Những khuôn mặt quanh thập tự giá
Ba Mươi Miếng Bạc –
Mathiơ 26:14-16
Có hai việc làm cho chúng ta phải bối rối về Giuđa. Thứ nhứt, tại sao ông ta đã làm những việc mà ông ta đã làm? Thứ hai, sau khi ông ta làm việc ấy, sao ông ta không cảm thấy tội lỗi chứ? Ông ta gian ác đến nỗi ông ta đã bán Chúa Jêsus để lấy ba mươi miếng bạc thôi sao! Thế rồi sau đó, ông ta cảm thấy hối hận để rồi phải tự tử.
Trải qua nhiều thế kỷ, có nhiều phản ứng khác nhau đối với câu chuyện nói tới ông ta. Có nhiều người thù ghét Giuđa vì những gì ông ta đã làm và gán ông ta cùng giai cấp với Hitler. Nhiều người khác thương hại ông ta, vì ngay thời điểm nhận chân sự việc, đúng là quá trễ không thể xóa bỏ được việc làm đại ác của mình được nữa. Một vài người xem ông ta là một vị anh hùng. Nhiều người khác vẫn thắc mắc sự công bằng của Đức Chúa Trời khi để cho một người gánh chịu nhiều tội lỗi vì sự chết của Chúa Jêsus.
Thực vậy, ông ta là một sự kín nhiệm. Không một sứ đồ nào khác lôi cuốn lý trí giống như Giuđa. Tất cả những người khác chúng ta có thể hiểu được — ngay cả Phierơ — nhưng Giuđa cứ mãi là một sự kín nhiệm được gói ghém ở trong chỗ rất khó hiểu. Điều gì đã khiến ông ta ra kẻ đáng khinh như thế chứ? Có phải ông ta quanh quẹo ngay từ lúc đầu? Chúa Jêsus đã nói gì khi Ngài phán rằng Giuđa đã bị “định cho phải hư mất” để Kinh Thánh được ứng nghiệm? Và Luca và Giăng đã nói gì khi họ cho rằng Satan đã nhập vào Giuđa? Nhiều thắc mắc như thế đã trêu kẻ có lý trí.
Phần cuối của câu chuyện
Có lẽ chỗ phải bắt đầu là phần cuối của câu chuyện. Lúc bấy giờ là sáng sớm ngày thứ Sáu tại thành Jerusalem — có khi là giữa nửa đêm và bình minh — và người Do thái đã xong việc với Chúa Jêsus. Họ đã có phiên tòa chiếu lệ với những bản án mang tính cách vu cáo cùng những kẻ làm chứng dối của họ. An-ne đã có một vòng với Chúa Jêsus và Cai-phe cũng thế. Cáo trạng của họ rất rõ ràng — người nầy là một kẻ phạm thượng đáng chết. Sự tụ tập của các cấp lãnh đạo tôn giáo được đề ra để bắt Chúa Jêsus giải sang cho Phi-lát, quan tổng đốc Lamã. Ông ấy mới là người có thể ra lịnh tử hình Chúa Jêsus.
Có một sự chuyển dịch, ồn ào, huyên náo khi cả nhóm di chuyển hướng đến pháp đình. Trong bóng tối, có một người, giờ đây bị lãng quên, đang quan sát, gương mặt ông ta căng thẳng lên, mắt ông ta sưng húp, đầu ông ta hơi cụp xuống. Đêm ấy quả là một đêm thật dài, dài nhất trong cả cuộc đời ông ta. Có bao nhiêu giờ đồng hồ đã trôi qua kể từ bữa ăn ấy trên cái phòng cao? Sáu, có thể là bảy, ai biết được? Sau khi ông ta rời đi, ông ta đi thẳng đến với các thầy cả thượng phẩm để thực hiện sự sắp xếp sau cùng. Thế rồi có một lối đi ngắn trong bóng tối băng qua Trũng Kít-rôn đi lên dốc của Núi Ôlive. Toàn bộ sự việc đã kéo dài không đầy 5 phút. Trong chỗ lờ mờ đó, một vài lời nói, một nụ hôn, một vài lời căm giận của Phierơ và nhiều người khác nữa, thế là Chúa Jêsus đã bị bắt rồi bị giải đi.
Trong hai bàn tay của Giuđa, ông ta cầm cái túi nhỏ chứa ba mươi miếng bạc. Ông ta còn áy náy đến nỗi chưa đếm túi tiền ấy nữa. Không một ai chú ý đến ông ta lúc ấy. Sự thể giống như ông ta còn là tin tức của ngày hôm qua vậy. Không một ai buồn nói tới một kẻ phản bội.
Ông ta đã chờ đợi qua cả đêm hôm ấy, cứ bám lấy rìa của đám đông, lắng nghe coi sự việc đã diễn ra thể nào. Chính xác thì ông ta trông đợi điều gì chứ? Không một ai dám chắc. Nhưng nếu lúc nửa đêm ông ta muốn nhìn thấy Chúa Jêsus chết đi, thì khi mặt trời mọc ông ta đã đổi ý của mình.
Những ký ức kia cứ bám riết lấy lý trí ông ta. Những việc Chúa Jêsus đã nói, giống như những câu nói đùa mà các sứ đồ thường hay nói, những câu chuyện mà Chúa Jêsus đã kể lại thật nhiều lần. Những hình ảnh nhỏ đã tự chúng tô điểm trong bóng tối tăm — nụ cười trên gương mặt đứa con gái của Giairu khi Chúa Jêsus làm cho nó sống lại từ kẻ chết, cái nhìn trên gương mặt của Phierơ khi ông đi bộ trên mặt biển và hình ảnh ấy cứ khuấy đảo ông luôn, hình ảnh 12 giỏ bánh đầy kia sau khi Chúa Jêsus cho hơn 5.000 người ăn. Ông ta có thể nhìn thấy hình ảnh ấy rất rõ ràng và lắng nghe mọi sự mà ký ức đã ghi nhận lấy thật nhiều việc.
Thế rồi tiếng đồn lan nhanh là Chúa Jêsus bị kết án tử hình. Ông ta không lấy làm lạ, song ông ta đã. Trong một phút đồng hồ, có một sự chấn động trong pháp đình và Giuđa nhìn thấy Chúa Jêsus khi Ngài bị giải sang cho Phi-lát. Ông ta không nhìn thấy rõ Ngài, chỉ thoang thoáng gương mặt Ngài ở một khoảng xa xa, song ông ta biết đấy là Chúa Jêsus.
Bị áp đảo. Đấy là từ duy nhứt phải sử dụng. Giuđa bị áp đảo với tư tưởng Chúa Jêsus sắp bị tử hình. Trong giây phút ấy, tư tưởng đó thoạt đến với ông như một tia chớp làm lóe mắt: Ông ta đã phạm một lỗi lầm rất nghiêm trọng trong cuộc đời của mình, một lỗi lầm nghiêm trọng đến nỗi ông ta phải tìm một phương thế nào đó để sửa cho ngay lại.
Với tư tưởng ấy đầy dẫy lý trí mình, ông ta cầm lấy cái túi tiền rồi tìm cách trả nó lại. Nhưng các thầy cả thượng phẩm đã cười nhạo ông ta. Họ chẳng còn cần đến ông ta hay tiền bạc của ông ta nữa. Họ đã có những gì họ mong muốn.
Trong nổi thất vọng ấy, Giuđa đã kêu la lên: “Tôi đã phạm tội bằng cách phản bội huyết vô tội”. Từng chữ ấy đều là sự thực cả. Ông ta đã phạm vào tội ấy; những gì ông ta đã làm là tội lỗi tệ hại nhất có thể tưởng tượng được; ông ta đã phản Chúa Jêsus, dù Ngài vô tội, là Đấng sắp sửa trả giá bằng huyết Ngài cho tội ác của Giuđa.
Với nổi thất vọng đó, ông ta đã ném số tiền lại vào trong đền thờ, những đồng tiền lăn tròn, kêu lên những tiếng leng keng khi chúng chạm xuống cái nền bằng đá kia. Khi Giuđa xây đi, 30 miếng bạc còn ở lại phía sau. Không những Giuđa đánh mất Chúa của mình, ông ta còn mất cả tiền bạc. Sau đó, ông ta còn mất mạng sống của mình nữa.
Về sự tự tử của ông ta, chẳng có điều gì cần phải nói tới. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng “hắn bỏ đi rồi tự treo cổ mà chết”. Đây là hành động sau cùng của một người không thể sống với chính mình và ký ức của những gì mình đã làm. Trong cái mỉa mai nhắm vào cái ngày thê thảm nầy, Giuđa đã chết trước khi Chúa Jêsus gục chết.
Giuđa đang ở đâu hôm nay?
Vậy thì, Giuđa đang ở đâu hôm nay? Có phải ông đang ở trên thiên đàng hay ông ta đang ở trong địa ngục? Kinh Thánh nói rất rõ ràng ở điểm nầy: Giuđa đang ở trong địa ngục. Trong Công Vụ các Sứ đồ 1:25, Phierơ đã nói tới Giuđa là kẻ bỏ chức vụ sứ đồ “đặng đi nơi của nó”. Sát nghĩa, câu nầy đọc là: “đến với chỗ riêng của nó”. “Chỗ riêng của nó” là địa ngục. Nếu thấy khó hiểu, hãy xem lời lẽ của Chúa Jêsus ở Giăng 6:70-71 khi Ngài phán:
“Ta há chẳng đã chọn các ngươi là mười hai sứ đồ sao? Mà một người trong các ngươi là quỉ! Vả, Ngài nói về Giu-đa con Si-môn Ích-ca-ri-ốt; vì chính hắn là một trong mười hai sứ đồ, sau sẽ phản Ngài”.
Ngài không nói cụ thể Giuđa là một con quỉ, nhưng Giuđa khi ấy (khoảng 1 năm trước khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá) đã hành động dưới ảnh hưởng của Satan.
Sau cùng, hãy lắng nghe Chúa Jêsus khi Ngài cầu nguyện trên phòng cao vào tối thứ Năm. Giuđa đã rời đi để lo chuyện sắp xếp sau cùng. Ngay khi ấy những tên lính đã tụ tập lại cho cuộc diễu hành lên Núi Ôlive. Hành động sau cùng tự nó sắp sửa phô diễn ra. Đồng thời, Chúa Jêsus đang cầu nguyện cho các môn đồ Ngài: “Đang khi Con còn ở với họ, Con gìn giữ họ, trừ đứa con của sự hư mất ra, thì trong đám họ không một người nào bị thất lạc, hầu cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm” (Giăng 17:12).
Giuđa đang ở trong địa ngục hôm nay. Ông ta đã ở đó cả 2.000 năm và ông ta sẽ ở đó cho đến đời đời. Ông ta đã trả toàn bộ cái giá cho tội ác phản bội Con Đức Chúa Trời.
Nếu có ai hỏi: “Phải chăng Giuđa đã đánh mất ơn cứu rỗi của mình?” Câu trả lời là “Không”. Ông ta đã không đánh mất ơn cứu rỗi vì ông ta chưa hề có nó. Bất cứ điều chi khác bạn có thể nói về ông ta, ông ta chưa bao giờ là một môn đồ của Đức Chúa Jêsus Christ theo cùng một ý nghĩa giống như các môn đồ khác. Ông ta chưa được cứu và rồi bị hư mất. Ông ta bị hư mất vì ông ta chưa hề được cứu trong chỗ thứ nhứt.
Nhưng sẽ có người thắc mắc: “Phải chăng Giuđa đi địa ngục vì ông ta đã tự tử?” Thắc mắc hay đấy, và câu trả lời là “không” một lần nữa. Tự tử là một tội, nhưng đấy chẳng phải là lý do để Giuđa đi địa ngục. Giuđa đi địa ngục vì ông ta chưa hề thực sự phó chính mình cho Đức Chúa Jêsus Christ. Sự phản bội của ông ta đã minh chứng cho sự việc ấy; sự ông ta tự tử chỉ đóng ấn số phận của ông ta mà thôi.
Một thắc mắc sau cùng: “Có phải Kinh Thánh nói rằng Giuđa đã ‘ăn năn’”? Những bản dịch xưa quả thật đã sử dụng từ ngữ ấy ở Mathiơ 27:3. Một sự dịch thuật chính xác hơn là “bị hối hận bắt lấy”. Mặc dù Giuđa bị sự sai lầm nơi những gì ông đã làm kẹp chặt lấy, ông ta không hề van xin ơn tha thứ. Có một thế giới khác biệt giữa hai sự việc ấy. Có nhiều người thực sự cảm thấy buồn rầu vì cớ tội lỗi, song họ không hề đến với Đức Chúa Trời và van xin ơn tha thứ bao giờ. Giuđa đã tìm cách tháo gỡ sự phản bội của mình, song sự việc đã quá trễ rồi. Tôi không nghi ngờ ông đã khóc lóc với những giọt nước mắt cay đắng lúc ông ta ném số tiền trở lại đền thờ. Nhưng sự hối hận của ông (dù cho có thành thật đi) thì cũng chẳng phải là sự ăn năn thật và nó không dẫn tới chỗ được tha thứ. Thay vì thế, nó dẫn tới chỗ phải tự tử, là minh chứng trọn vẹn rằng Giuđa đã chết như một người không được tha thứ.
Sự thể là như thế
Nhưng sự thể không luôn luôn theo cách ấy. Nếu chúng ta đi từ lúc bắt đầu, chúng ta thấy một loạt những điều đáng nhớ về Giuđa:
1. Cá nhân ông ta được Đức Chúa Jêsus Christ chọn là sứ đồ.
2. Ông ta đã lìa bỏ mọi sự để theo Chúa.
3. Ông ta đã dành ra 3 năm rưỡi đi dọc đi ngang xứ Israel với Đấng Christ.
4. Ông ta đã đích thân nhìn thấy nhiều phép lạ của Đấng Christ.
5. Ông ta đã nghe Đấng Christ ban ra mọi bài giảng nổi tiếng của Ngài.
6. Ông ta đã quan sát khi Đấng Christ chữa lành kẻ đau, làm sống lại kẻ chết và đuổi tà ma.
7. Ông ta, cùng với các sứ đồ khác, đã được sai đi ra rao giảng Tin Lành.
8. Ông ta là một trong các cấp lãnh đạo của nhóm sứ đồ.
9. Không một ai có thể hồ nghi ông về sự phản bội.
Trong giới hạn về kinh nghiệm, bất cứ điều chi bạn có thể nói về Giacơ, Phierơ và Giăng, bạn cũng có thể nói về Giuđa. Bất cứ đâu họ đi, ông cũng đi tới. Ông đã có mặt ở đó, luôn luôn ở bên cạnh Chúa Jêsus. Ông đã nghe hết mọi sự, đã nhìn thấy mọi sự, đã kinh nghiệm mọi sự. Tuy nhiên, khi bạn giải thích sự ông ta đào ngũ, bạn không thể nói ông ta thiếu kinh nghiệm hơn các vị sứ đồ khác.
Nếu có điều chi khác, ông ta là một trong các cấp lãnh đạo. Rốt lại, các vị sứ đồ khác đã chọn ông cho việc giữ lấy tiền bạc. Bạn không chọn một người để trao tiền bạc cho họ giữ mà bạn nghi ngại về lòng trung thành của họ được. Làm như thế là điên. Bạn chọn người tốt nhứt, người xứng đáng nhứt, người duy nhứt bạn biết mình có thể tin tưởng. Đấy là lý do tại sao họ đã chọn Giuđa.
“Giuđa, kẻ đã phản bội Ngài”
Mác đã viết như thế. Họ không hề, không bao giờ tưởng được rằng Giuđa có sự phản bội ở trong lòng ông ta. Rõ ràng, cho đến cuối cùng, họ đã thấy cách xử sự của ông ta còn cao hơn cả sự ngờ vực nữa. Bạn sẽ nghĩ nếu một người sống gian ác đủ để phản bội Chúa, điều đó sẽ thể hiện ra trên gương mặt của hắn ta, ở một điểm nào đó cái hầm phân ở bên trong sẽ sủi bọt ra nơi bề mặt. Song điều đó không hề xảy ra.
Lúc bấy giờ là năm 65SC. Ba mươi năm hơn đã trôi qua kể từ khi Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá. Mathiơ ngồi lại để viết sách Tin Lành của mình. Khi ông để chỗ liệt kê ra tên tuổi của các vị sứ đồ, ông bắt đầu “Phierơ, Giacơ, Giăng” rồi kế đó là những người khác. Giuđa nằm ở sau cùng, luôn luôn là vậy. Nhưng không phải chỉ có “Giuđa” thôi đâu, mà là “Giuđa, là kẻ đã phản Ngài”. Khi Mác viết sách Tin Lành của mình, thì cũng thế: “Giuđa, là kẻ đã phản Ngài”. Khi Luca viết sách Tin Lành mình, thì cũng y như thế: “Giuđa, là kẻ đã phản Ngài”. Rồi 30 năm sau đó, Giăng — lúc bấy giờ đã vào khoảng thập niên 80 hay thập niên 90 tuổi của ông — viết sách Tin Lành mình. Ông đã gọi ông ta: “Giuđa, là kẻ về sau đã phản Chúa”.
Sự thể cho thấy họ không hề chấp nhận những gì đã xảy ra. Khoảng thời gian không làm mờ đi tầm cỡ tội ác của ông ta. Đối với họ điều đó là cực kỳ tàn ác trong lúc họ tuổi già cũng y như lúc họ còn trẻ tuổi vậy.
Đôi khi họ gọi ông ta là “Giuđa, là một trong 12 môn đồ”, nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết ông ta đã có với Đấng Christ. Đôi khi lại là “Giuđa, là kẻ đã cùng ăn với Ngài”, nhấn mạnh ông ta đã nhảy ra khỏi mối dây tương giao ấy. Ăn với một người bạn và rồi phản bội người — làm sao có được sự ấy chứ?
Ông ta là kẻ biết nhiều thứ, là kẻ đã nhìn thấy nhiều điều, là kẻ đã kinh nghiệm Chúa Jêsus thật gần gũi và riêng tư, làm sao một người như thế lại phản thùng được chứ?
Từ tiềm năng đến khả năng có thật
Trước khi chúng ta cố gắng giải đáp thắc mắc ấy, chúng ta hãy suy gẫm lại những gì Chúa Jêsus đã nhìn biết và những gì Giuđa đã biết vào lúc ban đầu. Khi Chúa Jêsus kêu gọi Giuđa làm sứ đồ, có phải Ngài biết rõ những gì Giuđa sẽ làm không? Câu trả lời phải là “Đúng”. Chúa Jêsus vốn biết rõ ngay từ đầu rằng Giuđa sẽ phản Ngài. Rốt lại, Ngài là Con của Đức Chúa Trời.
Hãy xoay vấn đề lại xem. Khi Giuđa đáp ứng lại lời kêu gọi của Đấng Christ, có phải ông ta tham gia vào nhóm của Chúa với dự tính trở thành một kẻ phản bội không? Câu trả lời phải là “không”. Mọi bằng chứng chỉ theo hướng đó. Từ mọi điều chúng ta nhìn biết, Giuđa phải là một môn đồ thành thật cũng như bao nhiêu người khác thôi … ngay từ đầu. Thật vậy, chúng ta có thể cho rằng Giuđa đã nhìn thấy nơi Chúa Jêsus nguồn hy vọng tràn trề cho dân Israel. Chúng ta biết từ Giăng 6 rằng đấy là cách mà người dân bình thường đã nhìn xem Chúa Jêsus — nghĩa là, như một vị vua hay làm phép lạ, vua nầy sẽ giúp họ cất bỏ cái ách của Rôma. Đâu lẽ nào lại là bất thường nếu có ai trong hàng sứ đồ chia sẻ chính sự trông mong đó? Thật vậy, sẽ không là bất thường nếu họ không chia sẻ kìa? Thật là dễ tin việc tham gia của Giuđa với Chúa Jêsus là một sự bùng nổ của lòng sốt sắng ghê gớm lắm, thế rồi sau cùng ông ta tìm gặp một người mà mình đi theo cách dè dặt. Chuổi phép lạ lớn lao, những bài giảng long trọng, những lần trao đổi tư riêng, những lần đối mặt công khai với hàng chuyên gia tôn giáo sẽ chỉ góp phần làm cho nổi lên những cảm xúc ấy.
Chúng ta không thể nói chính xác ở chỗ nào, hay làm thế nào hoặc lý do tại sao những cảm xúc giận dữ và thất vọng bắt đầu chiếm lấy tấm lòng của Giuđa. Chắc chắn chúng đang chi phối (dù các sứ đồ khác không lưu ý) cả năm trước khi Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự. Những hột giống đã có ở đó ngay từ buổi ban đầu. Nhưng nói như thế không có ý nói rằng ông ta tham gia với Chúa Jêsus với dự tính phản bội Ngài đâu. Tại sao ông lại chờ đến 3 năm rưỡi chứ? Một người khôn khéo sẽ tìm (hay tạo ra) nhiều cơ hội để bán vị lãnh tụ của mình.
Cái mà chúng ta có thể nói nhiều nhất là điều nầy. Giuđa là một kẻ phản bội có tiềm năng ngay lúc ban đầu. Những hoàn cảnh chắc chắn đã đưa đẩy ông trở thành một kẻ phản bội thực sự. Ông ta không hề dự tính mọi việc cho đến cuối cùng giống như chúng đã xảy có không làm cho tội lỗi của ông ta suy giảm đi đâu. Nó chỉ làm nổi bật thảm họa của đời sống ông ta mà thôi.
Mô tả sơ lược về nhân cách
Nếu chúng ta muốn có một mô tả sơ lược về nhân cách của Giuđa trên cơ sở bản tường trình trong Kinh Thánh, thì có lẽ là một số việc như sau:
Tích cực Tiêu cực
Cẩn thận Dối gạt
Trung thành Tinh thần ôn hòa
Một nhà tổ chức khéo Nông cạn
Một vận động viên trong toàn đội Tham lam
Đáng tin cậy Một tay nói giỏi
Thuyết phục Bóng bẩy
Phần thú vị nhất trong toàn bộ mô tả kia, ấy là các vị sứ đồ khác rõ ràng đã nhìn thấy chỉ có mặt tích cực nơi Giuđa. Cho tới chừng họ nhìn lại sự việc thì họ mới nhận ra các mặt tiêu cực. Trước khi ông ta phản bội Chúa Jêsus, ông ta trông rất tốt cũng như bao người khác còn lại, mà kỳ thực trông ông còn tốt nhứt nữa kìa. Theo ánh sáng đó, chúng ta hãy lưu ý phần tường trình thêm một lần nữa đi: Chẳng có ai nghi ngờ Giuđa hết. Không một ai cả.
Thắc mắc quan trọng
Sau cùng, chúng ta đến với thắc mắc tối quan trọng đây. Tại sao Giuđa làm điều đó? Thế lực nào đã khiến ông phản bội Chúa của mình? Trải qua nhiều thế kỷ, những đầu óc lỗi lạc đã suy gẫm về câu hỏi ấy. Nếu bạn muốn có một nghiên cứu đầy lý thú, hãy bước vào thư viện của trường thần học, rồi đọc kỹ về Giuđa. Bạn sẽ khám phá ra cả danh mục nhiều lý thuyết rất rối rắm. Các trước giả Tin Lành hiến cho chúng ta một vài manh mối. Ấy chính họ cũng không hề biết đâu là câu trả lời. Khi Giuđa tự tử trong vài giờ đồng hồ sau khi phản Ngài, chúng ta không có câu nói nào cung ứng mặt câu chuyện của ông. Vì lẽ đó, chúng ta cần phải suy gẫm về những động lực của ông
Ba lý thuyết dường như luôn có sẵn:
1. Ông ta phản bội Chúa Jêsus là vì tiền bạc. Lý thuyết nầy cho rằng khi chúng ta biết Giuđa là một tên trộm (Giăng 12:6), vì thế tham lam đóng một vai trò trong quyết định của ông ta. Nan đề duy nhứt với lý thuyết nầy, ấy là 30 miếng bạc không phải là một số tiền lớn. Nếu tánh tham là động lực, ông ta đang có một số tiền nhỏ không chỉ ra hết rắc rối của ông ta.
2. Ông ta phản bội Chúa Jêsus vì ông ta bị vỡ mộng. Có lẽ đây là lý thuyết được lòng người nhất. Nó dựa trên sự thực có nhiều người xem Chúa Jêsus là một loại Mêsi chính trị, Ngài sẽ lãnh đạo xứ sở trong việc lật đổ cái ách của Rôma. Giăng 6:14-15 ám chỉ đến điều nầy khi nhắc tới đám dân đông họ “có ý đến ép Ngài để tôn làm vua”.
Lý thuyết nầy cho rằng Giuđa đã dự vào một sự sốt sắng đang xảy có nầy. Ngay lúc đầu, khi Chúa Jêsus càng được lòng dân, chắc chắn Ngài đã được tung hô nhiệt liệt rồi. Song khi thời gian trôi qua, và sự chống đối tăng lên, thì rõ ràng là Chúa Jêsus sẽ bị kết án tử hình. Chính mình Chúa Jêsus đã nói trước cái chết của mình rất nhiều lần — một sự thực mà các môn đồ không thể hiểu được. Ngay cả việc đọc các sách Tin Lành cũng vậy, rõ ràng là âm điệu chức vụ của Chúa Jêsus đã thay đổi khi Ngài càng tiếp cận với chuyến đi sau cùng lên thành Jerusalem. Mọi sự cổ vũ của đám dân đông trước đó đã qua hết rồi. Chúng được thay thế bằng những đám mây chống đối tụ tập lại và sấm sét về cái chết bạo hành ở đàng xa kia. Chúa Jêsus vốn biết rõ điều chi sắp xảy đến và cứ hướng mặt Ngài bền chắc về thành Jerusalem. Mọi sự Ngài đã làm trong mấy tháng sau cùng đó đã được thực thi dưới cái bóng đang trải ra của thập tự giá.
Nếu sự thực Giuđa đã xem Chúa Jêsus là một Mêsi chính trị, thì sự thay đổi trong chức vụ của Chúa Jêsus sẽ gây thất vọng cực kỳ. Trong trường hợp đó, mỗi lần nhắc tới cái chết sẽ bị coi là một dấu hiệu yếu đuối và là công nhận sự thất bại. Mọi lời lẽ nói tới “vương quốc ta không thuộc về thế gian nầy” sẽ chẳng là chi hết trừ ra sự thoái thác trách nhiệm. Giuđa không muốn một vương quốc trong đời hầu đến; ông ta muốn một vương quốc ngay ở đây và ngay bây giờ.
Vì thế có khả năng Giuđa — bị tác động giống như ông bị tác động bởi tánh tham lam và tham vọng — rồi bị lèo lái bởi cơn giận phát sinh nơi thất bại của Chúa Jêsus không hoàn tất được sứ mệnh của mình — đã phản bội Ngài vì ông ta đã bị vỡ mộng rất trầm trọng.
Có khả năng Giuđa là một loại “vận động viên có triễn vọng thành công” ông ta thích là một kẻ chiến thắng. Ông ta đã ở với Chúa Jêsus khi ông ta trông nhơn đức lắm, nhưng ông ta phải té ngã khi mọi việc dường như trở nên bất lợi rồi. Trong trường hợp đó, sự phản bội của ông là một phương thức thoát ra khỏi bên thua trận mà bước theo bên thắng trận.
Cũng có khả năng Giuđa ở lại với Chúa Jêsus bao lâu ông ta nghĩ rằng điều đó sẽ tốt cho cá nhân ông. Rốt lại, chúng ta biết các môn đồ ưa tranh luận giữa vòng họ xem ai là lớn nhất khi Đấng Christ dựng nước của Ngài lên. Một người có thể hình dung ra Giuđa đang rất năng động trong cuộc tranh cãi ấy.
Không may, từ nhận định quá con người, sự đóng đinh trên thập tự giá không phải là một động lực cho sự nghiệp cao cả đâu. Bị đóng đinh trên thập tự giá là chẳng còn phương thế nào nữa để thu phục bàn bè và ảnh hưởng trên dân chúng. Đối với Giuđa, Chúa Jêsus dường như là một kẻ thua thiệt rồi.
Nhìn theo ánh sáng ấy, sự phản bội của Giuđa nắm lấy một ánh sáng mới mẻ. Có lẽ trong sự giận dữ và thất vọng của mình, ông ta chỉ làm thay những gì mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẽ làm — tìm kiếm Nhân Vật Số 1.
3. Ông ta đã phản bội Chúa Jêsus vì ông lo sợ. Lý thuyết nầy cho rằng ông ta đã từng nhìn thấy bàn tay viết trên tường, ông ta đến gặp các thầy cả thượng phẩm với kế hoạch nhỏ của ông ta hầu giải cứu riêng mình ông ta thôi. Tại sao không chứ? Lúc bấy giờ rõ ràng là các cấp lãnh đạo tôn giáo đang nhắm mũi dùi vào Chúa Jêsus. Những ngày của Ngài đã được đếm hết rồi. Chính mình Chúa Jêsus đã nói tới cái chết của chính Ngài rất nhiều lần. Nhưng một khi họ bắt lấy Chúa Jêsus, điều chi sẽ xảy ra cho những người đi theo Ngài chứ? Một vài điều khả thi thoạt đến trong trí, chẳng một ai trong số họ lấy làm vui vẻ nữa. Giuđa cùng những người khác bản thân họ sẽ bị bắt rồi bị xét xử cùng với Chúa Jêsus. Và đấy là cách mà mọi việc sẽ xảy ra, hết thảy họ sẽ bị kết án tử hình. Vì vậy, Giuđa đã phản bội Chúa Jêsus chỉ để tự cứu lấy mình.
Tất cả các lý thuyết ấy đều có ý nghĩa của nó, và tất cả ba lý thuyết nầy đang góp phần cho câu trả lời. Sau khi mọi bàn bạc đã xong, chúng ta vẫn không dám chắc lý do tại sao Giuđa đã làm những điều mà ông ta đã làm. Nhưng điều nầy là chắc nhất đây: Khi Giuđa phản bội Chúa Jêsus, ông ta đã phạm phải lầm lỗi to lớn nhất mà bất cứ người nào cũng dám phạm phải.
Tội lỗi bị kết án
Theo một ý nghĩa, các động lực của ông ta không phải là vấn đề. Lý do tại sao ông ta đã làm những gì ông ta đã làm có lẽ luôn luôn là một điều kín nhiệm đối với chúng ta. Nhưng bản tường trình ghi rõ về những gì ông ta đã làm:
1. Ông ta suy nghĩ dựng lên chương trình phản bội Chúa Jêsus.
2. Ông ta tiếp cận mấy thầy cả thượng phẩm với ý tưởng đó.
3. Ông ta thực hiện công việc.
4. Ông ta đã cầm lấy số tiền.
5. Ông ta rời bữa Tiệc Ly kia để đi gặp mấy tên lính.
6. Ông ta dẫn binh lính đến chỗ Chúa Jêsus.
7. Ông ta đã hôn gò má Chúa Jêsus.
Nói ngắn gọn, ông ta đã nghĩ suy việc ấy, ông ta đã hoạch định các chi tiết và ông ta thực thi chương trình của mình thật sát nút. Ông ta có ý phản bội Chúa Jêsus và đấy chính xác là những điều mà ông ta đã làm.
“Sự ngươi làm hãy làm mau đi”
Chúng ta hãy vặn đồng hồ chạy ngược lại một vài giờ đi. Lúc bấy giờ là 9:45 tối. Chúa Jêsus mới vừa ăn xong Lễ Vượt Qua với các môn đồ Ngài. Tâm trạng thật buồn rầu và cứ trầm ngâm mãi. Một ý thức rắc rối sắp xảy đến đang treo lơ lửng trên khoảng không. Một hay hai trong số những người ở đó đang trao đổi trong thầm thì. Phần còn lại đang quan sát Chúa Jêsus.
Thình lình Ngài đưa ra một lời công bố làm cho choáng váng đến tận xương tủy: “Một người trong các ngươi sẽ phản ta”. Hỗn loạn, sốc, huyên náo, vô tín, hoang mang. “Sự ấy không thể được đâu. Ai nỡ làm một việc như thế chứ? Ngài nói gì vậy? Chúng tôi không bao giờ phản Ngài đâu, Chúa ơi”.
Song vẻ mặt của Chúa Jêsus đã nói cho họ biết từng lời của Ngài rất có ý nghĩa. Mọi sự trầm hẳn xuống. Thế rồi có câu hỏi sâu sắc hơn: “Lạy Chúa, có phải tôi không?” Từng người đã đưa ra câu hỏi. Không một ai dám chắc hết.
Rồi có lời phán nầy: “Ấy là kẻ mà ta trao cho miếng bánh ta sẽ nhúng đây”. Họ vẫn chưa hiểu. Chúa Jêsus cầm lấy bánh, nhúng một miếng rồi trao nó cho Giuđa với lời nầy: “Sự ngươi làm hãy làm mau đi” (Giăng 13:27)
Những nhà giải kinh cho chúng ta biết rằng với biểu tượng của lễ Vượt Qua, thứ nước chấm có rượu tiêu biểu cho bông trái của Đất Hứa. Khi Chúa Jêsus trao bánh cho Giuđa, không những Ngài xác định ông ta là kẻ phản bội, mà Ngài còn đưa ra lời kêu gọi sau cùng bảo Giuđa phải đổi ý định của mình đi.
“Giuđa ơi, ta biết điều chi có ở trong lòng ngươi. Giờ phút quyết định đã đến rồi. Ngươi có thể phản ta hay ngươi có thể theo ta. Song ngươi phải quyết định ngay lúc bây giờ thôi. Bất cứ điều chi người sắp làm, hãy làm đi ngay bây giờ”. Đấy là sự ban cho ân điển lần sau cùng của Chúa Jêsus cho Giuđa.
Giuđa cầm lấy bánh và ngay lập tức rời khỏi căn phòng để thực hiện mọi sự sắp xếp của mình với mấy tên lính. Giăng nói cho chúng ta biết “liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người” (13:27). Lúc ấy ông nói thêm: “khi ấy đã tối” (13:30). Giuđa rời khỏi Sự Sáng của Thế Gian rồi băng mình vào đêm tối, những bước chân ông đã được chúa của sự tối tăm dẫn dắt.
Nụ hôn chết chóc
Sau đó một lát, Chúa Jêsus rời khỏi đó cùng với các môn đồ và lên đường đến vườn Ghết-sê-ma-nê. Cùng lúc ấy Giuđa gặp gỡ mấy tên lính rồi sắp đặt dẫn họ đến tại chỗ hẹn. Khi ấy trời đã tối và ông ta không muốn Chúa Jêsus vuột mất trong lúc lộn xộn, ông ta sẽ dành cho Ngài một nụ hôn chào đón. Sẽ chẳng có một sự lộn xộn nào khả thi tại nơi ấy.
Các trước giả Tin Lành thuật lại câu chuyện rất đơn sơ. Mấy tên lính đến, Giuđa hôn Chúa Jêsus, họ bắt Ngài rồi giải đi. Nhưng Giăng nói thêm một chút. Khi mấy tên lính đến trước, Chúa Jêsus phán với họ rõ ràng trước khi chúng có thể nói ra chuyện gì. Đang khi Chúa Jêsus nói với mấy tên lính, Giăng đã thêm một chi tiết nhỏ nầy: “Giu-đa là kẻ phản Ngài cũng đứng đó với họ” (Giăng 18:5).
Có một thế giới đầy ý nghĩa trong cụm từ ngắn ngủi ấy. Giuđa đã đứng hẳn qua một bên. Ông ta không những đứng đó “với họ” theo cách thuộc thể. Giờ đây ông ta còn đứng “với họ” về mặt thuộc linh nữa. Sự phản bội của ông ta như thế là rõ ràng, công khai và không thể chối cãi chi hết.
Sau cùng, giờ phút đã đến cho nụ hôn. Giuđa bước tới phía trước rồi nói “Thưa Thầy!” rồi hôn Ngài. Từ ngữ Hylạp nói tới nụ hôn theo cách nồng nhiệt, thật tình cảm. Đó là nụ hôn nồng ấm mà một người chỉ dành cho bạn hữu yêu dấu mình. Với một nụ hôn như vậy, Giuđa đã phản bội Con của Đức Chúa Trời.
Có một việc về hành động nầy rất ghê tởm và đáng ghét. Phản bội Chúa Jêsus là tồi tệ rồi, nhưng phản bội Ngài với một nụ hôn tình cảm là tội ác khôn xiết kể. Đây là nụ hôn trên hết mọi sự khác đã kiếm cho Giuđa sự tán thành của Cơ đốc nhân xuyên suốt bao thế kỷ. Đó là “việc làm dại dột bám lấy cái tên của ông giống như cái áo dơ bẩn vậy”.
Có phải Giuđa đang sống hôm nay không?
Khi bạn đã thông vấn đề nầy rồi, Giuđa đáng phải là một người tốt hơn hay một người tồi tệ hơn!?! Nếu ông ta là người tốt hơn, ông ta sẽ không làm một việc gian ác dường ấy. Còn nếu ông ta tệ hại hơn, ông ta sẽ không cảm thấy hối hận như thế. Như câu chuyện cho thấy, ông ta đã tồi tệ đủ để làm ra sự việc ấy và tốt đủ để không thể mang lấy xấu hổ về việc đó. Chúng ta sẽ hoàn toàn phạm sai lầm nếu chúng ta xếp loại Giuđa cùng với một kẻ như Adolph Hitler. Nếu chúng ta nghĩ Giuđa giống như Hitler, thế thì chúng ta bỏ sót bài học về đời sống của ông ta.
Những gì đã xảy ra cho ông ta có thể xảy ra cho tôi. Những gì ông ta đã làm, tôi có thể làm. Nếu tôi nghĩ khác đi, thế thì tôi đã bỏ sót mục tiêu của câu chuyện nầy. Giuđa giống với chúng ta nhiều lắm và chúng ta cũng giống với ông ta nhiều như thế. Thực vậy, chúng ta càng sống theo tôn giáo, chúng ta càng trở nên giống như Giuđa. Rốt lại, bạn không thể tiếp thu nhiều về tôn giáo hơn là một sứ đồ. Ông ta đã “ở trong” y như bất kỳ người nào có thể ở rồi.
Ấy thế mà ông ta đã phản bội Chúa.
Có phải Giuđa còn sống hôm nay không? Không, nhưng tinh thần của ông ta vẫn còn sống đấy. Nó sống trong tất cả những ai đang chơi trò chơi tôn giáo. Nó sống trong những ai đến với nhà thờ vì mọi điều họ có thể nhận được từ nhà thờ đó. Nó sống trong hết thảy những người nào giả vờ phục theo Đức Chúa Jêsus Christ trong khi thực sự tận đáy lòng họ chẳng có chi hết. Nó sống trong tất cả những ai chỉ nếm trải những động thái Cơ đốc. Nó sống trong những người nào đến với nhà thờ, dâng hiến tiền bạc, noi theo những luật lệ, và thế mà chẳng kính mến Chúa Jêsus.
Đây là phần đáng ngạc nhiên. Có phải bạn biết người nào là một Giuđa trong nhà thờ nầy không? Tôi đây. Là Mục sư quản nhiệm, tôi đứng trong phép loại suy gần gũi nhứt so với chỗ mà Giuđa đã đứng. Có người nói: “Mục sư ơi, chắc chắn không phải ông đâu”. Đấy là điều mà họ đã nói về Giuđa. Hãy nhớ, cú sốc phản bội của Giuđa, ấy là ông ta trông rất nhơn đức ở bề ngoài. Nếu tôi là Mục sư của bạn, có thể thuật lại cho bạn câu chuyện nầy mà không dò xét tấm lòng của chính tôi, thế thì tôi đã bỏ sót mục tiêu rồi.
Cái giá của một nô lệ
Một trong những phần mỉa mai trong câu chuyện nầy, ấy là Giuđa đã không nhận được nhiều tiền bạc đâu. Vào thời buổi ấy, 30 miếng bạc là cái giá của một nô lệ. Hãy suy nghĩ xem. Ông ta đã phản bội Con của Đức Chúa Trời để lấy cái giá của một nô lệ. Nói khác đi, Giuđa đi địa ngục và cái giá cho tấm vé của ông ta là 30 miếng bạc.
Một số thắc mắc
Bạn nhận được gì khi bán Con của Đức Chúa Trời?
Bạn sẽ phản bội Ngài là vì tiền bạc chăng?
Bạn sẽ phản bội Ngài để lấy một việc làm khá hơn chăng?
Bạn sẽ phản bội Ngài chỉ để ôm lấy công việc mà bạn đang có sao?
Bạn sẽ phản bội Ngài để cứu lấy bản thân mình sao?
Bạn sẽ phản bội Ngài vì Ngài không sống theo những điều bạn trông mong sao?
Bạn sẽ phản bội Ngài vì bạn tưởng Ngài sẽ để cho bạn bị hạ thấp sao?
Bạn sẽ phản bội Ngài nếu bạn nghĩ bạn sẽ tìm được ơn của hạng người quan trọng sao?
Giuđa dành cho chúng ta một sự ưu ái nếu câu chuyện của ông ta khiến cho chúng ta phải suy nghĩ lại sự cam kết cơ bản của chúng ta đối với Đức Chúa Jêsus Christ. Bạn tự nhận mình là một Cơ đốc nhân. Nhưng có phải bạn là một môn đồ thật hay bạn chỉ có những động thái bề ngoài? Có phải bạn là kẻ giả vờ hay là một tín đồ thật? Có phải bạn thực sự đã xây khỏi tội lỗi mình và đã tin cậy Đức Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa? Có phải bạn là một bạn hữu tùy thời của Cứu Chúa?
Có những thắc mắc dễ hỏi hơn là dễ trả lời. Tôi yêu cầu bạn đừng xem nhẹ chúng. Bài học chính từ đời sống của Giuđa là hư mất trừ phi ít nhất chúng ta tự hỏi mình những câu hỏi ấy.
Rốt lại, nếu một người có thể trở thành một sứ đồ của Đấng Christ mà vẫn bị hư mất, bạn thì sao và tôi sẽ như thế nào đây? Có lẽ chúng ta sẽ kết luận vấn đề theo cách nầy. Một sứ đồ bị hư mất, để không một ai dám làm liều. Mười một người đã được cứu, để không ai sẽ thất vọng. Cuối cùng, hầu hết chúng ta là những người tự nhận mình là Cơ đốc nhân sẽ dò xét tấm lòng mình rồi kết luận rằng “Phải”, mặc dù chúng ta làm buồn lòng Ngài trong nhiều cách thức, chúng ta vẫn kính mến Ngài và xưng Ngài là Cứu Chúa của chúng ta. Phải đúng như vậy đấy. Câu chuyện của Giuđa có ở trong Kinh Thánh vì nhiều lý do, ít nhất là dẫu thế nào thì chúng ta cũng phải đưa ra câu hỏi mà các vị sứ đồ khác đã đưa ra trong cái đêm số phận kia:
“Lạy Chúa, có phải tôi không?”
Vẫn như xưa kia, con người đã định giá cho mình.
Giuđa đã bán chính mình chớ không phải Đấng Christ, để lấy 30 miếng bạc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét