Thứ Ba, 18 tháng 5, 2010

Luca 4.31-44: "THẦN TÍNH ĐỐI DIỆN VỚI MA QUỶ"



Phần giới thiệu
Ôn tóm tắt
Chức vụ của Chúa Jêsus tại Cabênaum (4.31-43).
Sự chữa lành cho bà gia Phierơ (4.38-41).
Ưu thế chức vụ của Chúa Jêsus (4.42-44).
Phần kết luận
BÀI 14
THẦN TÍNH ĐỐI DIỆN VỚI MA QUỶ
“Ngài xuống thành Ca-bê-na-um, thuộc xứ Ga-li-lê, dạy dỗ trong ngày Sa- bát. Mọi người đều cảm động về sự dạy dỗ của Ngài; vì Ngài dùng quyền phép mà phán. Vả, trong nhà hội có một người bị tà ma ám, cất tiếng kêu lớn lên rằng: Hỡi Jêsus Na-xa-rét! Chúng tôi với Ngài có sự gì chăng? Ngài đến để diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai: là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời! Song Đức Chúa Jêsus quở nặng nó, mà rằng: Hãy nín đi, và ra khỏi người nầy. Quỉ bèn vật ngã người giữa đám đông, rồi ra khỏi không làm hại chi đến người. Mọi người đều sững sờ, nói cùng nhau rằng: Ay là đạo gì đó? Người lấy phép và quyền đuổi tà ma, và chúng nó liền ra! Vậy danh tiếng Ngài đồn khắp các nơi xung quanh. Đức Chúa Jêsus ra khỏi nhà hội, vào nhà Si-môn. Bà gia Si-môn đang đau rét nặng lắm. Người ta xin Ngài chữa cho, Ngài bèn nghiêng mình trên người, truyền cho cơn rét, rét liền lìa khỏi. Tức thì người chờ dậy hầu việc. Khi mặt trời lặn rồi, ai nấy có người đau, bất k" bịnh gì, đều đem đến cùng Ngài; Ngài đặt tay lên từng người mà chữa cho họ. Cũng có các quỉ ra khỏi nhiều kẻ, mà kêu lên rằng: Ngài là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời! Nhưng Ngài quở nặng chúng nó, cấm không cho nói mình biết Ngài là Đấng Christ. Vừa rạng ngày, Ngài ra đi đến nơi vắng vẻ, một đoàn dân đông kéo đi tìm Ngài. Họ theo kịp, giữ Ngài ở lại, không muốn để Ngài đi. Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến. Vậy Ngài giảng dạy trong các nhà hội xứ Ga-li-lê” (Luca 4.31-44).
Phần giới thiệu
Cách đây mấy năm (hoặc hơn thế), khi tôi còn là sinh viên trong thần học viện, tôi đã đi ra ngoài nán trễ lại đến tối để bổ sức qua những cơn gió lạnh vào buổi chiều. Nơi tôi ở nằm kế bãi đậu xe của trường, và tôi để ý thấy có chiếc xe hơi đậu phía ngoài thư viện, với bốn người trong chiếc xe đó. Bảng số xe không thuộc tiểu bang và tình hình đáng ngờ đủ để tôi phải gọi cảnh sát xin kiểm tra lại chiếc xe cùng mấy người trên đó. Mới đây cũng đã có một số vụ mất trộm tại trường và xử sự như thế cho thấy rất thích nghi. Tôi không bỏ qua vấn đề và xin cảnh sát đến kiểm tra khi họ đang trên lộ trình tuần tra.
Tuy nhiên, sự việc không xảy ra theo ý muốn. Trong vòng năm phút, bốn chiếc xe tuần tra đã đến tại hiện trường, hai chiếc đến từ hai phía của bãi đậu xe. Một trong mấy chiếc tuần tra đến đậu sau chiếc xe kia. Tôi bắt đầu thấy không thoải mái về việc mình đã làm. Ai ngồi trong chiếc xe đó, và họ đang làm gì? Một người bạn của tôi đã ở cùng phòng với một trong bốn sinh viên đang có mặt trên chiếc xe. Anh ta cho tôi biết là có hai đến ba sinh viên thần học đang ngồi trên xe, họ đang cố gắng đuổi quỷ hiện ám trên một thanh niên kia.
Mấy người nầy đã nói gì với cảnh sát, khi họ bị yêu cầu cho biết chuyện gì đang diễn ra? Quý vị sẽ nói sao? “Ồ chẳng có chuyện gì đâu, thưa thầy cảnh sát. Ông thấy đấy chúng tôi đang cố gắng đuổi một quỷ ra khỏi anh bạn nầy đấy thôi”. Đúng, đấy là một nhóm hoàn toàn mới, mặc áo choàng trắng và loại áo vét rất nghiêm túc.
Khi tôi trình với giáo sư người bạn của tôi, anh ta đáp: “Tôi đã nói dối!” Tôi biết rõ anh ta đã cảm nhận như thế nào. đây là người chắc chắn không muốn nói cho cảnh sát biết thực sự mình đang làm gì. Trong thời buổi của chúng ta, quỷ ám không phải là việc mà nền văn hoá của chúng ta quen trông thấy đâu, họ cũng không sốt sắng công nhận ma quỷ đang hiện diện nữa. Scott Peck, nhà tâm lý học và là nhà văn viết quyển sách nổi tiếng có đề tựa là The Road Less Traveled [Con đường ít kẻ qua lại], cũng đã viết một quyển sách nghiên cứu về quỷ ám, có đề tựa là People of the Lie. Trong quyển sách nầy ông xưng mình là một Cơ đốc nhân, và ông cũng làm chứng ít nhất hai kinh nghiệm quỷ ám trong sự nghiệp của mình. Ông chỉ ra nhà văn khác, ông nầy đang theo đuổi vấn đề đầy trọn hơn. Quỷ ám, theo Peck, là một sự thực, thậm chí ở nước Mỹ.
Phân đoạn Kinh Thánh mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong bài học nầy không những là thích đáng với chúng ta vì ma quỷ đang hiện diện hôm nay và vẫn đang ám ảnh con người. Phân đoạn Kinh Thánh nầy thích đáng với chúng ta vì một số điểm ứng dụng khác nữa. Ấn tượng lúc ban đầu của tôi là nhìn thấy dân chúng thành Cabênaum có số lượng đông so với số dân ở thành Naxarét. Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta kết thúc với dân chúng đang nài xin Chúa Jêsus đừng rời khỏi họ, trong khi dân chúng tại thành Naxarét thì muốn đuổi Ngài ra khỏi nhà hội và tìm cách giết Ngài. tuy nhiên, trong trường hợp nầy, những khác biệt giữa dân chúng ở hai nơi ấy thực sự rất hời hợt, và những điểm tương đồng thì lại rất rắc rối. Cái điều đáng bận tâm là sự thấy rõ ma quỷ rất thường xuyên ám ảnh người dân của hai thành phố nầy. Chúng ta hãy xét qua phân đoạn Kinh Thánh để phân biệt những khác biệt và tương đồng giữa ba nhóm chính đã được mô tả: người Naxarét, người Cabênaum, và ma quỷ.
Ôn tóm tắt
Những câu chuyện nói tới sự ra đời của Chúa Jêsus và Giăng Báptít, người tiền khu của Ngài đã giới thiệu Tin lành của Luca. Kế đó, Luca thuật lại cho chúng ta biết sự khởi đầu chức vụ của Giăng và chức vụ của Chúa chúng ta. Giăng bắt đầu rao giảng Đấng Mêsi sắp đến và con người cần phải ăn năn trong sự sửa soạn đợi Ngài hiện đến. Ông không nhận mình là Đấng Mêsi và lập tức chỉ ra Chúa Jêsus là Vua đã được Đức Chúa Trời ấn định khi Ngài đến chịu phép báptêm. Chúa Jêsus được Thánh Linh đưa vào đồng vắng, ở đó Ngài đã chịu cám dỗ.
Luca bỏ qua năm đầu chức vụ công khai của Chúa Jêsus, với hai câu duy nhất tóm tắt sự va chạm của chức vụ Ngài tại xứ Galilê (4.14-15). Tiếng tăm của Chúa đã đến tận Naxarét, nơi mà Ngài đã lớn lên, rất lâu trước khi Ngài trở lại thành phố nầy. Khi Ngài đến vào ngày Sabát và đọc phân đoạn Kinh Thánh Êsai, lòng trông mong Đấng Mêsi vụt trổi lên rất lớn. Naxarét không chỉ là một thị trấn chẳng có tiếng tăm gì nhiều trong xứ Galilê, đó là một thị trấn với ít tiếng tăm, như Nathanaên đã nói: “Há có vật gì tốt ra từ Naxarét được sao?” (Giăng 1.46).
Khi Chúa Jêsus nói về Nathanaên là: “một người Ysơraên thật, trong người không có điều dối trá nào hết” (Giăng 1.47), chúng ta phải tin rằng câu nói nầy đã tỏ ra cả định kiến và thành kiến trong đó nữa.
Khi Chúa Jêsus báo cho dân thành Naxarét biết lời lẽ của Êsai, lời hứa về sự đến của Đấng Mêsi, đã ứng nghiệm khi họ đã nghe thấy, dân chúng rất vui thích:
“Ai nấy đều làm chứng về Ngài, lấy làm lạ về các lời đầy ơn lành từ miệng Ngài ra, và nói rằng: Có phải con Giô-sép chăng?” (Luca 4.22).
Với sự nhận biết không một vị tiên tri nào được trọng đãi bởi chính quê hương mình, Chúa Jêsus chẳng thèm quan tâm đến lời khen ngợi của dân chúng, và báo cho họ biết thêm về chức vụ Mêsi của Ngài, là chức vụ bao gồm cả sự cứu rỗi cho dân Ngoại. Ngay lúc nầy lời khen ngợi của dân chúng liền đổi thành giận dữ ngay. Chúa Jêsus đã bị lấn ra khỏi nhà hội – họ chẳng còn thích thú gì nữa nơi sự dạy dỗ của Ngài – và dân chúng sắp sửa muốn xô Ngài xuống từ vách núi, điều nầy sẽ giết chết Ngài (hoặc một sự giải cứu được làm ra qua một đội thiên sứ – Hãy nhớ lại sự cám dỗ của Satan đang sử dụng Thi thiên 91). Chúa Jêsus đã đi xuyên qua đám đông đang tỏ vẻ thù nghịch, y hệt như Môise và dân Ysơraên đã đi bộ xuyên qua Biển Đỏ vậy. Chính dân sự của Ngài đã chối bỏ Ngài. Ngài, giống như các vị tiên tri khác trong Ysơraên, không phải là người hùng, vì sứ điệp và chức vụ của Ngài không phù hợp với lòng mong muốn và trông đợi của người ta.
Chức vụ của Chúa Jêsus tại Cabênaum (4.31-43)
Rời khỏi Naxarét, Chúa Jêsus đến tại thành Cabênaum. Cabênaum là một thành phố nhỏ, nằm trên bờ biển phía tây biển Galilê, cách thành Naxarét khoảng 25 dặm. Chúa Jêsus đã tới đây sau khi nghe tin Giăng Báptít bị bắt giam (Mathiơ 4.12-13). Thành nầy cũng được biết là quê hương của Chúa Jêsus (Mác 2.1; Ma 9.1). Đây là nơi Simôn và Anhrê, Giacơ và Giăng đã sinh sống (Mác 1.21, 29).
Chúa Jêsus tại nhà hội vào ngày Sabát (1-37)
Các câu 31 và 32 bắt đầu với phần tóm tắt chức vụ rao giảng của Chúa Jêsus tại nhà hội vào những ngày Sabát. Sự giảng dạy của Ngài đã kết quả trong sự kinh ngạc nơi phần của khán thính giả, không giống như phần đáp ứng lúc ban đầu của người dân thành Naxarét. Luca tóm tắt lý do khán thính giả phải kinh ngạc bằng mấy dòng chữ nầy:
“Mọi người đều cảm động về sự dạy dỗ của Ngài; vì Ngài dùng quyền phép mà phán” (Luca 4.32).
Đây là một câu tương tự với câu nói được thấy trong tin lành Mathiơ, ngay lập tức sau khi Chúa Jêsus thốt ra: “Bài Giảng Trên Núi”:
“Vả, khi Đức Chúa Jêsus vừa phán những lời ấy xong, đoàn dân lấy đạo Ngài làm lạ; vì Ngài dạy như là có quyền, chớ không giống các thầy thông giáo” (Mathiơ 7.28-29).
Điều chi phân biệt sự giảng dạy của Chúa chúng ta với sự giảng dạy của các thầy thông giáo và người dòng Pharisi, và điều chi khiến cho sự giảng dạy của Ngài có uy quyền, mà sự giảng dạy của họ thì không có chứ? Các sách tin lành không thực sự nói cho chúng ta biết điều chi có trong sự giảng dạy của Chúa Jêsus khiến cho sự giảng dạy ấy phải khác biệt, siêu việt hơn so với sự giảng dạy của nhiều người khác. Phương pháp phát biểu của Chúa Jêsus dường như chẳng có gì khác với những người đồng thời với Ngài. Chúa Jêsus đã ngồi khi giảng dạy, giống như họ vậy thôi. Cái khác biệt dường như không phải là vấn đề của kiểu cách, mà nội dung thì khác rất nhiều. Theo ý kiến của tôi đã có ít nhất hai việc phân biệt sự dạy của Chúa Jêsus so với sự dạy của nhiều người khác trong thời của Ngài.
Thứ nhất, tôi tin rằng sự dạy của Chúa Jêsus rất đơn sơ và thẳng thừng, trong khi sự dạy của các thầy thông giáo và người dòng Pharisi thì quá kinh điển, giáo điều, và mù mờ. Quý vị có bao giờ nghe một học giả giảng dạy bằng những thuật ngữ giáo điều đến nỗi quý vị chẳng nắm được những điều ông ta muốn nói không? Quý vị có cảm giác người nầy biết quá nhiều, hơn hẳn quý vị, nhưng quý vị chẳng có một ý niệm gì về những gì ông ta đã phát biểu. Sự mù mờ thường chuyển thành chiều sâu. Khi Chúa Jêsus giảng dạy, Ngài đã phán rất đơn sơ, sử dụng truyện tích, thí dụ, và những minh hoạ theo đời nầy. Người ta nghe Ngài phán, họ biết rõ mọi điều mà Ngài đã nói ra, và nắm bắt được đây là điều mà Kinh Thánh đã dạy trong chỗ thứ nhất. Chúa Jêsus, là Vị Giáo Sư Bậc Thầy đã làm cho phân đoạn Kinh Thánh ra sáng sủa và rất đơn sơ.
Thứ hai, Chúa Jêsus đã giảng dạy giống như Ngài là tác giả của Kinh Thánh, trong khi các thầy thông giáo và người dòng Pharisi giảng dạy giống như hạng sinh viên, mà cũng chưa phải là hạng sinh viên giỏi nữa! Cái khác biệt giữa sự giảng dạy của Chúa Jêsus và những người khác giống như nghe một tác giả đang mô tả về quyển sách của mình và nghe người khác nói tới cùng quyển sách đó. Chúa Jêsus giảng dạy Kinh Thánh giống như Đức Chúa Trời, từ quan điểm nhận định của Đức Chúa Trời. Các thầy thông giáo và người dòng Pharisi đã giảng dạy giống như hạng người bình thường, với những định kiến và thành kiến của họ làm cho phân đoạn Kinh Thánh phải bị mù mờ. Thực vậy, vấn đề còn tồi tệ thêm, vì người ta biết rõ các thầy thông giáo và người dòng Pharisi đã rút tỉa sự hiểu biết của họ và sử dụng tư liệu của các rabi, chớ không rút tỉa sự hiểu biết của họ từ Kinh Thánh. Morris cho chúng ta biết như sau:
Tính sáng tạo không được đánh giá cao giữa vòng các rabi và họ đã làm cho người ta tin bằng cách thuật lại lời nói của vị tiền nhiệm nổi tiếng. Thí dụ, Rabi Eliezer đã phát biểu với lòng sùng bái: “Trong đời tôi, tôi chẳng bao giờ nói ra điều gì mà tôi chưa nghe được từ các ông thầy của tôi”. Chúa Jêsus không làm theo điều đó và Ngài đã phán dạy với uy quyền đã gây ấn tượng trên con người.
Sự sa bại của ma quỷ (33-37)
Từ một câu nói chung chung về quyền phép, Luca bước qua sự kiện đặc biệt phác hoạ ra mục đích của ông. Vào một ngày Sabát đặc biệt kia, trong khi Chúa Jêsus đang rao giảng thì Ngài bị ngắt ngang bởi tiếng thét của một người bị tà ma ám. Tôi có thể hình dung mình đang nom thấy người kia đang nhảy về phía tôi khi tiếng thét cất lên. Sự độc ác của Satan và tà ma trên con người nầy, đã bị ma quỷ cai quản, là rất khủng khiếp. Giọng nói của ông ta có thể làm cho quý vị rùng mình, nổi da gà ngay. Chúa Jêsus sẽ làm gì bây giờ? Không nghi ngờ chi nữa, ma quỷ tưởng rằng Ngài sẽ chao đảo và rối loạn. Ngài cứ hiên ngang trước sự việc. Tuy nhiên, theo câu chuyện của Luca, sự việc chỉ đóng vai trò bày tỏ ra quyền phép trong lời nói của Chúa chúng ta và tiếng tăm Ngài đồn đãi khắp vùng đó mà thôi. Chúng ta hãy quan sát sự việc nầy bày tỏ ra điều gì về con người, tà ma, dân chúng và Chúa chúng ta. Hãy nhớ rằng đây là trường hợp đầu tiên về tà ma ám trong tin lành của Luca. Đó cũng là tường trình đầu tiên về phép lạ đã được làm ra trong ngày Sabát, mà chẳng có một sự phản kháng nào – chắc chắn mọi người đều vui thích khi thấy một người bị tà ma ám được chữa lành, đặc biệt là những kẻ đứng gần người đó.
Tại Naxarét, Chúa Jêsus đã bị đẩy ra khỏi nhà hội. Còn bây giờ, tại thành Cabênaum, người bị tà ma ám đã bước vào trong nhà hội, và tà ma bị trục xuất ra khỏi con người. Người nầy hoàn toàn bị tà ma khống chế. Tà ma đã khống chế hoàn toàn con người nầy đến nỗi giọng nói là giọng nói của ma quỷ, phần tâm linh cũng một thể ấy. Con người nầy đã sống trong cảnh tăm tối hoàn toàn. Sử dụng cách nói đương thời, tà ma chỉ muốn có thân thể của người nầy, và hắn đã ám vào đó.
Ma quỷ đã khống chế, và từ những lời nói và hành động đánh dấu người bị tà ma ám, chúng ta đọc biết được nhiều về ma quỷ. Tà ma vốn ô uế, ngược lại với Chúa, là Đấng mà ma quỷ đã công nhận “Đấng Thánh của Đức Chúa Trời” (4.34). Tà ma hay lớn tiếng và chỉ muốn tàn phá. Hắn kêu la với giọng lớn tiếng (4.33). Mục tiêu của hắn dường như là làm đứt đoạn và phá vỡ sự giảng dạy của Chúa Jêsus. Tà ma, theo ý kiến của tôi, không những có vẻ thù nghịch và giận dữ, mà nó còn gây rắc rối nữa. Tà ma là thứ giống như dã thú đã bị dồn vào đường cùng. Thắc mắc của hắn: “Ngài đến để diệt chúng tôi sao?” (4.34), cũng giống như câu nói: “Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi”. Điều nầy dấy lên thắc mắc, mà ma quỷ đã phát biểu thành lời: “Hỡi Jêsus Naxarét! Chúng tôi với Ngài có sự gì chăng?” (4.34).
Satan đã được truyền cho biết ngay từ Ađam và Êva sa ngã (trong đó Satan được dùng làm phương tiện) rằng dầu hắn sẽ bị chà nát bởi gót chân của dòng dõi người nữ (Sáng thế ký 3.15). Nói cách khác, hắn vốn biết rõ, khi Đấng Mêsi đến, đấy là điểm báo hiệu sự huỷ diệt, sự cuối cùng của hắn. Đấy là lý do tại sao tà ma đã mau chóng dấy lên thắc mắc Chúa Jêsus sẽ làm gì ở đấy, trong nhà hội. Há có phải Ngài đã đến để huỷ diệt Satan không? Mục đích sự giảng dạy của Chúa Jêsus trong nhà hội là gì? Điều chi sẽ diễn ra? Satan không thể nắm hết được chương trình chủ yếu của Chúa chúng ta. Không nhận rõ được Chúa Jêsus sẽ “chà nát đầu hắn” bằng phương tiện chết thay trên thập tự giá, Satan sẽ không lường được điều gì sẽ diễn ra. Ma quỷ đang muốn biết điều gì sẽ diễn ra.
Chúa Jêsus không muốn có một sự đối đáp với tà ma nầy. Ngài không để cho ma quỷ có một vị trí xứng đáng bằng cách cung ứng cho nó một cơ hội để bày tỏ ra bản chất hiểm ác của nó. Vì thế, Chúa Jêsus đã quở nặng tà ma rồi truyền cho nó phải câm lặng đi và ra khỏi người nầy. Tà ma liền vâng theo, nhưng chỉ sau một hành động loạn nghịch sau cùng. Hắn bèn vật ngã người xuống đất theo một tư thế bạo lực, nó làm vậy với ý đồ làm cho người nầy bị thương nặng nề. Luca, vị y sĩ, nói cho chúng ta biết quyền phép của Chúa chúng ta còn cao cả hơn bằng cách chỉ ra rằng người kia không sao hết qua lần ngã sau cùng nầy. Jêsus là Chúa!
Chúng ta có thể thấy rõ người nầy hoàn toàn bị tà linh ô uế khống chế, cai quản và điều khiển. Chúng ta có thể thấy rõ ma quỷ đang tìm cách chống lại các mục đích của Đấng Mêsi, loạn nghịch cho tới cùng. Chúng ta cũng có thể nhìn thấy Chúa chúng ta đang cầm quyền tể trị hoàn toàn. Trong khi các loại phù phép, với nhiều công thức đang mô tả những quá trình ám nhập lâu dài. Chúa Jêsus đã đuổi tà ma ra với chỉ một câu thật ngắn gọn. Tà ma liền vâng theo, và chẳng làm hại chi đến người kia hết. Đúng là Cứu Chúa!
Tình tiết câu chuyện có một cái chạm rất quan trọng trên những người có mặt chứng kiến ở đó. Tôi nghĩ rằng toàn bộ sự việc chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian rất ngắn, nhưng sự ngắn ngủi ấy rất quan trọng. Tà ma đã vâng theo lời phán của Chúa Jêsus. Lời phán của Chúa Jêsus vốn có quyền và phép rất lớn. Nếu sự dạy của Chúa Jêsus có quyền phép, cũng một thể ấy Lời phán dạy của Ngài cho đội quân của Satan.
“Mọi người đều sững sờ, nói cùng nhau rằng: Ay là đạo gì đó? Người lấy phép và quyền đuổi tà ma, và chúng nó liền ra!” (Luca 4.36).
Lời phán của Chúa Jêsus là lời quyền phép dù là đang dạy dỗ hay đang truyền lệnh cho tà ma phải câm lặng rồi lìa khỏi người bị ám. Quyền phép của Chúa chúng ta đã được thấy rõ bởi uy quyền của Lời Ngài. Khi Chúa Jêsus phán, ma quỷ phải vâng lời, và tuân theo.
Là kết quả của sự việc nầy trong nhà hội, tiếng tăm của Chúa Jêsus đồn đi khắp mọi nơi. Nhiều báo cáo của trường hợp đuổi quỷ nầy và nhiều người khác đã đưa Chúa Jêsus đến các vùng đất khác trong xứ. Họ cũng đưa nhiều người đến với Ngài để được chữa lành, là trường hợp được mô tả trong chương kế tiếp.
Sự chữa lành cho bà gia Phierơ và nhiều người khác (4.38-41)
Chúa Jêsus rời khỏi nhà hội, đi tới nhà của Phierơ (hay dường như vậy), nơi ấy bà gia của ông đang chịu đựng một cơn sốt cao. Vì ích cho bà, “người ta” (dường như bao gồm cả Phierơ và các thành viên khác trong gia đình) đã nài xin Chúa Jêsus chữa lành cho bà. Trong khi những câu chuyện khác (Mathiơ 8.14-15; Mác 1.29-31) tập trung vào “cái chạm” hay “cái nắm tay” theo phần xác của người đờn bà nầy, Luca đang chú trọng vào từ ngữ quở trách đã được truyền ra cho cơn sốt. Một lần nữa, chính lời của Chúa là lời rất có quyền lực. Không những cơn sốt cao nầy lập tức ra khỏi người đờn bà, mà các hậu quả còn dư lại của cơn sốt đều được chữa khỏi. Giống như những lượn sóng của biển phải cần có thời gian để bình lặng lại sau khi gió ngưng thổi, cũng vậy, nét mệt mỏi kết quả từ cơn sốt của người đờn bà nầy phải cần có thời gian để chế ngự. Tuy nhiên sự chữa lành của bà là điều đã xảy ra ngay lập tức và trọn vẹn. Cho nên, ngay tức thì bà đã chờ dậy và khởi sự hầu việc Chúa.
Hôm ấy vẫn là ngày Sabát, và đây không phải là một sinh hoạt bình thường. Khi xế chiều rồi, ngày Sabát kết thúc, tức thì có nhiều người được đưa tới trước ngôi nhà nầy, với hy vọng được chữa lành. Đây không phải là những người mắc các chứng bệnh thông thường đâu, mà là những người mắc các chứng nan y khác nhau, là hạng người được đem tới bởi nhiều người khác. Dân chúng không thể làm việc bằng cách đưa người bệnh đến cùng Chúa Jêsus, họ phải đợi cho đến hết ngày Sabát. Lúc mặt trời lặn rồi, dân chúng đến ngày càng đông hơn. Từng loại bệnh tật đã được chữa lành, ngay lập tức và trọn vẹn. Tà ma, cũng bị trục xuất ra, giống như loại phù phép mà Luca đã ghi lại trong nhà hội lúc ban sáng ngày đó. Ở đây, tà ma cũng xác định Chúa Jêsus là “Con Đức Chúa Trời”, nhưng bị quở trách, buộc phải câm nín, và chúng được truyền cho phải ra khỏi đó (Luca 4.41). Chúa Jêsus không muốn hay không cho phép lời khen tặng của loại kẻ thù bất khiết nầy.
Những ưu tiên một trong chức vụ của Chúa Jêsus (4.42-44)
Dường như Chúa Jêsus đã thực hiện nhiều sự chữa lành suốt cả đêm. Dân chúng bắt đầu đến lúc mặt trời lặn, và Chúa Jêsus lúc bấy giờ được ghi lại: “ra đi đến nơi vắng vẻ” khi vừa rạng ngày. Vậy, vào sáng sớm hôm sau, khi Ngài đã chữa lành hết thảy những người có mặt, Chúa Jêsus đã đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Luca đặc biệt không nhắc tới sự cầu nguyện ở đây, nhưng Mác đã có nói tới (Mác 1.35). Sau đó, trong chương 5, Luca mô tả đời sống cầu nguyện của Chúa chúng ta:
“Song Ngài lánh đi nơi đồng vắng mà cầu nguyện” (Luca 5.16).
Sự cầu nguyện nầy không quá lâu sau khi dân chúng tìm gặp Chúa. Khi họ nhận ra Ngài đã lìa khỏi họ, họ không giống như dân chúng thành Naxarét đã tìm cách giữ Ngài lại giữa vòng họ. Tôi nghĩ, mọi lý do rất rõ ràng và không phải hết thảy các lý do đều được khen ngợi cả đâu. Có ai lại mong muốn một thầy chữa lành và một thầy giáo như thế bỏ đi bao giờ?
Chúa Jêsus đã đáp ứng lại sự họ yêu cầu Ngài phải ở lại bằng cách nhắc tới sự kêu gọi của Ngài, về những điều ưu tiên một của Ngài.
“Nhưng Ngài phán cùng họ rằng: Ta cũng phải rao Tin Lành của nước Đức Chúa Trời nơi các thành khác; vì cốt tại việc đó mà ta được sai đến” (Luca 4.43).
Chúa Jêsus vốn biết rõ Ngài được kêu gọi phải làm gì. Đúng như lời tiên tri của Êsai, mà Chúa chúng ta đã đọc trong nhà hội ở thành Naxarét, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lời công bố, cũng vậy, Chúa Jêsus nhấn mạnh ưu tiên một cho lời công bố tin lành về nước Trời trong việc thực thi các phép lạ chữa lành. Cũng có một sự uỷ thác về mặt truyền giáo ở đây nữa. Không những Chúa Jêsus xem việc giảng đạo chiếm ưu tiên một trong việc thực thi phép lạ, Ngài cũng xem việc Ngài phải rao giảng khắp cả xứ Ysơraên là cần thiết, chớ không phải chỉ có một vài địa điểm. Vì thế câu cuối cùng (4.44) cho chúng ta biết Chúa Jêsus luôn giảng đạo trong xứ Giuđê, chớ không phải chỉ trong xứ Galilê.
Phần kết luận
Phân đoạn Kinh Thánh của chúng ta chứa một số bài học rất quan trọng. Chúng ta hãy xét qua một vài bài học ấy. Thứ nhất, phân đoạn Kinh Thánh cung ứng cho chúng ta nhiều sự hiểu biết về lãnh vực của ma quỷ. Người bị tà ma ám bị ma quỷ khống chế đến nỗi ông ta hoàn toàn mất hết nhân cách. Satan hiến cho con người quyền tự do, song hắn lại đưa cho vòng nô lệ, tù tội. Thậm chí chúng ta không biết được danh tánh của người bị tà ma ám nầy. Thật là một hình ảnh đáng thương chỉ ra một người bị tà linh của Satan ám ảnh. Ngược lại với Cơ đốc nhân là người đầy dẫy với Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Người ấy được tự do ở ngoài quyền quản trị của tội lỗi và sự chết, tự do luyện tập mọi talâng và khả năng Đức Chúa Trời ban cho, để trở thành loại người đặc biệt mà Đức Chúa Trời muốn họ phải trở thành, để chu toàn vai trò đặc biệt của họ trong Hội thánh và trong thế gian. Người bị quỷ ám là một thân thể bị ám ảnh, một cái miệng mà Satan có thể dùng mà nói. Chỉ trong Đấng Christ, con người mới được tự do. Chỉ đầy dẫy bởi Thánh Linh Ngài, chúng ta mới có thể kinh nghiệm được sự tự do và nhân cách.
Khi tôi xem xét các thứ phù phép của ma quỷ trong phân đoạn Kinh Thánh này rồi so sánh chúng với những thứ khác đã được mô tả trong Tân ước, tôi đi đến kết luận rằng Chúa Jêsus không hề chẩn đoán một trường hợp bị quỷ ám nào, trước sự ngạc nhiên của hàng thính giả. Nghĩa là, mỗi lần Chúa Jêsus xử lý với người bị quỷ ám thì dân chúng biết ngay nan đề là bị quỷ ám. Tân ước không hề có mô tả nào khi người ta được đưa tới Chúa Jêsus và Ngài chẩn đoán nan đề là quỷ ám, trước sự ngạc nhiên của họ. Quỷ ám là rất rõ ràng đối với mọi người. Tôi nói như vậy là vì ngày hôm nay có nhiều người đang công nhận ma quỷ với bệnh tật, ốm đau, và thói xấu, trong những điều đó chúng không nhận lãnh sự công nhận. Rượu chè, thuốc lá, lạm dụng trẻ em, và vô số những triệu chứng khác hiện đang bị coi là hậu quả của việc bị quỷ ám. Tôi chưa hề nhìn thấy điều nầy trong Tân ước. Khi con người bị quỷ ám, mọi người đều nhận biết sự ấy. Nó có thể đòi hỏi quyền phép vô đối của Đức Chúa Trời để trục xuất tà linh đang ám ảnh người, nhưng không cần có sự thông sáng thiêng liêng để công nhận người bị quỷ ám đã bị ám bởi một con quỷ. Chúng ta đừng để cho ma quỷ thêm phần xứng đáng mà chúng đáng được. Chúng ta đừng tìm cách nhìn thấy chúng ở chỗ mà chúng không có mặt ở đó. Và chúng ta đừng lắp đặt lầm lỗi và sự yếu đuối của chúng ta trên chúng.
Phân đoạn Kinh Thánh cũng cung ứng cho chúng ta sự sáng suốt thấy được những điều ưu tiên mà Chúa chúng ta đang lo liệu. Nói ngắn gọn, những điều ưu tiên một của Ngài là cầu nguyện và rao giảng Ngôi Lời. Phép lạ đã đóng vai nhỏ trong chức vụ của Ngài, nhưng cầu nguyện và giảng đạo là ưu tiên một của Ngài. Cho nên, Ngài biết rõ Ngài phải rời khỏi Cabênaum và giảng đạo khắp chốn, mặc dù dân chúng nài xin ở lại. Cầu nguyện và giảng đạo cũng là ưu tiên một của hàng sứ đồ (đối chiếu Công vụ các sứ đồ 6.1-7).
Sau cùng, phân đoạn Kinh Thánh nầy chỉ ra một thực tế rất đáng buồn – ấy là sự chai cứng trong tấm lòng của con người. Theo một ý nghĩa dân chúng thành Cabênaum dường như đứng vững và có trách nhiệm hơn người thành Naxarét. Người thành Naxarét đã đẩy Chúa Jêsus ra khỏi nhà hội của họ, và sẽ giết Ngài nếu họ có thể. Dân chúng thành Cabênaum đã nài xin Chúa Jêsus đừng ra khỏi sự hiện diện của họ. Há người thành Cabênaum chẳng tốt hơn người thành Naxarét hay sao? Không thực như thế đâu.
Hai nhóm nầy đã bổ sung cho nhau, tôi nghĩ nhóm nầy đã hành động đúng như nhóm kia, trong cùng một hoàn cảnh. Cả người Naxarét và người Cabênaum ban đầu đã đáp ứng theo sự dạy của Chúa Jêsus bằng nỗi lo sợ và kinh ngạc. Cả hai đều thúc giục Ngài hãy ở lại giữa vòng họ, trừ phi Chúa Jêsus bày tỏ ra một vài thực tế không hay trong chức vụ Mêsi của Ngài cho người đồng hương của Ngài – nghĩa là sự chai cứng của tấm lòng người Do thái và ơn phước đã dự định cho dân Ngoại qua sự vô tín của Ngài Do thái. Những biến cố đã xảy ra tại thành Cabênaum đã diễn ra tại thành Naxarét (hoàn toàn đúng theo những gì người thành Naxarét trông đợi, Luca 4.23), dân chúng đã yêu mến Chúa Jêsus và nài xin Ngài hãy ở lại. Những biến cố đã xảy ra tại thành Naxarét đã diễn ra tại thành Cabênaum, tôi tin rằng người thành Cabênaum sẽ quăng Chúa Jêsus ra khỏi nhà hội và tìm cách giết Ngài, đúng như người thành Giêrusalem muốn làm về sau vậy. Việc duy nhất khác biệt ở Naxarét đối với thành Cabênaum là những gì Chúa Jêsus đã làm và đã phán. Dân chúng thì giống nhau thôi.
Có một việc mà ma quỷ, người thành Naxarét, và người thành Cabênaum hết thảy đều dự phần vào: kinh ngạc, tò mò, ngạc nhiên, và vô tín. Để chúng ta không nhảy dựng lên với tư tưởng của hạng người vô tín thành Cabênaum, hãy để tôi nhắc cho quý vị nhớ những lời nói nầy của Chúa chúng ta về thành Cabênaum:
“Vì dân các thành mà Đức Chúa Jêsus đã làm rất nhiều phép lạ rồi, không ăn năn, nên Ngài quở trách rằng: Khốn nạn cho mầy, thành Cô-ra-xin! Khốn nạn cho mầy thành Bết-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa bay, đem làm trong thành Ty-rơ và Si-đôn, thì hai thành đó thật đã mặc áo gai, đội tro, ăn năn từ lâu rồi. Vậy nên ta bảo bay, đến ngày phán xét, thành Ty-rơ và thành Si-đôn sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn bay. Còn mầy, Ca-bê-na-um là thành đã được cao tới trời, sẽ hạ xuống tới âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm giữa mầy, đem làm trong thành Sô-đôm, thì thành ấy còn lại đến ngày nay. Vậy nên ta rao bảo rằng, đến ngày phán xét, xứ Sô-đôm sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn mầy” (Mathiơ 11.20-24).
Sứ điệp mà cả Giăng Báptít và Chúa Jêsus công bố là đây: “Hãy ăn năn, vì Nước thiên đàng đã đến gần”. Sứ điệp và phép lạ của Chúa Jêsus đều xưng nhận Ngài là Đấng Mêsi. Tuy nhiên, dù lúc ban đầu dân chúng đã đáp ứng với sự lạ lùng và ngợi khen, song họ chẳng ăn năn. Và Chúa Jêsus đã từ chối chu tất mọi sự trông đợi về Đấng Mêsi, họ đã chối bỏ Ngài và tìm cách kết án tử Ngài. Con số lớn lao nhiều phép lạ mà Chúa Jêsus đã làm ra, nhiều bằng chứng hơn về chức vụ Mêsi của Ngài, và thêm nhiều người chịu trách nhiệm về việc chối bỏ Ngài. Chúa Jêsus đã được lòng người bất cứ lúc nào Ngài sử dụng quyền phép để nâng cao và làm cho phong phú nhiều đời sống của dân chúng và cất đi nổi đau khổ của họ. Chúa Jêsus không được lòng dân bất cứ lúc nào các mục đích lớn lao hơn của Đức Chúa Trời dành cho đời sống Ngài được vén lên.
Dân chúng thành Cabênaum thực sự chẳng có gì tốt hơn người thành Naxarét. Cả hai đều muốn một Đấng Mêsi chuyên làm phép lạ, Ngài sẽ làm theo mệnh lệnh của họ. Họ chẳng ý thức gì về tội lỗi và nhu cần phải ăn năn của họ. Cũng một thể ấy hôm nay. Có nhiều người trong các Hội thánh ngày nay, họ tin Chúa Jêsus là Con Đức Chúa Trời, ấy thế mà họ chẳng đầu phục Ngài. Có nhiều người trong các Hội thánh ngày nay, họ tin Chúa Jêsus là nhân vật chuyên làm phép lạ hoặc là một giáo sư vĩ đại, nhưng không phải là Chúa và Cứu Chúa của họ. Hạng người thể ấy chẳng tốt lành gì hơn những kẻ ngay lập tức và công khai chối bỏ Chúa Jêsus vì Ngài là ai. Thực vậy, sự phán xét những người nhận biết còn lớn lao hơn, vì cấp độ trách nhiệm của họ lớn lao hơn. Đối với những ai được ban cho nhiều, họ sẽ bị đòi lại nhiều hơn. Đấy là lý do tại sao Chúa Jêsus cho Côraxin, Bếtsaiđa, và Cabênaum đáng khiển trách hơn Tyrơ, Siđôn hay Sôđôm. Sự hiểu biết đem lại trách nhiệm. Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Mêsi của Đức Chúa Trời, và đáp ứng của chúng ta đối với Ngài là phải ăn năn và tin cậy. Điều chúng ta cần còn nhiều hơn cả sự chữa lành về phần xác thể và các phép lạ chính là sự tha thứ tội lỗi của chúng ta. Đây là phần việc chính yếu mà Chúa chúng ta đã đến với đất, và chính là đặc ân Đức Chúa Trời ban cho loài người, là điều chúng ta cần phải nhận lãnh. Nhận lãnh các sự ban cho của Đức Chúa Trời, và từ chối ơn cứu rỗi của Ngài, là sự xúc phạm đáng nguyền rủa. Chúng ta đừng sống giống như người thành Naxarét, người thành Cabênaum, hay người bị quỷ ám. Chúng ta hãy ăn năn và tin cậy Chúa Jêsus làm Cứu Chúa của chúng ta.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét