Thứ Ba, 25 tháng 5, 2010

Luca 16.14-31: "NGƯỜI GIÀU VÀ LAXARƠ"



Phần giới thiệu
Xuất xứ
Cấu trúc của phân đoạn Kinh Thánh
Sự chế giễu của người Pharisi (16.14)
Sự xét đoán và tiêu chuẩn sai lầm (16.15)
Hạng người tuân giữ Luật pháp là hạng người làm đồi bại Luật pháp (16.16-18)
Người giàu và Laxarơ (16.19-31)
Người giàu và Laxarơ khi còn sống (các câu 19-21)
Người giàu và Laxarơ trong cõi đời đời (các câu 22-23)
Những điều cầu xin của người giàu (các câu 24-31).
Phần kết luận
Bài 52:

NGƯỜI GIÀU VÀ LAXARƠ

(Luca 16.14-31)
“Người Pha-ri-si là kẻ ham tiền tài, nghe mọi điều đó, bèn chê cười Ngài. Ngài phán cùng họ rằng: Các ngươi làm bộ công bình qua mặt người ta, song Đức Chúa Trời biết lòng các ngươi; Vì sự người ta tôn trọng là sự gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời. Luật pháp và các lời tiên tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, tin lành của nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó. Trời đất qua đi còn dễ hơn một nét chữ trong luật pháp phải bỏ đi. Ai bỏ vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm, ai cưới đàn bà bị chồng để, thì cũng phạm tội tà dâm. Có một người giàu mặt áo tía và áo bằng vải gai mịn, hằng ngày ăn ở rất là sung sướng. Lại có một người nghèo, tên là La-xa-rơ, nằm ngoài cửa người giàu đó, mình đầy những ghẻ. Người ước ao được ăn những đồ ở trên bàn người giàu rớt xuống; cũng có chó đến liếm ghẻ người. Vả, người nghèo chết, thiên sứ đem để vào lòng Áp-ra-ham; người giàu cũng chết, người ta đem chôn. Người giàu ở nơi Âm-phủ đang bị đau đớn, ngước mắt lên, xa thấy Áp-ra-ham, và La-xa-rơ trong lòng người; bèn kêu lên rằng: Hỡi Áp-ra-ham tổ tôi, xin thương lấy tôi, sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước đặng làm cho mát lưỡi tôi; vì tôi bị khổ trong lửa nầy quá dổi. Nhưng Áp-ra-ham trả lời rằng: Con ơi, hãy nhớ lại lúc ngươi còn sống đã được hưởng những sự lành của mình rồi, còn La-xa-rơ phải những sự dữ; bây giờ, nó ở đây được yên ủi, còn người phải bị khổ hình. Vả lại, có một vực sâu ở giữa chúng ta với ngươi, đến nỗi ai muốn từ đây qua đó không được, người giàu nói rằng: tổ tôi ơi! vậy thì xin sai La-xa-rơ đến nhà cha tôi, vì tôi có năm anh em, đặng người làm chứng cho họ về những đều nầy, kẻo họ cũng xuống nơi đau đớn nầy chăng. Áp-ra-ham trả lời rằng: Chúng đã có Môi-se và các đấng tiên tri; chúng nó phải nghe lời các đấng ấy! Người giàu nói rằng: Thưa Áp-ra-ham tổ tôi, không phải vậy đâu; nhưng nếu có kẻ chết sống lại đến cùng họ, thì họ sẽ ăn năn. Song Áp-ra-ham rằng: Nếu không nghe Môi-se và các đấng tiên tri, thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy”.
PHẦN GIỚI THIỆU
Cách đây khá lâu, tôi có đưa ra từ toà giảng một câu nói khi tôi hướng dẫn hai đám tang hơn là một đám cưới. Lý do rất đơn giản. Ở đám cưới, ai nấy đều đang vui sướng. Đây là cơ hội để vui vẻ. Hai người, yêu nhau, đang kết hiệp với nhau. Đây là một thời gian mà họ đã chờ đợi lâu dài. Mọi người đều cảm thấy phấn khởi và chia sẻ mọi thứ trong niềm vui. Nói thẳng ra, trong tâm trạng đó người ta có thể nói ra bất cứ điều chi và mọi người sẽ thấy hưng phấn. Tôi có thể nghe ai đó nói: “Giảng hay quá” lúc cuối buổi lễ, thậm chí có người làm thơ đọc lên nữa.
Ở đám tang thì không phải như vậy. Người ta chẳng có ai vui sướng đâu. Có người thân nào mà họ yêu thương đã bị sự chết vồ lấy, không còn thấy lại hoặc nghe họ nói nữa trong cuộc sống nầy. Không những ở đó là nỗi đau mất mát người thân, mà còn là sự nhắc nhớ đáng sợ rằng chúng ta, cũng phải chết nữa. Những gì một người nói ra trong một dịp như thế là quan trọng lắm. Đây là lý do cho thấy tin lành không được rao giảng là một điều rất tồi tệ, vì ngoài những tin tức tốt lành nói đến Chúa Giêxu đã chịu chết và đã sống lại thì chẳng có một hy vọng gì hết, vì nhờ đó chúng ta mới được tha tội và sống đời đời trong mối thông công với Đức Chúa Trời.
Có một bà cũng đứng tuổi và con dâu của bà ta cũng có mặt trong cơ hội đặc biệt nầy, khi tôi giảng trong các đám tang. Tôi biết rõ là tôi chưa hề gặp thiếu phụ nầy. Tuy nhiên, trong ngày đó bà ta quay sang con dâu mình rồi nói: “Khi mẹ chết, mẹ muốn con mời ông ấy đến giảng cho tang lễ của mẹ”. Nhiều năm về sau, bà ta qua đời, và tôi có nhận điện thoại gọi đến từ người con dâu. Cô ta nói cho tôi biết cô và mẹ chồng mình đều là dân Gypsies (ở Ấn độ). Cô ta nói về cái chết mẹ mình, và về lời yêu cầu của bà nhiều năm trước để tôi phát ra một sứ điệp cho tang lễ. Tôi vui sướng nhận lời. Tôi đã phát ra một sứ điệp cho tang lễ từ phân đoạn Kinh thánh trong Luca chương 16. Theo tôi biết, đã có một hay hai Cơ đốc nhân. Đây là một đám tang buồn thảm lắm vì có ít người đến chia sẻ niềm hy vọng của tin lành mà người đờn bà nầy đã tìm được.
Đến cuối tang lễ, tôi bước ra phía sau toà giảng, hầu như ít có người biết đến chỗ nầy. Một thiếu nữ đến gặp tôi, là người mà tôi nghi đã được cứu. Cô ta nói với tôi đôi điều rất khích lệ. Lời bình của cô ta về sứ điệp như sau: “Những gì ông giảng chính là điều mà bà nội tôi đã tin theo”. Tôi tin đúng như vậy.
Khi tôi phát ra sứ điệp cho đám tang, tôi luôn luôn giảng với sự hiểu biết là tôi đang đại diện cho Đức Chúa Giêxu Christ, và với ý thức trách nhiệm để công bố tin lành, những tin tức tốt lành nói về sự tha thứ và sự cứu rỗi có trong Ngài, đấy là nền tảng duy nhất cho sự hy vọng nơi bề mặt sự chết. Thêm vào điều nầy, tôi cũng nhận ra rằng tôi đang giảng không những cho Đức Chúa Trời, mà còn cho những ai đã qua đời, cho dù người ấy không phải là Cơ đốc nhân. Tôi nói với lòng tin chắc rằng sứ điệp tôi đang giảng chính là sứ điệp mà người đờn bà đã quá cố kia mong muốn tôi công bố ra. Tôi giảng sứ điệp nầy, dựa theo thí dụ nói về người giàu và Laxarơ. Chúng ta sẽ nhìn thấy lý do tại sao phải như thế!
Câu chuyện nầy nói về người giàu và Laxarơ là rất quan trọng cho mỗi một người chúng ta. Trong những năm gần đây, có nhiều người đã qua đời và rồi đã tỉnh lại, họ nói lại những kinh nghiệm “ở đàng sau sự sống” của họ. Tôi không muốn nghi ngờ hay tranh cãi ở từng kinh nghiệm đó. Tuy nhiên, tôi muốn nói rằng không một kinh nghiệm nào trong số các kinh nghiệm nầy có sức cảm hứng, không thể sai lầm, và có quyền phép cho bằng câu chuyện nầy ở đây. Ngay cả sứ đồ Phao-lô đã kềm chế không mô tả những gì dường như là: “kinh nghiệm sống sau khi chết” của mình (đối chiếu II Côrinhtô 12.1-5). Câu chuyện nầy nói về người giàu và Laxarơ; tôi tin, là một thí dụ thôi, nhưng phần mô tả của nó về số phận của con người sau khi chết có cả sự thật và sự nhứt định. Chúng ta hãy lắng nghe mấy lời nầy cho thật cẩn thận. Nếu người giàu không có quyền cảnh báo cho anh em của ông ta, ông ta có thể cảnh cáo chúng ta, nếu chúng ta chịu lắng nghe.
XUẤT XỨ
Chúa Giêxu đang giảng đạo cho đoàn dân đông, giữa vòng họ là người Pharisi. Tất cả họ đều chẳng hài lòng với mọi điều mà họ đã thấy và nghe từ Chúa Giêxu. Họ đã lằm bằm chống lại Chúa Giêxu vì đã tiếp nhận hạng tội nhân và thậm chí còn ăn uống với họ nữa (Luca 15.2). Khi đáp ứng lại điều nầy, Chúa Giêxu đã nói ra ba thí dụ, tất cả đều xử lý với việc tìm gặp một thứ chi mất mát. Trong khi người Pharisi có thể hoà đồng với niềm vui của người vừa tìm gặp của cải vật chất (một con chiên lạc hay một đồng tiền bị mất), họ không thể vui mừng nơi sự trở về của một tội nhân biết ăn năn, cho dù thiên đàng có vui mừng đi nữa. Sở dĩ như vậy là vì họ thù ghét ân điển. Họ không tin họ đang cần ân điển, và họ không chấp nhận ân điển đang được tỏ ra cho bất kỳ ai khác, đặc biệt là kẻ không xứng đáng (luôn luôn là hạng người nhận lãnh ân điển). Nếu Chúa Giêxu không đồng bộ với người Pharisi, họ không đồng bộ với Đức Chúa Trời và với thiên đàng.
Trong chương 16, giọng lằm bằm của người Pharisi đổi chua cay — thành giễu cợt. Sự giễu cợt nầy là kết quả của một thí dụ khác, thí dụ nói về người quản gia bất trung. Tên quản gia nầy là quản gia bất trung. Hắn đã thâm lạm tài sản của chủ, nhưng khi hắn hay được rằng không bao lâu nữa hắn sẽ bị cho thôi việc, hắn bèn mánh mun, sử dụng tiền bạc của chủ để kết bạn, họ sẽ phục vụ hắn trong tương lai. Trong khi người chủ khen ngợi viên quản gia gian ác của mình vì tài mánh mun của ông ta, Chúa Giêxu đã không như vậy. Chúa Giêxu dạy rằng các môn đồ Ngài, giống như tên quản gia kia, nên kết nhiều bạn cho tương lai, song theo một phương thức hoàn toàn khác. Khẫu lệnh cho các môn đồ không phải là mánh mun mà là trung tín. Trong các câu 9-13, Chúa Giêxu đề ra các nguyên tắc sẽ cai quản phương thức mà các môn đồ sẽ được lượng xét trong đó và sự họ sử dụng của cải vật chất.
Tuy nhiên, cái điều khiến cho người Pharisi bắt giận dữ là một điều hoàn toàn khác. Chúa Giêxu đã xem con người gian ác nầy là kẻ bất trung, khi nói tới tiền bạc. Người Pharisi, là kẻ mà Luca đang nói tới ở đây là “hạng người ham mến tiền bạc” (câu 14), họ sống bất trung trong cách sử dụng tiền bạc của họ, trong một phương thức gian ác như vậy để biến viên quản gia bất trung ra giống như thánh đồ. Viên quản gia đã xé toạc người chủ giàu (mà gian ác) của mình ra. Người Pharisi đã “xé toạc” những bà cụ già, như Chúa Giêxu đã nói trong tin lành Mathiơ, họ đang cướp phá nhà cửa của hạng người goá bụa (Mathiơ 23.14). Chính những điều mà người Pharisi lấy làm tự hào, Chúa Giêxu đã xem là gian ác. Trong thí dụ của Ngài nói về viên quản gia bất trung, Chúa Giêxu đã kết kẻ lừa đảo là hạng người vô tín, đem họ ra đối chiếu với hạng thánh đồ. Giờ đây, người Pharisi, là những người vốn tự hào về tài khéo của họ trong việc kiếm tiền, đều là dại dột. Thực như thế đấy! Lằm bằm đổi thành giễu cợt.
CẤU TRÚC CỦA PHÂN ĐOẠN KINH THÁNH
Sự dạy của Chúa Giêxu trong các câu 14-18 nằm trong phần đáp ứng với sự giễu cợt của người Pharisi ham mến tiền bạc (câu 14). Trước tiên Ngài xử lý với vấn đề cơ bản (gốc rễ) bằng nguyên tắc (các câu 15-18). Kế đó Ngài đã minh họa vấn đề với thí dụ nói về người giàu và Laxarơ (các câu 19-31).
Sự thống nhất của cả chương rất rõ ràng trong nhiều cách thức. Mạch tư tưởng thấu suốt cả chương chính là tiền bạc. Tên quản gia bất trung đã sử dụng tiền bạc của chủ để mưu cầu lợi ích riêng, thay vì phục vụ chủ mình. Người giàu cũng sử dụng tiền bạc cho tư lợi của ông ta, bất chấp mọi nhu cần của Laxarơ, là người nằm ở cổng nhà ông ta. Cả hai thí dụ bắt đầu với cùng một cách nói: “Có một người giàu…” (các câu 1, 19). Các câu 14-18 giúp cho chúng ta hiểu tội ác của hai người giàu có nầy, đây là phần mô tả sự gian ác của người Pharisi, bằng cách tỏ ra nguồn gốc tội lỗi của họ.
SỰ CHẾ GIỄU CỦA NGƯỜI PHARISI (16.14)
“Người Pharisi là kẻ ham tiền tài, nghe mọi điều đó, bèn chê cười Ngài”.
Người Pharisi, dường như đã lằm bằm với nhau (đối chiếu 15.2). Tuy nhiên, vào lúc nầy dường như họ nói thẳng ra công khai luôn. Phản ứng của họ đi từ không hài lòng đến chỗ chia rẽ. Họ cứ chế nhạo, rồi trở thành những kẻ “chất vấn” Chúa Giêxu. Lời lẽ của Ngài về đề tài tiền bạc đã xác minh vấn đề rồi. Luca thuật cho độc giả của ông ở đây rằng người Pharisi vốn là kẻ “ham mến tiền bạc”, một từ ngữ được thấy chỉ ở nơi khác trong Tân ước là II Timôthê 3.2. Luca thuật lại sự kiện nầy vì nó giúp chúng ta hiểu rõ lý do tại sao người Pharisi lại đau đớn bởi sự dạy của Chúa Giêxu về tiền bạc như thế trong các thí dụ trước đây và sự giải thích thí dụ đó. Họ ham mến tiền bạc và họ đã lừa đảo bằng những cách thế mà họ thấy kiếm được, giữ được và sử dụng tiền bạc để lấy làm vui thích.
Nhưng, người Pharisi đã chế giễu cái gì mới được? Phân đoạn Kinh thánh không thuật lại chính xác cho chúng ta, và có lẽ chúng ta sẽ làm hết sức mình để tìm cho ra điều đó. Lời lẽ của Chúa đưa ra trong phần đáp ứng với sự chế giễu của họ, chúng ta có thể đoán ra được điều mà họ đang chế giễu. Họ đã xét đoán theo bề ngoài. Chúa Giêxu đáng nói về cách xử lý đối với tiền bạc, và cách sử dụng tiền bạc. Có thể họ đã trao đổi với nhau và với nhiều người khác: “Ai là bậc chuyên gia về tiền bạc chứ? Hắn nghĩ hắn là ai vậy? Hắn có bao nhiêu tiền vậy? Hắn sống nghèo khổ đến nỗi phải có mấy người đờn bà kia giùm giúp, để chu cấp cho mọi nhu cần của hắn!” Họ đã chế giễu sự dạy của Chúa Giêxu, căn cứ vào sự nghèo khổ của Ngài.
Nhưng quí vị thấy đấy, sự nghèo khổ của Chúa Giêxu chính là điều minh chứng Ngài đủ tư cách để dạy dỗ về tiền bạc. Chúa Giêxu không có tiền vì Ngài không cầm giữ tiền. Ngài chẳng có gì lợi lộc cả. Ngài không muốn làm giàu và sống xa hoa. Vì thế, Chúa Giêxu có thể nói như một người bất vụ lợi, thay vì là người luôn bị tiền bạc và các thứ vật chất làm cho lúc nào cũng phải bận tâm.
SỰ XÉT ĐOÁN VÀ TIÊU CHUẨN SAI LẦM (16.15)
Khi đáp ứng với những kẻ chế giễu nầy, Chúa Giêxu đã không bối rối, Ngài chỉ ra rằng người Pharisi rõ ràng là kẻ “ham mến tiền bạc”. Tôi tin lý do là Chúa Giêxu chú trọng vào cái gốc của vấn đề, chớ không phải chỉ ở các triệu chứng. Lòng ham mến tiền bạc là một nan đề nghiêm trọng, song nó không phải là gốc rễ của vấn đề. Trong câu 15 Chúa Giêxu đã chỉ ra cái gốc rễ đó — Người Pharisi đã tìm kiếm sự tán thưởng của hạng người sai lạc, trên nền tảng cũng không đúng luôn:
“Ngài phán cùng họ rằng: Các ngươi làm bộ công bình qua mặt người ta, song Đức Chúa Trời biết lòng các ngươi; vì sự người ta tôn trọng là sự gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời”.
Vấn đề nghiêm trọng của người Pharisi: ấy là họ đang tìm kiếm sự tán thưởng từ những nguồn sai trái, và họ đang tìm cách chịu xét nét theo các tiêu chuẩn không đúng. Họ đang phấn đấu để người ta xưng họ là công bình, và tiêu chuẩn của họ là để cho người ta xem thấy và đánh giá — vẻ bề ngoài.
Sự quan sát đơn giản nầy giải thích mọi hành vi của người Pharisi và cũng giải thích phản ứng của họ đối với Chúa Giêxu. Vì người Pharisi mong muốn sự tán thưởng của con người nên họ đã hành động theo một phương thức lôi cuốn sự chú ý của con người, theo một phương thức khiến cho họ trông rất công bình, khi người ta xét đoán. Người Pharisi hay đứng cầu nguyện dài, người ta thấy họ kiêng ăn, họ đóng góp nhiều, và chiếm chỗ đầu hết ở các bàn tiệc. Áo xống của họ cũng rất phô trương — họ đeo những lá bùa thật dài. Người Pharisi lỗ mãng phản đối việc Chúa Giêxu kết hiệp với, và thậm chí còn ăn uống với hạng tội nhân nữa. Họ tự hào về sự kiện họ luôn giữ khoảng cách. Đối với họ chẳng có một sự nhiễm bẩn nào hết! Họ tỉ mỉ tắm rửa về mặt nghi thức, và họ tuân giữ các luật lệ về ngày Sa bát. Trong tất cả những điều nầy, Chúa Giêxu phán, họ là kẻ giả hình, vì tấm lòng của họ là gian ác, vì họ chẳng có công bình chi hết.
Tuy nhiên, chính Đức Chúa Trời mới là Đấng xưng công bình, chớ không phải loài người. Đức Chúa Trời không xét đoán trên cơ sở bề ngoài, nhưng Ngài biết rõ và sự xét đoán của Ngài dựa theo mọi điều đang có trong tấm lòng của người ta:
“Nhưng Đức Giêhôva phán cùng Samuên rằng: Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó [Ê-li-áp, đối chiếu câu 6], vì ta đã bỏ nó. Đức Giêhôva chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giêhôva nhìn thấy trong lòng” (I Samuên 16.7).
Các tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời rất khác biệt với tiêu chuẩn của con người, thực vậy, chúng rất đối ngược nhau. Những việc loài người xem trọng, Chúa Giêxu phán, đấy là những điều gớm ghiếc đối với Đức Chúa Trời (Luca 16.15).
Những gì người ta đánh giá cao trong thời của Chúa Giêxu, lại là những điều Đức Chúa Trời ghê tởm sao? Tôi tin là có nhiều việc được liệt kê ra dưới đây nằm ở hai cột đối chiếu nhau, chúng làm đơn giản hoá các vấn đề, cho phép tôi tóm tắt hai cột mà chúng ta đã tìm thấy trong Bài Giảng Trên Núi (Luca 6.20-26):
Phước cho …
Khốn cho…
Người nghèo
Kẻ giàu
Kẻ đói khát
Kẻ no nê
Kẻ than khóc
Kẻ vui sướng
Kẻ bị bắt bớ
Kẻ được khen ngợi

Trong nội dung của phân đoạn Kinh thánh, có một minh họa rất rõ ràng về điều Chúa chúng ta đang nói tới khi Ngài phán rằng Đức Chúa Trời vốn khinh ghét những điều mà con người xem trọng (câu 15). Người Pharisi, theo lời Chúa Giêxu, là “con đời nầy”, họ đánh giá cao thái độ lừa đảo, và nhơn đó người chủ mới lên tiếng khen tên quản gia nọ, thậm chí dù hắn đã “xé toạc” chủ ra. Giá trị của Đức Chúa Trời không phải là giá trị của con người, cũng một thể ấy đường lối của Đức Chúa Trời không phải là đường lối của con người (đối chiếu Êsai 55.8).
Giờ đây chúng ta có thể nhìn thấy lý do tại sao người Pharisi đã xem tiền bạc có giá trị cao như thế. Đối với người Pharisi, tiền bạc là một trong những minh chứng bề ngoài về lòng mộ đạo. Rốt lại, há Đức Chúa Trời không hứa làm cho dân sự Israel Ngài được thịnh vượng một khi họ tuân giữ các điều răn của Ngài (đối chiếu Phục truyền luật lệ ký 28.1-14), và sẽ giáng nghèo khó và nghịch cảnh cho họ nếu họ bất tuân (Phục truyền luật lệ ký 28.15...) sao? Tiền bạc là minh chứng về thái độ mộ đạo, nó sẽ khiến cho kẻ chuộng về bề ngoài biết yêu thương. Lòng ham mến tiền bạc của người Pharisi là một biểu thị thái độ gắn bó của họ với các tiêu chuẩn bề ngoài, để họ nhận được sự khen ngợi của con người. Trong quá trình tìm kiếm sự khen ngợi của con người, họ cũng nhận được sự xét đoán của Đức Chúa Trời nữa.
HẠNG NGƯỜI TUÂN GIỮ LUẬT PHÁP LÀ HẠNG NGƯỜI LÀM ĐỒI BẠI LUẬT PHÁP (16.16-18)
Trong câu 15, Chúa Giêxu truy tố các đối thủ của Ngài như đang đùa giỡn trước khán thính giả sai lạc, theo những tiêu chuẩn và thước đo không đúng. Trong các câu 16-18, Chúa Giêxu tố giác những kẻ lấy làm tự hào họ là những kẻ “canh giữ luật pháp” chính là hạng người làm đồi bại luật pháp:
“Luật pháp và các lời tiên tri có đến đời Giăng mà thôi; từ đó, tin lành của nước Đức Chúa Trời được truyền ra, và ai nấy dùng sức mạnh mà vào đó. Trời đất qua đi còn dễ hơn một nét chữ trong luật pháp phải bỏ đi. Ai bỏ vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm, ai cưới đờn bà bị chồng để, thì cũng phạm tội tà dâm”.
Chúa Giêxu đã bắt đầu bằng cách đề cập tới sự thật: hệ thống tôn giáo trước kia đã kết thúc với Giăng Báp-tít, và sự ông xuất hiện đã khai trương ra một kỷ nguyên mới, một hệ thống tôn giáo mới (câu 16). Hệ thống tôn giáo mới nầy được nhiều người hoan nghênh, thực ra, Chúa Giêxu phán, con người đang chen lấn, xô đẩy thô bạo hầu vào trong nước nầy. Con người đang ra sức thô bạo tìm cách vào trong theo cách của họ. Điều nầy vì thế được người ta xem là một sự thay đổi đáng hoan nghênh.
Nhưng sự đến của hệ thống tôn giáo mới đã không làm theo những gì tôn giáo cũ phải làm. Cựu ước không kết thúc với sự đến của Đấng Christ. Như Chúa Giêxu phán ở chỗ khác, Ngài không đến để phá hủy luật pháp, mà để làm trọn nó (Mathiơ 5.17). Hai điều răn mà Chúa Giêxu dạy dỗ chỉ tóm tắt luật pháp và các lời tiên tri (Mathiơ 7.12; 22.40). Phaolô, là người đã nếm trải ân điển, hơn là luật pháp, đã nói rằng sự cứu rỗi đã được hoàn thành trong Đấng Christ, là điều mà “luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho” (Roma 3.21).
Có một sự khác biệt rất lớn giữa “Giao ước với Môi-se”, giao ước nầy chỉ là một giải pháp tạm thời mà thôi (một sự lần lửa, thoái thác) đối với vấn nạn tội lỗi, và Giao ước Mới. Với sự đến của Đấng Christ và sự chết, sự chôn, sự sống lại của Ngài, Giao ước với Môi-se bị bỏ qua một bên, được thay thế bởi một giao ước mới, tốt hơn, theo như sách Hêbơrơ bàn luận một cách thuyết phục. Cách nói: “Luật pháp và Lời tiên tri” là cách nói tóm tắt toàn bộ sự khải thị của Cựu ước, chớ không phải chỉ có luật pháp được ban ra qua Môi-se tại Núi Sinai. Luật pháp và Lời tiên tri chính là mặc khải cung ứng cho con người một tiêu chuẩn thiêng liêng về sự công bình, một tiêu chuẩn mà chẳng có ai đạt tới nổi, rồi vì thế tất cả mọi người đều bị xét đoán là tội nhân. Cựu ước, “luật pháp và lời tiên tri”, vẫn đóng vai trò nầy: là một sự công bố thiêng liêng về các tiêu chuẩn công bình. Vì thế, sứ đồ Phaolô dám nói rằng người nào “noi theo Thánh Linh” sẽ làm phu phỉ sự đòi hỏi của luật pháp (Roma 8.4).
Sự khải thị trong giao ước cũ nầy, gồm những gì người Pharisi lấy làm tự hào lo bảo tồn. Họ, không giống như “hạng tội nhân” trong thời của họ, “yêu mến luật pháp”, và tìm cách lo bảo tồn nó, hay họ tưởng như vậy. Nhưng có sự đối ngược hiển nhiên, và đây là trường hợp. Một lần nửa sự giả hình của người Pharisi là rất rõ ràng. Chúa Giêxu, giống như người Pharisi, được ủy thác phải tuân giữ “luật pháp và lời tiên tri”, sự khải thị của Cựu ước, họ xem khinh sự thay đổi hệ thống tôn giáo đã diễn ra như một kết quả của sự Ngài hoá thân thành nhục thể. Vì thế, Ngài khẳng định rằng “trời đất qua đi còn dễ hơn một nét chữ trong luật pháp phải bỏ đi”. Đây là điều mà người Pharisi dám nói: “Amen!” Nhưng họ có dám nói hay không?
Người Pharisi sắc son trong sự trung thành của họ đối với “luật pháp”, nhưng đây là gánh nặng của luật pháp Môise, và vì thế nó là gánh nặng của giao ước cũ. Chúa Giêxu đã nói tới “luật pháp và lời tiên tri”, vì đây là toàn bộ sự khải thị của Cựu ước, chớ không phải một phần của sự khải thị đó. Trong khi người Pharisi tập trung vào các góc cạnh bề ngoài của tôn giáo, các vị tiên tri thời Cựu ước khăng khăng kêu gọi Israel chú ý tới “các vấn đề trọng tâm” của luật pháp. Không có gì phải ngạc nhiên, các vị tiên tri hết thảy đều bị bắt bớ và bị tử hình. Hãy lưu ý lời lẽ của tiên tri Êsai, khi chúng giáng trên người Pharisi và phân đoạn Kinh thánh nối theo sau. Hãy lưu ý dáng vẻ bề ngoài thể nào là giả hình trong văn mạch của Êsai, nhưng tấm lòng của dân tộc đang suy sụp:
“Hãy kêu to lên, đừng dứt; hãy cất tiếng lên như cái loa; rao bảo tội lỗi dân ta cho nó, và rao bảo sự gian ác nhà Giacốp cho nhà ấy! Ngày ngày họ tìm kiếm ta và muốn biết đường lối ta; như dân đã theo sự công bình và chưa từng bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời mình! Họ cầu hỏi ta sự đoán xét công bình; và vui lòng gần gũi Đức Chúa Trời, mà rằng: Sao chúng tôi kiêng ăn mà Chúa chẳng đoái xem? Sao chúng tôi chịu dằn lòng mà Chúa chẳng biết đến? Nầy, trong ngày các ngươi kiêng ăn, cũng cứ tìm sự đẹp ý mình, và làm khổ cho kẻ kàm thuê. Thật, các ngươi kiêng ăn để tìm sự cãi cọ tranh cạnh, đến nỗi nắm tay đánh nhau cộc cằn; các ngươi kiêng ăn trong ngày như vậy, thì tiếng các ngươi chẳng được nghe thấu nơi cao. Đó há phải là sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há phải là ngày người ta dằn lòng mình đâu? Cúi đầu như cây sậy, nằm trên bao gai và trên tro, đó há phải đều ngươi gọi là kiêng ăn, là ngày làm đẹp lòng Đức Giêhôva sao? Sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há chẳng phải là bẻ những xiềng hung ác, mở những trói của ách, thả cho kẻ bị ức hiếp được tự do, bẻ gãy mọi ách, hay sao? Há chẳng phải là chia bánh cho kẻ đói, đem những kẻ nghèo khổ đã bị đuổi đi về nhà mình, khi thấy kẻ trần truồng thì mặc cho, và chớ hề trớ trinh những kẻ cốt nhục mình, hay sao? Bấy giờ sự sáng ngươi sẽ hừng lên như sự sáng ban mai, ngươi sẽ được chữa lành lập tức; sự công bình ngươi đi trước mặt ngươi, sự vinh hiển của Đức Giêhôva sẽ gìn giữ sau ngươi. Bấy giờ ngươi cầu, Đức Giêhôva sẽ ứng; ngươi kêu, Ngài sẽ phán rằng: Có ta đây! Nếu ngươi cất bỏ cái ách khỏi giữa ngươi, không chỉ tay và không nói bậy; nếu ngươi mở lòng cho kẻ đói, và làm no kẻ khốn khổ, thì sự sáng ngươi sẽ sáng ra trong tối tăm, và sự tối tăm ngươi sẽ như ban trưa. Đức Giêhôva sẽ cứ dắt đưa ngươi; làm cho ngươi no lòng giữa nơi khô hạn lớn; làm cho cứng mạnh các xương ngươi, ngươi sẽ như vườn năng tưới, như nước suối chẳng hề khô vậy” (Êsai 58.1-11).
Các tiên tri trong Cựu ước đã nói rất nhiều về “các vấn đề chính” trong cuộc sống. Sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Cựu ước không những tìm kiếm sự tuân thủ bề ngoài, mà còn tìm kiếm sự tuân thủ ý muốn của Đức Chúa Trời ở trong lòng nữa. Không có ai chỉ ra “tấm lòng” nầy hay hơn David, và David đã xưng nhận rằng nguồn cội “tấm lòng ông dành cho Đức Chúa Trời chúng ta” chính là luật pháp của Đức Chúa Trời (đối chiếu Thi thiên 119).
Ở ngoài mặt, người Pharisi và Cứu Chúa dường như nhất trí về tầm quan trọng sự khải thị của Cựu ước, đối với Chúa chúng ta Cựu ước là một tổng thể, kể các các sách tiên tri, và đối với Chúa đây là vấn đề của tấm lòng, chớ không phải sự tuân thủ luật pháp theo bề ngoài (đối chiếu Mathiơ 5-7).
Câu sau cùng của phân đoạn nầy, câu 18, là lời tố giác của Kinh thánh (Cựu ước) về sự bất chấp của người Pharisi đối với luật pháp và lời tiên tri. Trong khi họ xưng nhận là vâng theo và tìm cách đẩy mạnh và bảo tồn luật pháp, thực ra người Pharisi đã gạt luật pháp qua một bên. Một trường hợp rất rõ ràng là vấn đề ly dị. Chúa Giêxu nhơn đó đưa ra tiêu chuẩn của Cựu ước liên quan tới ly dị, là điều nghịch lại với tiêu chuẩn của người Pharisi:
“Ai bỏ vợ mình mà cưới vợ khác, thì phạm tội tà dâm, ai cưới đờn bà bị chồng để, thì cũng phạm tội tà dâm”.
Theo sự hiểu biết của tôi, đây là phần tham khảo duy nhất đến ly dị trong sách tin lành Luca. Ở những chỗ khác trong các sách tin lành, chúng ta biết người Pharisi đã thắc mắc Chúa Giêxu về ý kiến của Ngài về ly dị (đối chiếu Mathiơ 19.3). Chúng ta có thể dễ dàng cho rằng người Pharisi đã hào phóng nhiều về các điều kiện theo đó ly dị sẽ được phép dễ hơn Chúa chúng ta. Chúa Giêxu đối chiếu quan điểm “hào phóng” họ đang có với quan điểm được giữ bền chặt trong Kinh thánh. Dòng sau chót là đây: Đức Chúa Trời ghét ly dị; ly dị là tội lỗi; ly dị gây ra tội lỗi.
Con người đã chấp nhận ly dị, xem nhẹ tình trạng ly dị đó. Có những điều kiện theo đó ly dị được phép, nhưng con người luôn luôn tìm cách mở rộng chúng. Trong khi con người mong muốn nói về các trường hợp ngoại lệ cho phép ly dị, Chúa Giêxu khẳng định trong việc nhấn mạnh luật lệ, trong việc tuân giữ tiêu chuẩn thiêng liêng. Ngài nói ra tiêu chuẩn ấy một lần nữa. Lý tưởng của Đức Chúa Trời về hôn nhân: ấy là người nam và người nữ phải sống với nhau bao lâu họ còn sống.
Câu 18 là một minh hoạ đặc biệt về án lịnh mà Chúa Giêxu đã đưa ra nghịch lại người Pharisi: Người Pharisi đã đầu hàng có điều kiện các tiêu chuẩn của con người, và gạt luật pháp và các lời tiên tri qua một bên. Họ đã sinh sống phù hợp với những gì con loài người tán thành. Chúa Giêxu đã thách thức họ, Ngài tỏ ra rằng họ đã xây lưng mình chống lại những gì Đức Chúa Trời tán thành và không tán thành. Con người đã “đánh giá cao” quyền tự do thay đổi vợ; còn Đức Chúa Trời, đây là một sự gớm ghiếc. Những người tự nhận mình là canh giữ luật pháp thực sự lại là hạng người làm đồi bại luật pháp.
Tôi phải nghỉ một chút ở tại điểm nầy, vì chắc chắn người nào đã kinh nghiệm những sự tàn phá của ly dị đặc biệt đang cảm thấy bất an. Có phải ly dị thẳng thừng xét đoán kẻ nào là một tội nhân chăng? Tôi có khuynh hướng nói “đúng như thế”. Nhưng, e rằng không cứ cách nào đó người từng ly dị cảm thấy họ là tiêu điểm cho sự chú ý, đối tượng cho sự chế nhạo, cho phép tôi nhắc cho quí vị nhớ rằng mục đích của luật pháp là xác minh mỗi người là tội nhân. Cho nên, người nào đã kinh nghiệm ly dị cũng đã kết thân với kẻ có tư tưởng xấu xa, vì Chúa Giêxu dạy rằng các tư tưởng xấu cũng đang tạo ra tình trạng tà dâm (Mathiơ 5.31-32). Giận dữ tạo ra giết người. Cứ thế bảng danh sách nói tới tội lỗi và tội nhân sẽ càng lúc càng dài thêm ra.
Mục đích của luật pháp là xác minh con người là tội nhân, và hứa với họ một điều khoản về tội lỗi — ấy là Chiên Con Đức Chúa Trời. Nếu Lời của Đức Chúa Trời đã hiện ra để xác minh chúng ta là tội nhân và chỉ cho chúng ta đến với Đấng Christ, Lời ấy đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Cho dù tội lỗi chúng ta có là gì đi nữa, huyết Đấng Christ đã đổ ra để che đậy chúng hết thảy, cho mọi người tin. Hãy giúp cho người đã ly dị không cảm thấy họ không bị Lời của Đức Chúa Trời chúng ta phơi bày ra. Họ đã được chọn vì đây là chỗ mà người Pharisi bảo thủ quá hào phóng, và ở đây họ đã gạt qua một bên các tiêu chuẩn có trong Lời Đức Chúa Trời dành cho mọi người trong xã hội của họ. Họ tìm cách cho người ta xưng họ là công bình, phù hợp với vẻ bề ngoài, hơn là sự xưng công bình đến từ Đức Chúa Trời, dựa trên một tấm lòng thanh sạch.
NGƯỜI GIÀU VÀ LAXARƠ (16.19-31)
Hai lời kết án quan trọng đã được đề ra nghịch lại người Pharisi hay chế giễu kia trong các câu 15-18:
(1) Họ đã tìm kiếm sự tán thưởng của con người (dựa theo những gì con người trông thấy — vẻ bề ngoài), chớ không phải của Đức Chúa Trời (dựa theo tấm lòng).
(2) Họ gạt qua một bên sự khải thị của Đức Chúa Trời, những gì bày tỏ ra tấm lòng.
Thí dụ nói về người giàu và Laxarơ một cách sinh động minh hoạ cả hai quan điểm nầy:
“Có một người giàu mặc áo tía và áo bằng vải gai mịn, hằng ngày ăn ở rất là sung sướng. Lại có một người nghèo, tên là La-xa-rơ, nằm ngoài cửa người giàu đó, mình đầy những ghẻ. Người ước ao được ăn những đồ ở trên bàn người giàu rớt xuống; cũng có chó đến liếm ghẻ người. Vả người nghèo chết, thiên sứ đem để vào lòng Áp-ra-ham; người giàu cũng chết, người ta đem chôn. Người giàu ở nơi âm phủ đang bị đau đớn, ngước mắt lên , xa thấy Áp-ra-ham, và La-xa-rơ trong lòng người; bèn kêu lên rằng: Hỡi Áp-ra-ham tổ tôi, xin thương lấy tôi, sai La-xa-rơ nhúng đầu ngón tay vào nước đặng làm cho mát lưỡi tôi; vì tôi bị khổ trong lửa này quá đỗi. Nhưng Áp-ra-ham trả lời rằng: Con ơi hãy nhớ lại lúc ngươi còn sống đã được hưởng những sự lành của mình rồi, còn La-xa-rơ phải những sự dữ; bây giờ, nó ở đây được yên ủi, còn ngươi phải bị khổ hình. Vả lại, có một vực sâu ở giữa chúnh ta với ngươi, đến nỗi ai muốn từ đây qua đó không được, mà ai muốn từ đó qua đây cũng không được. Người giàu nói rằng: Tổ tôi ơi! vậy thì xin sai La-xa-rơ đến nhà cha tôi, vì tôi có năm anh em, đặng người làm chứng cho họ về những đều nầy chăng. Áp-ra-ham trả lời rằng: Chúng nó đã có Môi se và các Đấng tiên tri; chúng nó phải nghe lời các đấng ấy! Người giàu nói rằng: Thư Áp-ra-ham tổ tôi, không phải vậy đâu; nhưng nếu có kẻ chết sống lại đến cùng họ, thì họ sẽ ăn năn. Song Áp-ra-ham rằng: Nếu không nghe Môi se và các đấng tiên tri, thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy”.
Khi xử lý với phân đoạn Kinh thánh nầy, tôi muốn chia phân đoạn nầy ra làm ba phần: (1) người giàu và Laxarơ khi còn sống — các câu 19-21; (2) người giàu và Laxarơ sau khi qua đời — các câu 22-23; (3) những lời van xin của người giàu — các câu 24-31.
NGƯỜI GIÀU VÀ LAXARƠ KHI CÒN SỐNG (các câu 19-21)
Câu 19 bắt đầu gần như tương tự với câu 1: “Có một người giàu …” Người giàu nầy “hằng ngày ăn ở rất sung sướng”. Phần mô tả của Chúa Giêxu về cuộc sống của ông ta rất giống với số phận của người giàu mà về người Chúa Giêxu đã công bố ra những điều khốn cho trong Bài Giảng Trên Núi của Ngài (Luca 6.20-26). Và cũng một thể ấy, với Laxarơ. Mọi sự nơi ông ta, Chúa Giêxu thu gọn lại là “được phước”. Tên tuổi của người giàu nầy không được nói ra, và tên của Laxarơ được nói ra là một điều rất đặc biệt. Tên nầy có nghĩa là “người được Đức Chúa Trời vùa giúp”.
Người giàu nầy rất giàu, và ông ta đã tận hưởng mọi lợi ích trong sự giàu có của mình. Ông ta ăn mặc rất sang trọng. Chúng ta có ấn tượng là tủ quần áo của ông ta chứa đầy với các loại áo xống đắt tiền. Ông ta ăn rất ngon, và ông ta sống sung sướng. Cuộc sống quá đầy đủ đối với con người nầy. Từ mọi thứ bề ngoài, và từ những gì ghi chép ở Phục truyền luật lệ ký 28, con người nầy, người Pharisi sẽ xem đấy là một người công bình. Chắc chắn ông ta sẽ về thiên đàng khi ông ta qua đời.
Laxarơ thì ngược lại. Ông là một kẻ nghèo hèn, một tên ăn xin. Người ta đem đặt ông ta tại nơi cổng nhà của người giàu kia. Áo quần của ông không thấy nói tới, nhưng chúng ta có thể tưởng tượng ra nó tồi tệ là thể nào! Đồ ăn của ông ta toàn là những mãnh vụn mà ông ta nhặt được từ sọt rác của người giàu kia — giành giựt với mấy con chó, đánh vật với chúng để lấy đồ ăn. Ông ta có nhiều ghẻ và mấy con chó nầy đến liếm ghẻ ấy. Ông là loại người mà người Pharisi sẽ kể là “tội nhân”, một người mà trong lý trí của họ, chỉ đáng ở địa ngục mà thôi.
Hai người nầy sinh sống gần gũi với nhau. Tôi tin Laxarơ đã sống gần dinh thự của người giàu đến nỗi Laxarơ nhìn thấy người ra kẻ vào nhà người giàu đó. Laxarơ có thể nghe thấy tiếng cười nói. Laxarơ có thể ngửi được mùi thơm của các thức ăn sang trọng được sắm sửa từ trong bếp. Laxarơ biết rõ mình đang thiếu thốn điều gì.
Và nếu Lazarơ biết rõ sự dư dật và ơn phước của người giàu, song rõ ràng ông ta không phải là người biết chia sẻ các thứ ấy, người giàu cũng phải biết rõ hoàn cảnh khó khăn của Lazarơ. Ông ta phải đi ngang qua chỗ Lazarơ ngồi mỗi lần ông ta ra vào nhà của mình. Điều nầy có nghĩa là ông ta đã chọn không biết tới nhu cần của Laxarơ. Người giàu đã sử dụng sự giàu có của mình cho sự vui thú của bản thân mình, chớ không phải để phục vụ cho người đang cảnh có cần. Đây là một sự vi phạm rõ ràng tiêu chuẩn công bình của Cựu ước.
Căn cứ vào chỉ bề ngoài thôi, người ta có thể thấy rõ thể nào người Pharisi đã xét đoán hai người nầy. Họ đã xưng công bình người giàu và đã xét đoán Laxarơ. Số phận của hai người nầy sau khi họ qua đời cho thấy sự xét đoán của con người là sai lầm. Vì vậy, số phận của họ sau khi chết sẽ minh họa sự buộc tội của Chúa chúng ta nghịch lại người Pharisi trên đây, nghĩa là họ đã tìm cách xưng công bình trước mặt người ta, theo bề ngoài, thay vì trước mặt Đức Chúa Trời, dựa theo tấm lòng.
NGƯỜI GIÀU VÀ LAXARƠ TRONG CÕI ĐỜI ĐỜI (các câu 22-23)
Chỉ sau khi cả hai người đều qua đời thì sự phán xét của Đức Chúa Trời mới ra rõ ràng. Ở đây, vai trò của hai người gần như bị đảo lộn hoàn toàn. Bây giờ, chính người giàu kia đang ở trong cảnh khổ hình, và Lazarơ mới là người có phước. Sự thay đổi đã diễn ra khi hai người qua đời. Ở trên đất, người ta có thể tưởng tượng người giàu kia có một đám tang rất trọng thể. Còn tang lễ của Lazarơ thì thật là sơ sài. Có thể thi hài của Laxarơ đã bị ném vào một đống phân nào đó. Từ cái nhìn của thiên thượng sự thể rất khác biệt đấy! Kinh thánh cho chúng ta biết rằng linh hồn của Lazarơ được đem vào “lòng của Áp-ra-ham”. Còn người giàu kia Kinh thánh cho chúng ta biết rằng ông ta đã chết và được chôn.
Việc nhận ra chỗ ở trên cao của Lazarơ như “lòng của Ápraham” có cả hai phần: thú vị và ý nghĩa. Trong thí dụ của chúng ta, Kinh thánh không nói Lazarơ đang ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, mà ông đang ở trong lòng của Ápraham. Chúng ta phải nhớ rằng thí dụ nầy đã được kể lại cho một người Israel nghe, theo quan điểm của Cựu ước. Tôi tin rằng trong những thời Cựu ước đã có một “nơi chắc chắn” dành cho các linh hồn của những người đã quá cố. Tôi tin nơi chắc chắn nầy có hai gian phân biệt, có thể nói như vậy. Một gian được dành giữ cho người công bình, còn gian kia được dành cho kẻ không công bình. Mỗi gian đều có bản sao đời đời của nó. Chỗ ở đời đời của người công bình là thiên đàng, trong khi chỗ ở của kẻ ác là bản mẫu của địa ngục. Người giàu và Laxarơ vì thế đã ở trong chỗ của riêng mình.
Nơi ở vui sướng của Lazarơ được gọi là “lòng của Ápraham”. Từ chốn khổ hình của mình, người giàu gọi Ápraham là “Tổ Ápraham”. Gần như tôi có thể nhìn thấy gương mặt của những người Pharisi nhăn nhúm lại khi Chúa Giêxu nói tới từ “Tổ Ápraham” vì người giàu nầy đã gọi Ápraham là “cha” của ông ta, và Ápraham đã gọi ông ta là “con”. Người Pharisi tin rằng mọi sự người ta có cần để bước vào Nước của Đức Chúa Trời là một giấy khai sinh minh chứng họ là dòng dõi theo phần xác của Ápraham (đối chiếu Luca 3.8). Ở đây là một người giàu có, một dòng dõi của Ápraham, đang ở trong địa ngục (hay đúng hơn, là người đầu tiên ở địa ngục). Đúng là một phương thức khá mạnh mẽ nhắc cho người Do thái nhớ rằng là dòng dõi theo phần xác của Ápraham không phải là một bảo đảm để cho người được cứu đâu.
Chốn phước hạnh chính là “lòng của Ápraham”. Tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm ra manh mối cho ý nghĩa của cách nói nầy trong Mathiơ 8.11:
“Ta cũng nói cùng các ngươi, có nhiều người từ đông phương tây phương sẽ đến, ngồi đồng bàn với Ápraham, Ysác và Giacốp trong nước thiên đàng” (Mathiơ 8.11; đối chiếu Luca 13.29).
Kinh thánh trình bày Lazarơ như đang tựa vào lòng của Ápraham. Cơ hội cho một người tựa vào lòng hay ngực của người khác là ở tại bàn tiệc, như Giăng đã tựa vào người Chúa Giêxu (đối chiếu Giăng 13.23, 25; 21.20). Vì thế, có thể là Lazarơ được phác họa như đang tựa vào lòng Ápraham tại bàn tiệc.
Các hoàn cảnh của người giàu và Lazarơ gần như đã đảo lộn chính xác sau khi qua đời. Người giàu, là người đã sống rất xa hoa, giờ đây đang ở trong cảnh khổ ải. Ông ta ở cách xa tấm lòng của Ápraham, nhưng còn tỉnh táo trước những gì đang diễn ra ở đó. Lazarơ, là người đã chịu khổ rất nhiều trong đời sống mình giờ đây đang ở trong chỗ phước hạnh. Trong khi Laxarơ đã vật vã để có được các mẫu bánh vụn rơi xuống từ trên bàn của gã nhà giàu kia, giờ đây Laxarơ đã tựa vào bàn tiệc của Ápraham, đang dựa vào lòng của Ápraham! Trong khi trước kia Laxarơ, là người liếc nhìn lên sự dư dật của người giàu, thế nhưng đã không dự phần vào sự dư dật đó, giờ đây chính người giàu ấy lại là người trông thấy Lazarơ đang ở trong sự dư dật và phước hạnh.
Dường như “địa ngục” của người giàu là nơi giam giữ trong một nhà tù. Sẽ có nhiều người khác cùng ở đó với quí vị, nhưng quí vị khó mà nhận biết họ, cũng không có một liên hệ thực sự nào hết. Điều quí vị nhận biết: ấy là phước hạnh của người công bình. Có lẽ địa ngục có một cánh cửa sổ và chỉ nhìn được có một chiều, và mỗi cư dân của địa ngục được trao cho một cặp ống nhòm. Kẻ ác nhờ đó có thể nhìn thấy niềm vui mừng và phước hạnh của người công bình, thế nhưng rõ ràng là người công bình không biết gì tới nỗi khổ của kẻ ác. Kẻ ác có thể nhìn ra ngoài, còn người công bình không thể nhìn vào bên trong, có thể nói như thế.
NHỮNG ĐIỀU CẦU XIN CỦA NGƯỜI GIÀU (các câu 24-31).
Thật là dễ suy nghĩ rằng toàn bộ thí dụ nhắm vào phần mô tả ơn phước của Lazarơ cùng nỗi thống khổ của người giàu. Thực ra, phần lớn thí dụ nầy nhắm vào hai lời cầu xin mà người giàu đưa ra. Trước khi chúng ta xem kỹ mấy lời cầu xin nầy, hãy lưu ý đến một vài việc. Thứ nhứt, cả hai lời cầu xin đều bị từ chối. Thứ hai, lời cầu xin thứ nhứt của người giàu phải thực hiện với sự yên ủi cho cá nhân ông ta, trong khi lời cầu xin thứ hai là dành cho sự sống đời đời của gia đình ông ta (năm người em của ông ta). Thứ ba, cả hai lời yêu cầu của ông ta là xin Ápraham sai Lazarơ làm cho một việc. Theo ý của tôi, người giàu vẫn coi thường Lazarơ, ông ta vẫn xem Laxarơ là một loại tôi tớ, chớ không phải là một người đáng trượng.
Lời cầu xin thứ nhứt của người giàu là kết quả của sự ông ta chịu khổ, nỗi đau khổ của ông ta. Những ngọn lửa đang khiến cho ông ta sự bất an lớn lắm. Ông ta nài xin sự thương xót, một lời cầu xin Lazarơ được sai đi đến với ông ta, đem theo một lượng nước nhỏ nhất, để làm cho mát lưỡi ông ta.
Lời nài xin của ông ta đã bị từ chối, dựa theo hai yếu tố. Thứ nhứt, số phận của người giàu là một số phận công bình. Ông ta đã nhận lãnh đúng những gì ông ta đáng được. Ông ta đã có “những việc tốt” trong đời rồi. Giờ đây, sự công bình đòi hỏi rằng ông ta phải nhận lấy những điều ông đáng phải chịu. Nỗi khổ của ông ta đúng là một hình phạt. Sự công bình sẽ không cho phép Ápraham thu nhỏ lại nỗi đau khổ của ông ta. Thứ hai, địa ngục và thiên đàng đã được chia ra, với sự chia cách mà hai bên không đến gần nhau được. Ápraham nói, họ đã có một vực sâu phân cách, nằm ở giữa hai nơi. Kẻ ác không thể băng qua nơi phước hạnh, và người công bình không thể (tỏ ra lòng thương xót, như đem nước cho người đang đau khổ) băng qua nơi ở của kẻ ác được. Vì thế, lời cầu xin của người giàu đã bị từ chối. Địa ngục là số phận không thể tránh được của một số người, với sự lựa chọn bước vào đó mà con người đã đưa ra khi còn sống.
Lời cầu xin thứ hai của người giàu vẫn gắn với sự phục vụ của Lazarơ, nhưng lần nầy ông ta không cầu xin Lazarơ làm dịu đi nỗi khổ của ông ta, mà xin Lazarơ đến gặp 5 anh em của ông ta để cảnh cáo họ đừng đi tới chốn nầy. Người giàu giờ đây hiểu rằng những sự lựa chọn của con người phải đưa ra trước khi qua đời, và mọi quyết định của họ cứ giữ nguyên sau khi họ qua đời.
Ápraham đã đáp lại một cách tiêu cực đối với lời cầu xin nầy, cũng y như đối với lời xầu xin thứ nhứt. Đối với một số người không nhất thiết phải được sai về từ mồ mả để cảnh cáo kẻ bị hư mất. Môise và các vị tiên tri đã phục vụ cho mục tiêu nầy. Hãy giúp cho kẻ bị hư mất nghe được sự khải thị của Cựu ước. Ápraham đã kiên định, điều nầy góp phần như một lời cảnh cáo đúng mức.
Tuy nhiên, người giàu đã phản đối. Ông ta đã khẳng định rằng trong khi người ta không thể chú ý đến kinh Cựu ước, họ không thể bỏ qua sứ điệp của một người đã từ kẻ chết trở về. Họ nghĩ: “dấu kỳ phép lạ” đó có thể hữu hiệu hơn cả Lời của Đức Chúa Trời. Đây chỉ là một chuỗi liên tục trong lời yêu cầu Chúa Giêxu tự minh chứng Ngài bằng cách làm ra một phép lạ như một xác minh thân vị và quyền phép của Ngài.
Câu trả lời của Ápraham rất ngắn ngủi và có mục tiêu. Ông nói rằng nếu mấy người em của người giàu từ chối không chịu nghe theo Môise và các vị tiên tri, họ sẽ không chịu tin theo một sự xuất hiện của ai ra từ mồ mả hết. Có một nguyên tắc quan trọng nằm dưới câu trả lời nầy. Sự con người thất bại không chịu tin không xứng với việc thiếu chứng cớ, mà xứng với một tấm lòng khô cứng, nó quyết định không tin theo bất kỳ một lượng bằng chứng nào. Nói khác đi, vấn đề không phải là thiếu chứng cớ ngoại tại (bề ngoài), mà là do một sự loạn nghịch cố ý của tấm lòng chống nghịch Đức Chúa Trời. Tấm lòng của con người nầy và 5 anh em của ông ta là vô tín. Sự vô tín như thế không được giải quyết bằng sự trội hơn của chứng cớ, mà chỉ bằng một sự thay đổi của tấm lòng. Một lần nữa, vẻ bề ngoài không phải là vấn đề, mà chính là ở tấm lòng.
Chúa Giêxu không còn bao lâu nữa sẽ bị đóng đinh trên thập tự giá, và Ngài sẽ sống lại từ trong kẻ chết. Ngôi mộ trống kia tại thành Jerusalem không kết quả từ một loạt thay đổi, vì không phải vẻ bề ngoài là vấn đề, mà là sự cứng lòng của con người. Nếu con người cần phải tin theo Đấng Christ để được cứu rỗi, họ cần phải tin theo Đấng Christ về mọi điều mà Kinh thánh Cựu ước đã nói trước. Cho nên, khi Phierơ rao giảng sứ điệp của ông vào ngày Lễ Ngũ Tuần, ông đã lập nền cho phần giảng luận của mình trên Kinh Cựu ước, nói về: “Luật pháp và các sách tiên tri” (đối chiếu Công vụ các Sứ đồ 2.16-36).
PHẦN KẾT LUẬN
Người Pharisi đã chối bỏ Chúa Giêxu vì hai lý do chính. Thứ nhứt, họ tìm cách kiếm cho kỳ được sự tán thưởng của con người, dựa trên dáng vẻ bên ngoài, hơn là dựa theo sự tán thưởng của Đức Chúa Trời, dựa theo tấm lòng. Thứ hai, khi làm như vậy họ đã từ chối Kinh Cựu ước, là “Luật pháp và các sách tiên tri”, họ đã đổi tiêu chuẩn thiêng liêng về sự công bình để lấy tiêu chuẩn của loài người.
Câu chuyện nói về người giàu và Lazarơ đột nhiên minh hoạ hai điều sai lầm nầy. Dựa theo bề ngoài, dường như là người giàu được tuyên bố công bình và được bước vào Nước của Đức Chúa Trời, và Lazarơ sẽ bị chối bỏ và bị xét đoán. Sau khi hai người nầy qua đời thì kết quả ngược hẳn lại. Chúa Giêxu xác minh, dáng vẻ bề ngoài chính là sự dối gạt. Con người sẽ “đánh giá cao” người giàu, còn Đức Chúa Trời Ngài đã chối bỏ ông ta. Người ta sẽ xem khinh Lazarơ, còn Đức Chúa Trời thì xưng công bình ông ta.
Vậy thì đâu là cơ sở cho sự chối bỏ người giàu, và đâu là cơ sở cho sự xưng công bình gã ăn mày Laxarơ? Ngay tức khắc, chúng ta bị cám dỗ mà cho rằng câu trả lời là một câu trả lời ngoài mặt — là việc mà chúng ta có thể xét đoán qua dáng vẻ bề ngoài. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng Đức Chúa Trời đã xét đoán hai người nầy về dáng vẻ bên ngoài, Ngài đã làm như vậy với một hệ thống làm đảo lộn các giá trị. Đức Chúa Trời đã xét đoán người giàu và xưng công bình cho người nghèo. Đức Chúa Trời đã giải cứu người nghèo và đưa người vào thiên đàng. Phần kết luận nầy sẽ là loại kết luận sai lầm mà người Pharisi đã thực hành, với một hệ thống làm đảo lộn mọi giá trị.
Câu chuyện nói về người giàu và Lazarơ kết luận theo một hướng như vậy như để chỉ ra điều chi thực sự xưng công bình một người. Người giàu không bị xét đoán vì ông ta giàu có, chẳng khác gì người nghèo được xưng công bình vì quá nghèo. Những dáng vẻ bề ngoài nầy (giàu và nghèo) không thích đáng với số phận đời đời của hai người nầy. Một người giàu tin kính đã sử dụng sự giàu có của mình thật khác biệt, thế nhưng không phải việc làm của ông ta sẽ cứu lấy ông ta đâu. Cơ sở thực sự cho sự xưng công bình hay sự xét đoán được thấy có trong phần quan tâm của người giàu đối cùng mấy người em bị hư mất của ông ta. Vấn đề không phải hai người nầy giàu hay nghèo, mà là họ có tin theo Kinh thánh là “Môise và các sách tiên tri” hay là không!?! Ấy không phải là sự giàu hay sự nghèo mới quyết định số phận của một người, mà chính là tin hay không mà thôi.
Vì vậy, phần sau cùng của thí dụ minh họa lời kết án thứ hai mà Chúa chúng ta đưa ra nghịch cùng người Pharisi — là họ đã đổi các tiêu chuẩn đời đời, không thay đổi của “Luật pháp và các sách tiên tri” để lấy những tiêu chuẩn hay thay đổi của xã hội của họ. Người Pharisi, tự xem mình là hạng người canh giữ Luật pháp, thực sự là hạng người đang làm đồi bại luật pháp. Khi tự nhận như vậy, họ đã đóng ấn cho số phận của chính họ. Trong khi họ tỏ ra mình công bình ở bề ngoài, trong khi con người có thể xem họ là công bình, số phận của họ cũng giống y như số phận của người giàu, trừ phi họ tin Chúa và ăn năn.
Tin Chúa và ăn năn chính là điều mà sự khải thị của Cựu ước muốn nói tới. Những phần Kinh thánh nầy không được ghi ra để cung ứng một tiêu chuẩn công bình mà con người, nếu họ chịu khó đủ, có thể đạt tới được. Kinh thánh được viết ra để thuyết phục mọi người rằng họ là hạng tội nhân, bị chết mất đáng thương và vô hy vọng. Nhưng chính các phần Kinh thánh nầy đã cung ứng một phương tiện tránh thoát — hệ thống con sinh. Tội lỗi nhơn đó sẽ không tính đến trong một thời gian, giống như một người sẽ nhận lãnh một sự gia hạn cho món nợ không trả nổi vậy. Các phần Kinh thánh nầy nói tới một ơn chửng cứu hoàn toàn mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn tất, dựa trên một giao ước mới, và trên sự chết có tính cách hy sinh của Đấng Mêsi, Ngài mang lấy hình phạt dành cho tội lỗi của một người, và trên cơ sở công bình của Ngài, nhân loại sẽ được xưng là công bình. Hãy chú ý phần tóm tắt của Phaolô về mọi sự nầy như đã được thấy trong sách Roma chương 3:
“Vả, chúng ta biết rằng những đều mà luật pháp nói, là nói cho mọi kẻ ở dưới luật pháp, hầu cho miệng nào cũng phải ngậm lại, cả thiên hạ đều nhận tội trước mặt Đức Chúa Trời; vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi. Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp: tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Giêxu Christ, cho mọi người nào tin. Chẳng có sự phân biệt chi hết, vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giêxu Christ, là Đấng Đức Chúa Trời đã lập làm của lễ chuộc tội, bởi đức tin trong huyết Đấng ấy. Ngài đã bày tỏ sự công bình mình như vậy, vì đã bỏ qua các tội phạm trước kia, trong buổi Ngài nhịn nhục; tức là Ngài đã tỏ sự công bình Ngài trong thời hiện tại, tỏ ra mình là công bình và xưng công bình kẻ nào tin đến Đức Chúa Giêxu” (Roma 3.19-26).
Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta quả là một phân đoạn thật khích lệ cho hạng người chưa được cứu, họ cần phải xây sang Đấng Christ để được cứu. Thí dụ nói tới người giàu và Laxarơ dạy chúng ta một vài sự thật về địa ngục, đối với người bị hư mất đây đúng là điều mà họ đáng phải kinh sợ:
(1) Địa ngục là một nơi có thật. Đây là một điều chắc chắn, nó đến sau khi qua đời.
(2) Địa ngục là một nơi có thật, dù bây giờ dường như nó có tính tưởng tượng.
(3) Địa ngục là một nơi sự công bình đòi hỏi, vì sự công bình có ở đó và duy ở đó mọi điều gian ác trong cuộc sống đã được làm cho ngay thẳng lại. Tôi thường nghe người ta phản kháng nghịch lại địa ngục, họ khẳng dịnh rằng một Đức Chúa Trời yêu thương không thể để cho ai vào một nơi thể ấy. Nhưng Đức Chúa Trời cũng là một Đức Chúa Trời công bình nữa, Ngài không thể bỏ qua điều ác. Tình yêu của Đức Chúa Trời sai phái Chúa Giêxu bước lên thập tự giá ở đồi Gôgôtha, gánh lấy cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng trên tội lỗi, kẻ nào chối bỏ tình yêu của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ phải gánh lấy cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời trong địa ngục.
(4) Địa ngục là nơi mà con người gánh chịu khổ hình. Khổ hình đó dường như bao gồm đau đớn theo phần xác (hơi nóng của những ngọn lửa trong thí dụ của chúng ta), cũng như nỗi đau trong lý trí kết quả do việc nhìn thấy niềm vui của thiên đàng, song không thể ra khỏi đó, và nỗi đau của sự lo lắng về những người thân vẫn còn sống, họ sẽ cùng chịu chung một số phận.
(5) Địa ngục, khi bước vào đấy, một lần nữa đó là số phận không thể tránh được. Chẳng có một sự thông thương nào giữa thiên đàng và địa ngục. Người nào ở trong địa ngục, người ấy (nam hay nữ) sẽ ở đấy cho đến đời đời.
(6) Địa ngục là nơi mà nhiều người sẽ đi tới, họ tưởng rằng họ sẽ lên thiên đàng. Kinh thánh dạy rằng có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người, nhưng đến cuối cùng nó thành ra nẻo sự chết. Người Pharisi tự xưng công bình không hề mơ họ sẽ đến ở nơi địa ngục.
(7) Địa ngục là nơi có nhiều người đi tới vì tấm lòng của họ không trong sạch trước mặt Đức Chúa Trời, và họ không chịu tin theo Kinh thánh, để xem xét tội lỗi của họ, hoặc sự cứu rỗi trong Đấng Christ.
Chắc chắn có một sứ điệp mạnh mẽ trong thí dụ nầy cho những ai đang cảm thấy mình rất tôn giáo, nhưng họ thực sự chưa được cứu. Đấy là trường hợp của người Pharisi. Nhưng có một mối nguy hiểm chết chóc trong các sự sai lầm của người Pharisi đang ăn luồn trong Cơ đốc giáo chân chính.
Chúng ta, giống như người Pharisi, đang ở trong mối nguy hiểm của việc sử dụng tiêu chuẩn tạm thời bởi đó xét đoán mặt thuộc linh, cả trong chúng ta và trong người khác. Khi chúng ta thực thi như vậy, chúng ta, giống như người Pharisi, sẽ đặt một giá trị rất lớn vào tiền bạc. Chúng ta sẽ, giống như họ, trở thành hạng người ham mến tiền bạc. “Tin Lành thịnh vượng” trong những thời điểm mới đây đang đặt tính cách thuộc linh ngang hàng với sự giàu có. Đây là một sự sai lầm nghiêm trọng, vì trong những trường hợp như thế, tiền bạc trở thành ông chủ của chúng ta. Như Chúa Giêxu đã nói ở trên, con người không thể hầu việc hai chủ. Khi Đức Chúa Trời là Chủ chúng ta, tiền bạc trở thành phương tiện cho sự hầu việc Ngài. Nhưng khi thần của chúng ta là tiền bạc, Đức Chúa Trời trở thành phương tiện của việc kiếm ra tiền, của việc biến chúng ta ra giàu có. Tin lành thịnh vượng đã biến Đức Chúa Trời thành phương tiện để làm giàu, chớ không phải biến giàu có thành phương tiện hầu việc Đức Chúa Trời.
Có nhiều cách khác trong đó chúng ta đánh giá sai tính cách thuộc linh bởi các tiêu chuẩn bề ngoài nhất thời. Có người, như tôi đã nói, đánh giá tình trạng thuộc linh qua sự giàu có của ai đó. Những người khác đang thay đổi nhãn hiệu, và sánh tình trạng thuộc linh ngang hàng với sự giàu có. Những người khác, với một ân tứ thuộc linh nào đó, hay một hình thái chức vụ đặc biệt nào đó, (thường là công khai, được lòng người, và “thành công”). Có người đánh giá tình trạng thuộc linh theo cách con cái của ai đó thể hiện ra, hoặc bởi số ngày đêm ai đó sử dụng trong Hội thánh, hoặc các sinh hoạt trong nhà thờ.
Sự sai lầm về hiện tượng như thế nầy vốn rất nghiêm trọng hơn chúng ta nhìn biết nữa. Tôi e rằng động lực mà chúng ta lo làm, hay không lo làm, là một sự ao ước muốn đạt được sự tán thưởng của con người, hoặc tránh né sự không tán thưởng của họ. Thí dụ, ly dị, là điều mà ít Cơ đốc nhân chịu xem xét như một sự lựa chọn, chỉ cách đây mấy năm thôi. Giờ đây dường như có nhiều người không những chịu xem xét nó, mà còn làm theo nữa. Tại sao có sự thay đổi như thế chứ? Sở dĩ có như thế tôi không nghĩ là vì sự hiểu biết Kinh thánh của con người đã thay đổi nhiều lắm, mà vì nền văn hoá của chúng ta (thậm chí nền văn hoá Cơ đốc của chúng ta, hệ thống giá trị của Hội thánh và của Cơ đốc nhân tín hữu của chúng ta nữa) đều đã thay đổi. Nhiều người nam và nữ đã từ chối ly dị trong quá khứ, không phải vì ly dị là không đẹp lòng đối với Đức Chúa Trời (Đức Chúa Trời ghét ly dị, quí vị nhớ lại Malachi 2.16), mà vì xã hội sẽ xem thường họ vì đã ly dị. Bây giờ, khi xã hội tán thành, Cơ đốc nhân cảm thấy tự do trong việc ly dị. Chúng ta thấy trong vấn đề nầy, chúng ta cũng sốt sắng mong có sự tán thưởng của con người, hơn là sự tán thưởng của Đức Chúa Trời.
Và chúng ta làm theo những điều nầy, điều kia trong khi cứ cho rằng mình là người chuyên nghiên cứu Kinh thánh. Chúng ta tin rằng Kinh thánh được cảm thúc, không thể sai lầm, và có thể áp dụng vào đời sống chúng ta. Chúng ta sẽ chống đối người nào dám nói khác đi. Nhưng trong cách thực hành trung thực Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta, giống như người Pharisi, thường gạt bỏ tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời qua một bên khi chúng chỏi với tiêu chuẩn của nền văn hoá chúng ta. Chúng ta hãy xem xét cho kỹ hơn chúng ta đang tranh đấu và làm đẹp lòng ai đây!?! Tân ước, cũng như Cựu ước, đều có nhiều chỗ nói về hạng người đẹp lòng (đối chiếu Roma 2.29; 12.17; 14.18; I Côrinhtô 10.33; Galati 1.10; Ê-phê-sô 6.7; I Têsalônica 2.4).
Tôi tin, khi xem xét tỉ mỉ những việc nào mà nền văn hoá chúng ta đánh giá cao, rồi xem coi mọi việc nầy có đẹp lòng trước mặt Đức Chúa Trời hay không, đây là một việc làm rất hay. Tôi e rằng mọi giá trị trong nền văn hoá của chúng ta, các thứ giá trị ấy sẽ trở thành một sự gớm ghiếc đối với Đức Chúa Trời được sử dụng trong văn hoá Cơ đốc của chúng ta mà không có sự suy nghỉ. Thí dụ, nền văn hoá của chúng ta theo đời nầy, các thứ giá trị cao là “hình ảnh bản ngã tốt đẹp”, là các thứ rất nguy hiểm, đều là loại tình yêu tư kỷ. Nền văn hoá của chúng ta đánh giá cao tính gây hấn và tính cố quyết. Đức Chúa Trời xem trọng tính nhu mì và tính khiêm nhường. Ngài dạy chúng ta phải đem bản ngã mình mà đầu phục nhau. Chúng ta hãy cẩn thận đánh giá mọi giá trị của mình, và xem xét lại tình trạng tấm lòng của chúng ta. Chỉ có Lời Đức Chúa Trời mới có thể và sẽ bày tỏ ra điều nầy (Hêbơrơ 4.12, 13), vì thế chúng ta hãy quay trở lại với Kinh thánh, và đừng hướng vào xã hội của chúng ta, y như Chúa chúng ta đã dạy vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét