Chiến. Trong một chương, ông mô tả sự phát triển của khu chợ đen ở bên trong trại. Các mặt hàng như trứng, không được đưa vào trong trại, đã trở thành các khoản đặc biệt trên thực đơn, là những lời cảm ơn đối với khu chợ đen nầy. Kế đó Gilkey mô tả thể nào quân Nhật bản đã bắn không chút thương xót những người thuộc khu chợ đen đó, không phải để xoá sổ chợ đen, mà đúng hơn họ muốn dẹp bỏ cách làm ăn phi pháp và kiếm lời lớn qua việc bán chác ấy.
Sự thật của vấn đề cho thấy rằng những kẻ có quyền, họ có cơ hội lớn để lạm quyền theo một phương thức chiếm ưu thế trên người khác và kiếm lợi lớn cho bản thân mình. Đấy là việc làm đã diễn ra mới đây trong nghiệp vụ ngân hàng, và là một yếu tố dẫn đến sự phá sản của các tổ chức cho vay và ngân hàng tiết kiệm. Những người giành được các địa vị quyền lực đều đã lạm dụng quyền lực đó, thực hiện những dịch vụ cho vay lẫn nhau trong nghiệp vụ theo một phương thức làm lợi cho bản thân họ, nhưng với phí tổn của cổ đông hay khách hàng gửi tiết kiệm.
Quyền lực luôn luôn là chủ thể của sự lạm dụng. Đấy cũng là trường hợp trong các thời kỳ Kinh Thánh nữa. Giăng Báptít đã dạy cho những tay thu thuế biết ăn năn đừng đòi quá số luật định, và binh lính đừng tống tiền người ta, cả hai cách làm nầy đều là lạm quyền (Luca 3.12-14). Các cấp lãnh đạo tôn giáo cũng đã lạm dụng quyền hành của họ. Điều nầy chẳng có gì mới trong thời của Chúa Jêsus, vì các tiên tri thời Cựu ước đã quở trách các cấp lãnh đạo Israel về sự lạm quyền của họ:
Êxêchiên 34.1-17: “Có lời Đức Giêhôva phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri nghịch cùng những kẻ chăn của Ysơraên; hãy nói tiên tri, và bảo những kẻ chăn ấy rằng: Chúa Giêhôva phán như vầy: Khốn nạn cho kẻ chăn của Ysơraên, là kẻ chỉ nuôi mình! Há chẳng phải những kẻ chăn nên cho bầy chiên ăn sao? Các ngươi ăn mỡ, mặc lông chiên, giết những con chiên mập, mà các ngươi không cho bầy chiên ăn! Các ngươi chẳng làm cho những con chiên mắc bịnh nên mạnh, chẳng chữa lành những con đau, chẳng rịt thuốc những con bị thương; chẳng đem những con bị đuổi về, chẳng tìm những con bị lạc mất; song các ngươi lại lấy sự độc dữ gay gắt mà cai trị chúng nó. Vì không có kẻ chăn thì chúng nó tan lạc; đã tan lạc thì chúng nó trở nên mồi cho hết thảy loài thú ngoài đồng. Những chiên ta đi lạc trên mọi núi và mọi đồi cao; những chiên ta tan tác trên cả mặt đất, chẳng có ai kiếm, chẳng có ai tìm. Vậy nên, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời Đức Giêhôva: Chúa Giêhôva phán rằng: Thật như ta hằng sống, vì tại không có kẻ chăn, nên những chiên ta đã làm mồi, và đã trở nên đồ ăn của mọi loài thú ngoài đồng, những kẻ chăn của ta cũng không tìm kiếm chiên ta, những chúng nó chỉ nuôi mình mà không chăn nuôi chiên ta, vì cớ đó, hỡi kẻ chăn, hãy nghe lời Đức Giêhôva: Chúa Giêhôva phán như vầy: Nầy, ta nghịch cùng những kẻ chăn đó; ta sẽ đòi lại chiên của ta nơi tay chúng nó; ta không để cho chúng nó chăn chiên của ta nữa, và chúng nó cũng không thể tự chăn nuôi lấy mình nữa; nhưng ta sẽ móc chiên ta ra khỏi miệng chúng nó, hầu cho chiên không làm đồ ăn cho chúng nó. Chúa Giêhôva phán như vầy: Nầy, chính ta, tức là ta, sẽ kiếm chiên ta, ta sẽ tìm nó ra. Ví như kẻ chăn tìm bầy mình ra, trong ngày mà nó ở giữa những chiên mình bị tan lạc, thì ta cũng sẽ tìm chiên ta ra như vậy: ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi nơi mà chúng nó đã bị tan lạc trong ngày mây mù tăm tối. Ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm chúng nó lại từ các nước, và đem chúng nó về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ chăn chúng nó trên các núi của Ysơraên, kề khe nước, và trong mọi nơi có dân cư trong nước. Ta sẽ chăn chúng nó trong những đồng cỏ tốt, và chuồng chúng nó sẽ ở trên các núi nơi đất cao của Ysơraên; ở đó chúng nó sẽ nghỉ trong chuồng tử tế, và ăn cỏ trong đồng cỏ màu mở, tức là trên các núi của Ysơraên. Ấy chính ta sẽ chăn chiên ta và cho chúng nó nằm nghỉ, Chúa Giêhôva phán vậy. Ta sẽ tìm con nào đã mất, dắt về con nào bị đuổi, rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh. Nhưng ta sẽ hủy diệt những con mập và mạnh. Ta sẽ dùng sự công bình mà chăn chúng nó. Chúa Giêhôva phán như vầy: Còn như bay, hỡi bầy chiên ta, nầy, ta xét đoán giữa chiên và chiên, giữa chiên đực và dê đực”.
Trong phân đoạn nầy từ sách Êxêchiên, các cấp lãnh đạo nước Israel bị quở trách vì sự lạm quyền của họ, và Êxêchiên cho họ biết rằng chính Đức Chúa Trời sẽ can thiệp, và Ngài sẽ cung ứng Đấng Chăn Giữ của chính Ngài để thay thế họ, hầu cho bầy chiên của Ngài, là Israel, sẽ được chăm sóc. Sự đến trên đất của Chúa là sự xuất hiện của Đấng Chăn Giữ Hiền Lành đó. Chúa diễu hành qua thành Jerusalem, với một cấp độ lớn lao, Ngài quở trách cấp lãnh đạo của Israel về sự họ lạm quyền.
Vấn đề được nhấn mạnh trong cả tiểu đoạn Kinh Thánh nầy: ấy là quyền hành. Chúa Jêsus tuyên bố rõ ràng chính Ngài là Đấng Mêsi của Israel qua sự đắc thắng vào thành Jerusalem. Khi vào thành, Ngài có ý tuyên xưng không những lai lịch Ngài là Đấng Mêsi, mà còn tỏ ra thần tính của Ngài nữa. Ngài đã bày tỏ ra quyền hạn của Ngài là Đấng Mêsi làm chủ Vương quốc của Ngài, kể cả hai con lừa. Câu nói: “Chúa cần dùng nó” do hai môn đồ Ngài nói ra, là đủ cần thiết để thuyết phục mấy người chủ lừa cho phép họ dẫn hai con vật đi. Khi Chúa vào thành, người ta tiếp đón, ngợi khen Ngài là Đấng Mêsi, và sự từ chối của Ngài không buộc đoàn dân đông phải im lặng, mọi sự đã chỉ ra quyền hạn của Ngài, là Con Đức Chúa Trời, Ngài có quyền hưởng lấy sự ngợi khen của loài người. Và, sự vào đến thờ của Ngài, sự Ngài dọn dẹp nơi ấy, và sự Ngài có mặt mỗi ngày để dạy dỗ ở đó, là minh chứng cho quyền lực của Ngài, Ngài làm chủ và đang nắm lấy quyền sử dụng Đền Thờ của mình.
Đây là chỗ xảy ra sự nghiến răng, vì nếu Chúa Jêsus xưng nhận quyền hạn đó, thì đây là sự cạnh tranh trực tiếp với “các giới chức có thẩm quyền” tại thành Jerusalem, họ đã tự xem mình là hạng người có quyền lực rồi. Sự thể nầy dẫn tới một cuộc đối đầu chính yếu, là điều mà tôi gọi là “bão tố trong đền thờ”, cơn bão nầy sẽ kết thúc trong sự đóng đinh Chúa chúng ta trên cây thập tự ở đồi Gôgôtha. Trọng tâm của bài học nầy sẽ đặt trên phần thách thức dành cho Chúa Jêsus bởi các giới chức có thẩm quyền người Do thái tại thành Jerusalem, và bởi sự đáp ứng của Ngài đối với họ. Chúng ta sẽ học biết những điều mà họ đã làm khi lạm quyền, là điều đã kích thích họ chối bỏ chính mình Đức Chúa Trời, và thậm chí cố tình kết án tử hình Ngài nữa. Tôi tin rằng chúng ta sẽ nhìn thấy chính những sự lạm quyền rất hiển nhiên trong thời đó, cách đây 2000 năm, có thể được thấy rõ hôm nay. Phần ứng dụng những câu Kinh Thánh nầy bản thân chúng đã rõ ràng rồi.
CẤU TRÚC CỦA PHÂN ĐOẠN KINH THÁNH
Tiểu đoạn chính, phân đoạn Kinh Thánh hôm nay chỉ là một phần, ấy là Luca 19.45–21.38. Chúng ta gọi phân đoạn nầy là: “Sự dạy dỗ của Chúa Jêsus trong đền thờ”. Các chương đi trước phân đoạn nầy, tất cả đều dẫn tới chỗ Chúa Jêsus vào thành Jerusalem. Các chương theo sau đều nhắm vào sự bắt bớ, sự thử thách, sự đóng đinh trên thập tự giá, và sự sống lại của Chúa chúng ta.
Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta, bắt đầu ở chương 19, câu 45, với Chúa Jêsus đang vào thẳng trong đền thờ, và sự dọn dẹp của Ngài ở đó. Khi ấy Chúa Jêsus nắm lấy quyền làm chủ đền thờ, Ngài đến đó giảng dạy mỗi ngày, rồi lui lại qua đêm ẩn trú trên núi Ôlive cách đó một khoảng đường ngắn:
“Vả, ban ngày, Đức Chúa Jêsus dạy dỗ trong đền thờ; còn đến chiều, Ngài đi lên núi, gọi là núi Ôlive, mà ở đêm tại đó. Vừa tảng sáng, cả dân sự đến cùng Ngài trong đền thờ, đặng nghe Ngài dạy” (Luca 21.37-38).
Chính lúc dạy dỗ tại đền thờ mà Chúa Jêsus đã đối mặt với các cấp lãnh đạo người Do thái đến từ thành Jerusalem, và bị thách thức tra hỏi về quyền phép của Ngài (20.1-2). Đáp ứng của Chúa Jêsus trước tiên là hỏi họ một câu về quyền phép, rồi kế đó từ chối không đưa ra một câu trả lời trực tiếp (20.3-8). Sau đó Ngài đưa ra một thí dụ, thí dụ nầy trả lời cho câu hỏi của họ một cách mạnh mẽ, nhưng bằng một phương thức gián tiếp không cung ứng cho họ lý do đủ để bắt Ngài (20.9-16a). Khi họ nghe thấy lời lẽ của Ngài, họ đã bị sốc và kinh khủng trong phần đáp ứng (20.16b), và Chúa Jêsus tiếp tục bằng cách nhắc tới một câu Kinh Thánh Cựu ước trích từ Thi thiên 118.22, câu nầy khiến cho sự dạy dỗ của Ngài vượt trổi hơn lời lẽ của thí dụ mà Ngài mới vừa nói ra (20.17-18).
BỐ CỤC CỦA PHÂN ĐOẠN KINH THÁNH
Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta đã được tóm tắt theo cách nầy:
(1) Quyền sở hữu của Chúa Jêsus đối với đền thờ — (19.45-48)
(2) Phần thách thức cấp lãnh đạo thành Jerusalem — (20.1-2)
(3) Câu hỏi vặn của Chúa Jêsus — (20.3-8)
(4) Thí dụ đáp trả của Chúa Jêsus — (20.9-16)
(5) Sự gạn lọc sâu xa của Chúa Jêsus — (20.17-18)
BỐI CẢNH
Chúa Jêsus đã đến tại thành Jerusalem. Bởi các hành động của Ngài, Ngài đã tuyên bố lai lịch của Ngài là Đấng Mêsi của Israel. Ngài có quyền sở hữu hai con lừa (19.29-34), những lời ngợi khen của dân chúng (19.35-44), rồi sau cùng là đền thờ (19.45-48). Tới điểm nầy, nguồn chống báng chính đối với Chúa Jêsus ra từ đảng của người Pharisi, dường như họ bám sát gót chân của Cứu Chúa ngay từ buổi đầu sớm sủa chức vụ của Ngài (đối chiếu Luca 5.21...). Những người Pharisi nầy không nằm trong bộ phận lãnh đạo chính của Israel, đặc biệt họ cũng không lập đầu não tại thành Jerusalem, tôi có thể nói như thế. Ít nhất là họ dường như chẳng nắm các địa vị quyền lực chủ chốt, như dòng thầy tế lễ. Dường như họ giữ vai trò phụ thuộc hơn là một phần trong cấu trúc chính quyền.
Khi Chúa bày tỏ ra quyền làm chủ đền thờ của Ngài trong Luca 19.45, chúng ta thấy rõ ngọn đuốc chống đối Chúa Jêsus đã được chuyền tay (một cách mật thiết, có lẽ là vô tình) từ đảng người Pharisi cho các cấp lãnh đạo về chính trị và về tôn giáo của người Do thái, “các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão” (Luca 20.1). Có một lý do cho vấn đề nầy. Một mặt, các cấp lãnh đạo thành Jerusalem có thể không quan tâm mấy đến chức vụ và ảnh hưởng của Chúa Jêsus ở các vùng sâu vùng xa của Israel, mà chỉ thấy như bị đe doạ khi Chúa Jêsus bao vây lãnh địa của họ, gồm có đền thờ. Họ muốn ngăn cản Ngài, những sự được lòng người của Chúa với đoàn dân đông là không thể không biết tới hay bị thách thức (19.48). Vì thế, họ đã chờ đợi để tìm cơ hội. Cuộc tấn công đầu tiên của họ đã đến trong hình thái một thách thức chính nhắm vào quyền phép bởi đó Chúa Jêsus đã làm ra những việc mà Ngài đã làm (20.2). Chính tại điểm nầy mà chúng ta hướng tới “bão tố trong đền thờ”.
QUYỀN LÀM CHỦ ĐỀN THỜ CỦA CHÚA JÊSUS (19.45-48)
Thế rồi Ngài bước vào khu vực đền thờ và bắt đầu đánh đuổi những kẻ đang mua bán ở đó. Ngài phán với họ: “Có lời chép rằng: Nhà ta sẽ là nhà cầu nguyện; song các ngươi làm thành ra một cái hang trộm cướp”. Mỗi ngày, Ngài đến dạy dỗ tại đền thờ. Nhưng các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo cùng các cấp lãnh đạo giữa vòng dân sự đang tìm cách giết Ngài. Tuy nhiên, họ không thể tìm được phương thế nào để thực thi ý định đó, vì mọi người hiện đang nghiêng về với lời dạy dỗ của Ngài.
Chúng ta đã nghiên cứu rồi những câu nầy trong bài học trước đây, và chúng ta đã ôn vắn tắt lại ở trên. Tuy nhiên, chúng rất quan trọng vì chúng đề ra bối cảnh cho mọi điều nối theo sau trong hai chương kế đó. Sự đến của Đấng Mêsi trong đền thờ của Ngài không phải là một sự cố không được mong đợi, vì tiên tri Malachi đã nói tới sự ấy khi ông viết:
“Nầy, ta sai sứ giả ta, người sẽ dọn đường trước mặt ta; và Chúa mà các ngươi tìm kiếm sẽ thình lình vào trong đền thờ Ngài, tức là thiên sứ của sự giao ước mà các ngươi trông mong. Nầy, Ngài đến, Đức Giêhôva vạn quân phán vậy” (Malachi 3.1).
Vì thế, Chúa đã đến tại đền thờ của Ngài, làm chủ nó. Ngài bắt đầu làm sạch đền thờ bằng cách đuổi ra khỏi đó những kẻ đã vận dụng sai mục đích của nó. Câu chuyện của Mác về điều nầy cung ứng cho chúng ta thấy chi tiết quan trọng hơn (đối chiếu Mác 11.15-16). Ở đây, như ở chỗ khác, Chúa Jêsus đã hành động không những theo ý chỉ của Cha Ngài, mà còn phù hợp với các lời tiên tri trong Cựu ước nữa. Những kẻ bị Chúa Jêsus đuổi ra khỏi đền thờ là những người chuyên buôn bán hàng hoá.
Thật là thú vị khi thấy nội dung rộng rãi hơn của các phân đoạn Kinh Thánh ở cả Êsai 56.7 và Giêrêmi 7.1-11.
“Các người dân ngoại về cùng Đức Giêhôva, đặng hầu việc Ngài, đặng yêu mến danh Đức Giêhôva, đặng làm tôi tớ Ngài; tức là hết thảy những kẻ giữ ngày Sabát cho khỏi ô uế, và cầm vững lời giao ước ta, thì ta sẽ đem họ vui mừng trong nhà cầu nguyện ta. Của lễ thiêu và hi sinh họ dâng trên bàn thờ ta, sẽ được nhận lấy; vì nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Êsai 56.6-7).
“Từ nơi Đức Giêhôva có lời phán cùng Giêrêmi rằng: Hãy đứng nơi cửa nhà Đức Giêhôva, tại đó hãy rao lời nầy: Các ngươi, là người Giuđa hết thảy, là những kẻ do các cửa nầy vào đặng thờ lạy Đức Giêhôva, hãy nghe lời Đức Giêhôva. Đức Giêhôva vạn quân, Đức Chúa Trời của Ysơraên, phán như vầy: Hãy sửa lại đường lối và việc làm của các ngươi; thì ta sẽ khiến các ngươi ở trong xứ nầy. Chớ nhờ cậy những lời dối trá rằng: Chính đây là đền thờ của Đức Giêhôva, đền thờ của Đức Giêhôva, đền thờ của Đức Giêhôva. Vì nếu các ngươi sửa lại kỹ càng đường lối và việc làm của mình, nếu các ngươi làm trọn sự công bình giữa người và kẻ lân cận nó; nếu các ngươi không hiếp đáp khách lạ, kẻ mồ côi, người góa bụa, và không làm đổ máu vô tội trong nơi nầy; cũng chẳng đi theo các thần khác để làm hại mình, thì ta sẽ khiến các ngươi ăn ở trong nơi nầy và trong đất mà ta đã ban cho tổ phụ các ngươi từ thuở xưa cho đến đời đời. Nầy, các ngươi cậy những lời phỉnh phờ chẳng có ích gì. Các ngươi há chẳng trộm cướp, giết người, phạm tội tà dâm, thề dối, dâng hương cho Baanh, đi theo thần khác, là thần mình không biết hay sao? Rồi các ngươi đến chầu ta trong nhà nầy, là nơi được xưng bằng danh ta, và nói rằng: Kìa, chúng tôi được thả rồi! hầu cho các ngươi được phạm mọi sự gớm ghiếc ấy. Vậy thì các ngươi xem nhà nầy, là nơi được xưng bằng danh ta, như hang trộm cướp sao? Nầy, ta, chính ta xem thấy mọi điều đó, Đức Giêhôva phán vậy” (Giêrêmi 7.1-11).
Tôi thấy thú vị nhất là trong nội dung câu nói của Êsai, đền thờ được mô tả là “nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” chớ không phải chỉ có cho Israel thôi đâu. Mác còn ghi: “cho các nước” còn Mathiơ và Luca thì không có ghi như thế. Điều nầy đặc biệt rất đáng nhớ khi Luca giảng cho dân Ngoại. Dường như có hai sự lạm dụng khả thi được thấy có ở đây. (1) Việc buôn bán đang diễn ra trong Đền Thờ đặt nơi Hành Lang Dân Ngoại, vì thế tước mất khỏi họ một chỗ để thờ phượng Đức Chúa Trời. (2) Bản chất của việc buôn bán không đúng đắn cần phải bị trục xuất. Trong chỗ thứ nhứt, Hành Lang Dân Ngoại đã bị “đổi” thành một nơi buôn bán, vì thế chẳng có một chỗ nào cho dân Ngoại thờ phượng hết, họ bị loại ra khỏi bất kỳ một sự tiếp cận nào với nơi thánh. Trong trường hợp thứ hai, những người ở xa đến, họ thiếu thú vật dùng làm con sinh, và họ cũng không có loại tiền bạc có cần cho sự thờ phượng ở đền thờ. Vì thế, những người nước ngoài sẽ bị ngăn trở không thờ phượng Đức Chúa Trời được bên trong đền thờ, và ngay cả trong Cựu ước đền thờ được xem là một nơi thờ phượng dành cho dân Ngoại và cho người Do thái.
Trong phân đoạn Kinh Thánh từ Giêrêmi 7, cũng có chỗ nói tới khách lạ bị hiếp đáp (câu 6), cũng như trộm cướp (câu 9), nhưng có chỗ nói thêm tới việc “cậy những lời phỉnh phờ” (câu 8). Tôi xem sự Chúa dọn dẹp đền thờ là phần chỉnh đốn các sai phạm trước đây, và sự dạy của Chúa chúng ta trong đền thờ là sự chỉnh đốn các sai phạm sau nầy. Chúa Jêsus đã thay thế và chỉnh đốn “sự dạy giả dối” đã mô tả đặc điểm của đền thờ (đến từ các cấp lãnh đạo tôn giáo của người Do thái) với sự dạy của chính Ngài. Chỉ một mình Luca nói cho chúng ta biết sự dạy đó gồm có việc rao giảng Tin lành (20.1), cũng như một “sự dạy dỗ” chung nhất.
Luca nói cho chúng ta biết đáp ứng của các cấp lãnh đạo người Do thái tại thành Jerusalem đối với quyền chủ trì của Chúa Jêsus tại đền thờ và sự dạy mỗi ngày của Ngài ở đó. Họ đã nổi giận lên, và mong muốn giết chết Ngài (19.47). Tôi nghĩ rất có ý nghĩa khi Luca bắt đầu với những việc nầy, như phần giới thiệu nói tới “cơn bão lớn trong đền thờ”. Chúa Jêsus đã đụng mạnh vào hạng người nầy, gây tổn thương cho họ — đụng mạnh vào những thứ thuộc về cái tôi và loại sách bỏ túi của họ. Chúng ta biết rằng người Pharisi và các thầy thông giáo đã bị tố cáo về việc ham thích địa vị và sự nổi bật ở nơi công cộng (Mathiơ 23.5-7). Sự Chúa Jêsus tiếp nhận lời ngợi khen của đoàn dân đông, và sự Ngài từ chối không ngăn chặn họ ngợi khen bị các cấp lãnh đạo nầy giải thích rằng Ngài đã cướp đi khỏi họ chức trọng và sự khen ngợi mà họ đáng được. Nếu truyền khẩu là đúng, chính các cấp lãnh đạo tôn giáo, là những người điều khiển đám rước đang đứng trong đền thờ (có ai khác đã cho phép họ) và là nhân vật đã ban bố đặc quyền nầy, tạo ra một ưu thế lớn do làm như vậy. Sự Chúa Jêsus dọn dẹp đến thờ đã tước đi khỏi các nhà lãnh đạo nầy một việc đáng giá đối với họ — đó là tiền bạc. Chúa Jêsus đã đưa ra một cú đấm thật mạnh vào mọi thứ thuộc về cái tôi cùng những cái túi quyền lực của thành Jerusalem phải bị vỡ ra. Họ sẽ không bỏ qua việc nầy đâu!
SỰ THÁCH THỨC: AI ĐANG CÓ QUYỀN Ở ĐÂY? (20.1-2)
“Một ngày trong những ngày đó, Đức Chúa Jêsus đương dạy dỗ dân chúng trong đền thờ và rao truyền Tin Lành, thì các thầy tế lễ cả, các thầy thông giáo, và các trưởng lão đến thình lình, hỏi Ngài như vầy: Hãy nói cho chúng tôi, bởi quyền phép nào mà thầy làm những điều nầy, hay là ai đã ban cho thầy quyền phép ấy?”
Chúa Jêsus vào thành Jerusalem, đây là một điều quá tệ hại. Đây là một cú đấm mạnh vào mặt của những người chủ trì đám rước khi Chúa Jêsus đánh đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ. Nhưng khi Ngài có mặt dạy dỗ trong đền thờ mỗi ngày, điều nầy xảy ra quá nhiều lần. Đây là nỗi kinh khủng của họ, mặt họ bị bôi tro trét trấu, các cấp lãnh đạo thành Jerusalem đã tin theo, và vì thế họ đã đối mặt với Chúa Jêsus trong đền thờ theo nội dung sự dạy của Ngài ở đó. Phần thách thức của họ đã đến như một thắc mắc về quyền phép của Ngài. Thắc mắc giống như gươm hai lưỡi vậy, nó đặt ra sự khác biệt ở lần thứ hai. Có hai thắc mắc như sau:
(1) Ông nghĩ ông là ai khi làm ra những việc nầy?
(2) Ai ban cho ông quyền phép để làm ra những việc nầy?
Thắc mắc thứ nhứt cần phải lo tính với quyền phép cá nhân của Chúa Jêsus. Chúa Jêsus đang hành động y như Ngài đương là chủ của nơi ấy, và thực như thế. Câu trả lời đơn giản lắm, ấy là: “Ta là Đấng Mêsi đây!” Nhưng khi dân chúng đang thưởng thức câu trả lời nầy, ít nhất là một câu trả lời khả thi, các cấp lãnh đạo đã từ chối không chấp nhận như thế. Không đúng đâu! Thắc mắc thứ hai phải liệu định với sự công nhận chính thức Chúa Jêsus — Ai sai phái Ngài? Các cấp lãnh đạo nầy dường như nghĩ rằng họ là đại biểu chính thức. Chúa Jêsus chưa nhận được phép của họ để đến với thành phố như Ngài đã đi, hoặc để tiếp nhận lời khen ngợi của con người, hay làm chủ tại đền thờ. Nếu cấp lãnh đạo thuộc linh cao nhất của đất nước chưa cấp quyền hạn cho Chúa Jêsus, thì ai cấp? Đấy là vấn đề. Chính vấn đề quyền phép, một là Chúa Jêsus có quyền phép bẩm sinh, và hai là quyền phép của Ngài được ký thác cho.
Các thắc mắc, trong và tự chúng không phải là loại thắc mắc dở hơi đâu. Động lực là sai trái, nhưng thắc mắc có thể đem lại nhiều lợi ích. Nếu Chúa Jêsus là Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời, là Đấng được sai phái từ Đức Chúa Trời, thì Ngài có quyền nói và làm theo như Ngài muốn. Ngài có quyền làm chủ muôn vật, cũng như có quyền tuyên bố Lời Ngài là lẽ thật. Những ai trong chúng ta chịu công nhận Ngài là Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời cũng sẽ công nhận và phục theo mọi quyền hạn và mọi phép tắc của Ngài. Các cấp lãnh đạo thành Jerusalem luôn khăng khăng với các tín điều của họ hơn cả chúng ta nữa. Họ từ chối không nhận Ngài là Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời và từ chối không tiếp thu sự dạy của Ngài. Chúng ta tuyên xưng tiếp nhận Ngài là Con thiêng liêng của Đức Chúa Trời và thường không chấp nhận sự dạy của Ngài.
SỰ THẬT HAY CÁC HẬU QUẢ (20.3-8)
“Ngài đáp rằng: Ta cũng hỏi các ngươi một câu. Hãy nói cho ta: Phép báptem của Giăng đến bởi trên trời, hay là bởi người ta? Vả, những người ấy bàn cùng nhau rằng: Nếu chúng ta nói: Bởi trời, thì người sẽ nói với ta rằng: Vậy sao các ngươi không tin lời người? Lại nếu chúng ta nói: Bởi người ta, thì các dân sự sẽ ném đá chúng ta; vì họ đã tin chắc Giăng là một đấng tiên tri. Vậy nên họ trả lời rằng không biết phép ấy bởi đâu mà đến. Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta cũng không nói cho các ngươi bởi quyền phép nào ta làm những điều nầy”
Vấn đề được cơi cho rộng thêm, vì Giăng Báptít đã giới thiệu Chúa Jêsus với dân Israel là Đấng Mêsi. Nếu các cấp lãnh đạo thành Jerusalem sắp sửa công bố quyền phép của Chúa Jêsus, họ cũng phải xử lý với quyền phép của Giăng, vì nếu Giăng là một vị tiên tri đã được Đức Chúa Trời chỉ định, là một phát ngôn viên của Đức Chúa Trời, thì Chúa Jêsus phải là Đấng Mêsi. Chúa Jêsus đã buộc các đối thủ của Ngài phải xử lý với bằng chứng xác thực của Giăng trước khi Ngài làm chứng cho bản thân mình. Hơn nữa, nếu họ từ chối không nhận sự làm chứng của Giăng, thì họ chắc chắn sẽ không chấp nhận Chúa Jêsus. Thế thì, hãy để cho họ tự tuyên bố lấy, về quyền phép của Giăng. Ông đã có quyền phép nào? Ai sai phái ông ấy? Nếu họ trả lời được thắc mắc nầy, thì Chúa Jêsus mới trả lời cho mọi thắc mắc của họ.
Hãy chú ý Chúa Jêsus làm mọi dư luận co lại còn có hai mà thôi, thực vậy chỉ có hai ý kiến khả thi. Quyền phép, một là của con người hay là của Đức Chúa Trời!?! Vì thế, Chúa Jêsus đã ép các đối thủ của Ngài phải tuyên bố quyền phép của Giăng có phải đến từ Đức Chúa Trời hay không!?! Hay Giăng chỉ hành động theo cảm tính của (con người) mình. Phải chăng Đức Chúa Trời đã sai phái Giăng, hoặc ông làm theo ý riêng mình?
Sự thận trọng của các cấp lãnh đạo nầy rất buồn cười, đáng thương, tất cả cùng một lúc. Họ không hề khám phá vấn đề nầy với một cái nhìn học biết lẽ thật. Họ không ưa thích lẽ thật, mà ưa thích kết quả. Họ có lý trí mở sẵn rồi, nhưng họ thiếu can đảm không nói ra được và khiến đám đông nghe theo họ. Họ khác biệt với đại đa số. Đại đa số đều cho Giăng là một vị tiên tri. Họ đã từ chối không nhận ông. Vì thế, họ phải xem xét mọi kết quả của bất kỳ câu trả lời nào mà họ sẽ đưa ra. Âm điệu thì họ giống như những người làm chính trị ở đây hơn là cấp lãnh đạo thuộc linh. Dân chúng sẽ làm gì nếu chúng ta nói thế nầy hay thế kia? Đây là mối quan tâm chủ yếu của họ. Họ không muốn mất địa vị hay quyền hành của họ. Và vì thế toàn bộ cuộc tranh luận chỉ là võ đoán mà thôi.
Họ không dám nói rằng họ thực sự tin, và vì thế họ chẳng nói gì hết. Câu trả lời của họ có lẽ là một trong những câu trả lời đau đớn nhất mà họ từng đưa ra, vì họ buộc phải nói: “Chúng tôi không biết”. Đối với người nào quyền hạn của họ dựa trên việc họ “hiểu biết mọi sự”, đây là một nụ hôn của sự chết. Họ nghẹn ngào với câu nói nầy dường bao: “Tôi không biết”, đặc biệt khi họ tin chắc rằng họ vốn biết rõ. Khi họ từ chối không trả lời, Chúa Jêsus cũng từ chối họ. Làm thế nào họ dám đòi hỏi câu trả lời trong khi họ không dám trả lời chứ?
THÍ DỤ NÓI TỚI VƯỜN NHO VÀ NHỮNG NGƯỜI TRỒNG NHO (20.9-16)
“Đức Chúa Jêsus phán cùng dân chúng lời thí dụ nầy: Người kia trồng một vườn nho, đã cho kẻ trồng nho mướn, rồi bỏ xứ đi lâu ngày. Đến mùa nho, chủ sai một đầy tớ tới cùng những kẻ trồng nho đặng nhận một phần hoa lợi; song bọn trồng nho đánh đầy tớ, đuổi về thay không. Chủ lại sai một đầy tớ khác nữa; song họ cũng đánh, chưởi, và đuổi về tay không. Chủ lại sai đầy tớ thứ ba; song họ cũng đánh cho bị thương và đuổi đi. Chủ vườn nho bèn nói rằng: Ta làm thể nào? Ta sẽ sai con trai yêu dấu ta đến; có lẽ chúng nó sẽ kính nể! Song khi bọn trồng nho thấy con trai ấy, thì bàn với nhau như vầy: Kìa, ấy là con kế tự; hãy giết nó, hầu cho gia tài nó sẽ về chúng ta. Họ bèn liệng con trai ấy ra ngoài vườn nho, và giết đi. Vậy chủ vườn sẽ xứ họ làm sao? Chủ ấy chắc sẽ đến diệt những kẻ trồng nho nầy, rồi lấy vườn giao cho người khác. Ai nấy nghe những lời đó, thì nói rằng: Đức Chúa Trời nào nỡ vậy!”
Dường như thí dụ nầy là một trong nhiều thí dụ mà Chúa Jêsus bắt đầu tường thuật vào thời điểm nầy (đối chiếu Mác 12.1, ở đây ông cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus bắt đầu nói ra bằng các thí dụ — hãy chú ý số nhiều ở đây). Đây là một câu chuyện rất đơn sơ, nhưng nó có một cú đấm rất mạnh. Nếu Chúa Jêsus không trả lời câu hỏi về quyền phép của Ngài một cách trực tiếp, câu trả lời của Ngài ở đây được đưa ra một cách gián tiếp và rất là đau đớn.
Vườn nho là một biểu tượng thông thường nói tới nước Israel. Trong lần Xuất Ai cập, Đức Chúa Trời đã dựng lên Israel, như thực vậy. Luật pháp Môise xác định những gì Đức Chúa Trời mong mỏi từ dân sự của Ngài. Những người giữ vườn trong thí dụ rõ ràng là các cấp lãnh đạo của đất nước. Khi Israel thất bại không đưa ra được những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi, Đức Chúa Trời đã sai các tiên tri của Ngài, họ là những “tôi tớ” trong thí dụ. Đất nước, qua các cấp lãnh đạo của nó, thường hay chối bỏ các vị tiên tri, chối bỏ họ và sứ điệp của họ. Mặc dù Đức Chúa Trời đã sai các tôi tớ nầy đến, họ đã bị chối bỏ và bị bắt bớ. Giăng Báptít, về người Chúa Jêsus đã hỏi các đối thủ của Ngài, có phải ông là người cuối cùng trong các vị tiên tri!?! Và họ đã chối bỏ ông, giống như những vị khác.
Các vị tiên tri chẳng được coi là có quyền gì trên những người giữ vườn nho. Hiển nhiên là chủ vườn nho đã quyết định sai đến con của người. Chắc chắn họ sẽ công nhận cùng phục theo quyền của con ấy. Nhưng thay vì thế, những kẻ loạn nghịch nầy có chủ ý giết chết người con, họ tưởng rằng làm vậy họ sẽ hưởng lấy tài sản vườn nho và quyền tiếp tục thống trị trên đó. Người chủ vườn nho chắc chắn sẽ được xưng công bình khi đến với vườn nho của mình, hủy diệt cấp lãnh đạo của nó, và đặt người khác lo quản thủ ngôi vườn ấy.
Đúng là một sứ điệp quả quyết chúng ta thấy ở đây. Có những người giống như Giăng, là tiên tri, và vì thế có quyền phát ngôn cho Đức Chúa Trời. Giăng, là một phát ngôn viên được Chúa chỉ định nói thay cho Đức Chúa Trời, đã tuyên bố Chúa Jêsus là Đấng Mêsi. Thế nhưng, y như các cấp lãnh đạo của Israel đã chối bỏ những vị tiên tri khác, cũng một thể ấy họ đã đối xử với Giăng y như vậy. Chúa Jêsus, trong thí dụ, đang nói cho khán thính giả của Ngài biết rằng Ngài không phải là một tiên tri; Ngài là Đức Chúa Con. Đấy là cơ sở cho quyền phép của Ngài. Ngài sở hữu vườn nho. Ngài được Cha Ngài sai phái để thụ hưởng những thứ thuộc về Ngài. Nhưng họ sẽ chối bỏ Ngài và kết án tử hình Ngài. Và họ làm thế cùng với sự hiểu biết đầy đủ rằng Ngài là Đức Chúa Con. Họ giết Ngài vì Ngài là Đức Chúa Con. Chúng ta gọi đây là những gì các đối thủ Ngài đã dự trù sẵn để lo làm rồi (Luca 19.47). Không phải là họ không biết Chúa Jêsus là ai, họ không muốn chấp nhận quyền phép của Ngài. Trong thắc mắc không phải chủ yếu là lai lịch của Ngài, mà là quyền phép của Ngài.
Cha của Con nầy, là chủ vườn nho, sẽ được xưng công bình trọn vẹn trong việc hủy diệt các cấp lãnh đạo ấy. Và Ngài sẽ thực thi công việc. Ngài cũng được xưng công bình trong việc ban chức năng lãnh đạo của họ cho những người khác. Trong phạm trù đó, những người thay thế các cấp lãnh đạo đều là dân Ngoại. Hãy tưởng tượng điều nầy xem! Chúa Jêsus đang nói rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời, Ngài đến với uy quyền của Đức Chúa Trời, họ sẽ giết Ngài, và Đức Chúa Trời không những hủy diệt họ, mà Ngài còn ban chức năng lãnh đạo của họ cho dân Ngoại. Đáp ứng của khán thính giả của Chúa là đáp ứng có thể đoán được — “Đức Chúa Trời ngăn cấm!” Đây là chỗ duy nhất trong các sách tin lành từ ngữ nầy xuất hiện. Đây là một tư tưởng gần như là quá khủng khiếp không thể xét nét được. Chúa Jêsus đã hạ thấp hàng rào chắn, áng ngang các đối thủ của Ngài.
CÁCH GẠN LỌC SÂU SẮC CỦA CHÚA JÊSUS (20.17-18)
“Đức Chúa Jêsus bèn ngó họ mà rằng: Vậy thì lời chép: Hòn đá thợ xây nhà bỏ ra, trở nên đá góc nhà, nghĩa là gì? Hễ ai ngã nhằm đá nầy, thì sẽ bị giập nát, còn đá nầy ngã nhằm ai, thì sẽ giập người ấy”.
Thí dụ về vườn nho chưa nói đủ hết! Thí dụ ấy trả lời dứt khoát cho thắc mắc của các cấp lãnh đạo Do thái, về quyền phép cá nhân của Chúa Jêsus, và về ai đã sai phái Ngài. Thí dụ vườn nho cũng được Chúa chúng ta áp dụng để dạy rằng vai trò lãnh đạo của các đối thủ của Chúa Jêsus sẽ bị cất bỏ và được giao cho người khác (dân Ngoại), trong khi cấp lãnh đạo Do thái sẽ bị hủy diệt. Nhưng thí dụ nầy thất bại không vạch ra được “phần còn lại của câu chuyện” như Paul Harvey nói. Nó thất bại không vạch ra được sự hủy diệt các cấp lãnh đạo gian ác của Israel sẽ do Con Đức Chúa Trời hoàn thành, là Đấng Mêsi mà họ đã chối bỏ.
Đức Chúa Con là Đấng bị chối bỏ và bị án chết là Con Đức Chúa Trời, Ngài sẽ sống lại từ kẻ chết, và một ngày kia Ngài sẽ tái lâm trên đất để thiết lập Vương quốc của Ngài. Đức Chúa Con ở mặt nầy là “đá vấp chơn”, một cớ gây vấp váp cho người Do thái. Đây là vai trò của Chúa chúng ta trong thời điểm đó. Nói theo “thụ động cách” (hòn đá không di động, con người đã vấp chơn trên hòn đá đó) Chúa Jêsus là một vầng đá vấp chơn cho những ai từ chối không công nhận tội lỗi và nhu cần của họ về một Cứu Chúa. Nhưng “hòn đá vấp chơn” thụ động nầy, mà những thợ xây nhà (cấp lãnh đạo quốc gia) đã chối bỏ, cũng sẽ trở thành một đại biểu năng động trong sự hủy diệt họ. Giờ đây, Ngài bị xem là một hòn đá di động, một hòn đá rớt ngã, nó nghiền nát các kẻ thù của Ngài.
PHẦN KẾT LUẬN:
Tôi tin rằng thắc mắc nầy, do cấp lãnh đạo người Do thái dấy lên và được Chúa chúng ta trả lời, chỉ ra yếu tố chính trong mối quan hệ của con người với Đức Chúa Trời — đó là quyền phép. Con người tội lỗi mong muốn được tự do theo ý chí, con người muốn giữ lấy quyền lực của riêng mình, và từ chối mọi quyền phép khác, đặt biệt là quyền phép của Đức Chúa Trời. Thắc mắc của Tấn sĩ Dobson, tôi thường nghe ông hỏi: “Ai có quyền ở đây?” là thắc mắc thích đáng nhất.
Satan được ban cho cả quyền lực và sự đẹp đẽ, nhưng hắn vẫn chưa vừa lòng. Hắn không muốn ở dưới quyền của Đức Chúa Trời, nhưng muốn thiết lập quyền lực riêng của mình, để “trở nên giống như Đấng Chí Cao” (Êsai 14.14). Sau sự sa ngã của Satan, hắn đã dối gạt Êva và đã giục giã Ađam phải hành động độc lập đối với quyền của Đức Chúa Trời, hắn cũng hứa với họ rằng họ sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời (Sáng thế ký 3.5).
Khi Đức Chúa Trời giải phóng dân Israel, Ngài đã giải phóng họ ra khỏi quyền lực của Ai cập, nhưng họ chưa thực sự được tự do, họ đã trở thành hàng nô lệ của Ngài (đối chiếu Lêvi Ký 25.55). Luật pháp của Môise đã trở thành hiến pháp của xứ sở. Bản thân xứ sở tùy thuộc vào Đức Chúa Trời (Lêvi Ký 25.23), và dân Israel sống trên đất đó bao lâu họ biết vâng theo Đức Chúa Trời là Vua của họ. Nhưng xuyên suốt những thời kỳ Cựu ước, dân Israel đã nổi loạn chống lại quyền lực của Đức Chúa Trời, vì việc nầy họ đã bị trừng phạt (đối chiếu Thi thiên 78). Cho nên chẳng có gì phải ngạc nhiên khi dân Israel không vâng phục Đức Chúa Trời xuyên suốt lịch sử của họ, họ cũng từ chối không vâng phục quyền phép của Đức Chúa Jêsus Christ, là Con Đức Chúa Trời.
Việc đáng ngạc nhiên: ấy là Chúa Jêsus không đến với đất lần đầu tiên để mở ra Vương quốc của Ngài bằng cách thực thi quyền phép của Ngài, bằng sức mạnh tuyệt đối, mà bằng cách để cho loài người chối bỏ Ngài, và thậm chí đóng đinh Ngài trên một cây thập tự, trên đó Ngài đã gánh lấy tội lỗi của loài người, kể cả những kẻ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Tuy nhiên, sứ điệp không dừng lại ở đây, vì sự rao giảng Tin lành trong sách Công vụ Các sứ đồ thông báo cho dân Israel biết rằng Đấng mà họ đã chối bỏ, Đức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ kẻ chết, và Ngài sẽ tái lâm để đem lại sự công bình cho quả đất và để bắt phục các kẻ thù của Ngài (đối chiếu Công vụ Các sứ đồ 2). Khi Ngài tái lâm, Ngài sẽ đến “công khai” với đầy đủ vẻ vinh quang của Ngài, và bày tỏ ra quyền phép cả thể của Ngài trong sự bắt phục các kẻ thù nghịch Ngài. Thật là quan trọng dường bao khi tiếp nhận Đấng Christ là Đấng đã bị chối bỏ, làm Đấng Cứu Chuộc, hơn là phải thần phục Ngài trong vai trò Đấng chinh phục mạnh sức. Tôi mong rằng quí vị đã làm xong việc ấy, hoặc giả quí vị sẽ thực thi điều đó ngay hôm nay, chỉ đơn sơ công nhận tội lỗi của mình, và Đấng Christ làm Cứu Chúa của quí vị, là Đấng đã gánh lấy tội lỗi của quí vị. Sách Khải huyền, sách cuối cùng trong quyển Kinh Thánh của chúng ta, nói nhiều về sự tái lâm của Đấng Christ, và nói nhiều về quyền phép và uy lực của Ngài, là điều sẽ trở nên rõ ràng cho mọi người khi Ngài tái lâm để trị vì trên đất.
Tội lỗi là một nan đề lớn về quyền phép. Chúng ta phạm tội, không phải vì chúng ta thiếu hiểu biết về những điều mà Đức Chúa Trời đòi hỏi, nhưng vì chúng ta từ chối quyền phép của Ngài. Chúng ta đã điều khiển chính đời sống chúng ta, và sống sao cho đẹp lòng chúng ta. Chúng ta thích giống như Đức Chúa Trời hơn là vâng theo Ngài. Tội lỗi từ chối quyền phép của Đức Chúa Trời và tìm cách sống biệt lập, xây lưng người ta về phía các điều răn của Đức Chúa Trời. Trong khi chúng ta có thể lễ độ hơn cấp lãnh đạo Do thái, họ đã ở trong sự thách thức quyền phép của Chúa Jêsus, nan đề của chúng ta là một và như nhau.
Điều mỉa mai là khi chúng ta từ chối quyền phép của Đức Chúa Trời, chúng ta không trở thành ông chủ của linh hồn mình và thuyền trưởng của số phận mình. Khi chúng ta bác bỏ quyền phép của Đức Chúa Trời, chúng ta đang tự đặt mình dưới quyền lực khủng khiếp của tội lỗi, và của chính Satan. Hãy tưởng tượng điều đó xem. Khi dân sự trong thời của Chúa Jêsus chối bỏ Ngài, họ nói: “Chúng tôi không có vua khác chỉ Sêsa mà thôi” (Giăng 19.15). Họ vui sướng đổi lấy một kẻ phản bội (Baraba) để bỏ Con vô tội của Đức Chúa Trời, và bỏ quyền cai trị công bình của Đức Chúa Trời để lấy quyền lực của một vị vua độc dữ, thù hận và tà giáo là Caesar! Khi chúng ta từ chối quyền phép của Đức Chúa Trời, quyền trị vì của Đức Chúa Trời, chúng ta tự ký thác mình vào quyền thống trị của tội lỗi và của Satan. Sự “tự do” mà Satan hiến cho con người là tự do ở ngoài sự công bình và sự sống, và những ràng buộc của tội lỗi và chết chóc.
Thật là lý thú khi để ý thấy sở hữu quyền phép thường là một sự cám dỗ lớn lao dành cho Cơ đốc nhân hơn là có của cải và sự giàu có. Các môn đồ có thể (gần như là tự hào) xưng nhận mình đã lìa bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Jêsus, nhưng cơn khao khát quyền lực của họ chẳng thu nhỏ chút nào đâu! Thực thế, với lần tiếp cận thành Jerusalem, các môn đồ đã có lòng sốt sắng càng hơn về sự khao khát đó. Họ bàn bạc với nhau xem ai là người lớn nhất. Giacơ và Giăng đã tìm cách sử dụng mẹ của họ để kiếm địa vị cho họ.
Ngày nay có nhiều Cơ đốc nhân dường như chẳng có sự khao khát nào về tiền bạc, nhưng lại có một sự khát khao rất lớn về quyền lực. Và tại sao không chứ? Có ai cần tiền bạc một khi họ đang có quyền lực? Tiền bạc chỉ là một phương tiện để có được quyền lực. Nếu một người có thể kiếm được quyền lực không cứ cách nào đó, thì tiền bạc không còn cần tới nữa. Phần nhiều cuộc tranh cạnh mà chúng ta đang nhìn thấy trong Hội Thánh và giữa các Cơ đốc nhân đều bắt nguồn từ một cơn khát khao về quyền lực. Thế thì Tân ước dạy chúng ta phải xử lý thế nào với điều ác lớn lao nầy? Phải thắng hơn tánh khao khát quyền lực bằng cách nào? Cho phép tôi đưa ra một vài đề nghị, dựa trên sự khải thị khác trong Kinh Thánh.
(1) Chúng ta phải bắt đầu với một sự công nhận mọi quyền bính đều thuộc về Đức Chúa Trời. Trong khi có nhiều bản thảo nói khác đi về nguồn gốc của câu nói nầy, chúng đang tỏ ra một lẽ thật quan trọng trong Kinh Thánh: “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ, mà cứu chúng tôi khỏi điều ác! [Vì nước, quyền, vinh hiển đều thuộc về Cha đời đời. A-men.]” (Mathiơ 6.13).
Thầy đội La mã trong Luca 7 đã hiểu rất rõ rằng ông không phải là người có nhiều uy quyền cũng như ông là một người chịu dưới quyền của người khác. Khi Philát tìm cách gây ấn tượng với Chúa Jêsus bằng quyền lực của ông ta, Chúa đã nhắc cho ông ta nhớ rằng quyền lực của ông ta đã được phú cho ông ta, và ông ta phải trình sổ về cách sử dụng quyền lực đó (Giăng 19.10-11). Hạng người có quyền phép thuộc linh công nhận rằng quyền phép nầy là quyền phép của Đức Chúa Trời chớ không phải quyền phép của họ. Hết thảy quyền bính đều là quyền bính của Đức Chúa Trời, và mọi vinh hiển đều qui cho Ngài, chớ không phải cho loài người. Một cái nhìn thích đáng về quyền phép bắt đầu với cái nắm bắt ai đang làm chủ nó.
(2) Quyền lực mà chúng ta được ban cho chỉ là quyền của một viên quản lý, và là thứ quyền mà một ngày kia chúng ta phải trình sổ (đối chiếu I Côrinhtô 4.1-5; Hêbơrơ 13.17).
(3) Quyền lực chỉ là một phương tiện cho sự phục vụ, và được thực thi với nguyên tắc của chức năng tôi tớ. Tôi thấy thú vị nhất là Phierơ, là người có ý định tìm kiếm quyền lực, đã được ban cho những lời nầy truyền đạt cho các trưởng lão, là hạng người có quyền hành trong Hội Thánh:
“Tôi gởi lời khuyên nhủ nầy cho các bậc trưởng lão trong anh em, tôi đây cũng là trưởng lão như họ, là người chứng kiến sự đau đớn của Đấng Christ, và cũng có phần về sự vinh hiển sẽ hiện ra: hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm, chẳng phải quản trị phần trách nhậm chia cho anh em, song để làm gương tốt cho cả bầy” (I Phierơ 5.1-3).
Quyền lực có khuynh hướng lệch lạc, như con người đã khám phá ra trong lịch sử. Cho nên, Phaolô đã cảnh cáo các trưởng lão ở thành Êphêsô rằng có người sẽ “dấy lên”, lôi kéo nhiều người theo họ, lạm dụng lòng tin vào quyền thế đã trao cho họ (Công vụ Các sứ đồ 20.28-31). Một phần của vấn đề: ấy là trong khi có người thích quản trị người khác, thì có người thích chịu người ta bắt mình làm tôi tớ (đối chiếu II Côrinhtô 11.20). Người nào nắm lấy quyền lãnh đạo, họ đang có quyền phép của Đức Chúa Trời ban cho, phải thực thi quyền ấy với thái độ hạ mình và với sự tử tế. Chính thái độ giống như Đấng Christ, như hàng tôi tớ mà chúng ta phải phấn đấu, bởi ân điển của Ngài, mà bắt chước theo, thay vì chủ nghĩa độc đoán ưa thích quyền lực của người thế gian (đối chiếu Mác 10.35-45).
Thật là đáng buồn làm sao, nhưng là sự thật, ấy là ngay trong Hội Thánh, một loại suy nghĩ quan liêu đang dấy lên, tương tự với suy nghĩ của các cấp lãnh đạo Do thái trong phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta. Chúng ta, giống như họ, có thể quên Hội Thánh thuộc về Đấng Christ, chính Hội Thánh là của Ngài, chớ không phải của chúng ta, và Ngài là Đấng hưởng lợi từ Hội Thánh đó. Nhưng thường thì các cấp lãnh đạo Hội Thánh bắt đầu xem Hội Thánh là thuộc về riêng họ, và để bảo vệ quyền hạn và địa vị của họ, thay vì sử dụng Hội Thánh như các đại lộ cho sự hầu việc. Và thường thì hết thảy chúng ta đều đi nhà thờ, trông mong (thậm chí đòi hỏi) phúc lợi từ Hội Thánh, nhưng lại quên rằng chính Đức Chúa Trời mới là Đấng có quyền trông mong và hưởng lợi. Hội Thánh, giống như dân Israel, đều thuộc về Đức Chúa Trời, và lý do tối hậu của Hội Thánh để tồn tại không phải là lợi ích của chúng ta, mà là lợi ích của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta không còn nhìn thấy lẽ thật nầy, chúng ta có thể đạt tới điểm cố gắng loại bỏ Đức Chúa Trời hầu cho chúng ta bảo vệ mọi tiện ích của riêng mình. Chúng ta hết thảy hãy tỉnh thức trước thái độ nầy, nó đang ẩn núp bên dưới bề mặt của mỗi một linh hồn chúng ta.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét