Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

Giăng 20:24-29: "Vị Sứ Đồ Không Chịu Tin: Đấng Christ phán về những ước mơ bị tan vỡ"



Những khuôn mặt quanh thập tự giá
Vị Sứ Đồ Không Chịu Tin: Đấng Christ phán về những ước mơ bị tan vỡ
Giăng 20:24-29
Bạn có tin phép lạ không? Bạn có tin vào những hành động thật thà nhơn từ theo một hình thức nào đấy của Đức Chúa Trời không? Đấy là một câu hỏi rất hay cần phải đưa ra vào ngày Chúa nhựt phục sinh. Tôi nghĩ, hầu hết chúng ta đều sẽ trả lời ngay: “Có chứ, tôi tin phép lạ đấy”. Và tôi cũng sẽ nói y như thế. Nếu tôi hỏi bạn đã từng nhìn thấy bao nhiêu phép lạ rồi, có lẽ bạn sẽ đáp: “Ồ, tôi không biết nữa. Tôi nghĩ những gì thuộc về cuộc sống đều là phép lạ cả”. Hay bạn sẽ nói: “Tôi đã đóng xong thuế thu nhập của mình tối qua và đấy là phép lạ”.
Cả hai việc ấy đều là trường hợp của từ Anh ngữ “miracle” (phép lạ), nhưng đấy chưa chính xác là điều tôi muốn nói tới khi tôi nói: “Bạn có tin phép lạ không?” Tôi không nghĩ tới các biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc sống hay những dự án khó khăn sau cùng đã hoàn tất. Bởi từ “miracle” tôi muốn nói tới những sự cố khả thi ngược lại với tiềm năng của con người, nhưng thứ ấy không lý giải theo cách tự nhiên được. Bạn nói: “Ồ, loại phép lạ ấy à. Được, tôi tin vào loại phép lạ đó”. Nhưng giờ đây bạn không chắc lắm đâu. Qua cách xác định, loại phép lạ ấy không xảy ra từng ngày được. Thực vậy, chúng rất hiếm xảy ra. Khi chúng xảy ra, thật khó mà tin nơi chúng được — một phần vì chúng không thường xảy ra và một phần vì chúng ta không thể lý giải chúng được. Ngay cả trong Kinh Thánh, loại phép lạ ấy không phải là loại xảy ra thường nhựt đâu.
Những ngôi mộ trống bằng bạc nho nhỏ
Sự sống lại của Chúa Jêsus chính là loại phép lạ đó. Sự sống lại ấy hoàn toàn không thể lý giải được bởi bất cứ người nào hay bất kỳ phương tiện thiên nhiên nào. Có thể đấy là lý do tại sao chúng ta không nói nhiều về sự ấy. Chúng ta không dám chắc làm sao nó xảy ra được. Chúng ta có thể hiểu được việc đóng đinh trên thập tự giá; còn sự sống lại là một vấn đề khác. Đây là minh chứng: Có nhiều người mang những cây thập tự bằng bạc quanh cổ của họ. Bạn không thấy có ai mang ngôi mộ trống bằng bạc nho nhỏ kia đâu.
Vì vậy, tôi hỏi lại một lần nữa: Bạn có tin phép lạ không? Đặc biệt là điều nầy, bạn có tin vào phép lạ lớn lao nhứt trong mọi phép lạ — sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ không? Trong trường hợp bạn nghĩ bạn phải trả lời “Có” chỉ vì bạn phải có mặt trong Hội Thánh, hãy để cho lý trí bạn thư thả một chút xem. Nếu bạn đáp “không” hay “tôi không chắc”, bạn đang ở trong một hội tốt đó. Có nhiều người ngày nay họ không dám chắc họ có tin hay không nữa. Và có nhiều người vào ngày Chúa nhựt phục sinh đầu tiên họ cũng không dám chắc nữa. Những người như Phierơ, Giacơ, Giăng, Mathiơ, Ba-thê-lê-my, Simôn người Xê-lốt, và một người có tên đồng nghĩa với nghi ngờ — Thôma. Thôma nghi ngờ.
Trong sứ điệp nầy, tôi muốn quan sát kỹ hơn vào Thôma, vì tôi nghĩ ông ấy có tánh phát biểu quá nhanh. Khi tôi nghiên cứu câu chuyện nói về ông, tánh nghi ngờ của ông dường như rất dễ hiểu đối với tôi. Tôi nghĩ một sự xem xét các bằng chứng sẽ giúp cho chúng ta nhìn thấy ông theo một ánh sáng khác.
I. Nhân vật
A. Ông ấy là một người sanh đôi.
Kinh Thánh không nói nhiều cho chúng ta biết về Thôma. Chúng ta không biết điều chi về nơi ông xuất thân hay ông đã làm gì trước khi trở thành một môn đồ. Chúng ta có ít manh mối về gia đình của ông ấy. Khi bạn đọc về Thôma, ông ấy thường được giới thiệu theo cách nầy — "Thôma, người còn được gọi là Đi-đim”. Giờ đây, điều nầy chẳng có nói gì quan trọng với chúng ta, nhưng các độc giả nguyên thủy đều công nhận điều đó ngay lập tức. Tên “Thôma” ra từ chữ Aram có ý nói tới “sanh đôi”. Và Đi-đim là từ Hylạp nói tới “sanh đôi”. Thôma có một người anh hay chị sanh đôi, và “Twin” (sanh đôi) là tên riêng của ông. Trong Hội Thánh đầu tiên, đã có một sự suy đoán về ai là người sanh đôi cùng với ông. Có người cho là Mathiơ, song chẳng ai biết chắc cả.
B. Ông có lòng dạn dĩ lắm.
Thật là không hay lắm khi Thôma được người ta nhớ tới với một ánh sáng rất tiêu cực. Có nhiều điều về nhân vật nầy hơn là chỉ có nghi ngờ. Những bước đầu tiên của ông bước vào bối cảnh lịch sử của Kinh Thánh nằm ở Giăng 11. Laxarơ đã chết tại thành Bêthany — một vùng ngoại ô của thành Jerusalem. Chúa Jêsus cùng các môn đồ đang có mặt trong khu vực thành Giê-ri-cô khi họ hay tin đó. Khi Chúa Jêsus quyết định đi đến thành Bêthany, các môn đồ Ngài nhắc cho Ngài nhớ lần cuối cùng Ngài đến gần thành Jerusalem, các cấp lãnh đạo đã tìm cách ném đá Ngài cho tới chết. Trở lại đó chẳng khác gì là tự tử. Dầu sao thì Chúa Jêsus cũng quyết định phải tới đó. Nhưng các môn đồ chẳng lấy làm thuyết phục lắm. Ở điểm đó, Thôma vụt dậy mà nói: “Chúng ta cũng hãy đi tới đó đặng chết với Ngài!” (Giăng 11:16). Đây là một câu nói ngắn gọn tỏ ra lòng dạn dĩ lớn lắm. Thôma đồng ý các cấp lãnh đạo người Do thái có lẽ sẽ giết Chúa Jêsus nếu Ngài trở lại thành Jerusalem. Những biến cố không bao lâu nữa sẽ minh chứng ông là chính xác. Nhưng bạn có thể nói gì về nhân vật chổi dậy nói: “Nếu họ giết Ngài, họ cũng sẽ phải giết tôi nữa đó?” Một con người chững chạc hay nói như thế. Có tình cảm, lòng trung thành, thất vọng, hy sinh và đầu phục hoàn toàn trong câu nói đó. Có thể là Thôma hiểu rõ hơn bất kỳ môn đồ nào khác điều chi sắp sửa xảy đến. Và câu nói can đảm ấy — nếu bạn suy nghĩ đến nó — có thể giải thích những điều hồ nghi của ông sau đó.
C. Ông không chấp nhận những câu trả lời dễ dàng.
Sách Tin Lành Giăng nhắc tới Thôma vào thời điểm trước khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Vào đêm thứ Năm trên căn phòng cao kia. Chúa Jêsus vừa rửa chơn các môn đồ xong, Ngài ban cho họ mạng lịnh phải yêu thương nhau. Giu-đa rời căn phòng để nhuốm vào công việc bẩn thỉu kia. Phần còn lại trong các môn đồ tụ tập lại quanh Chúa của họ, nhìn biết sự cuối cùng không còn xa xôi nữa. Đối với họ — hạng người trung thành kia đã đứng với Ngài trong giờ thử thách của Ngài — Chúa Jêsus phán:
“Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; bằng chẳng vậy, ta đã nói cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi, và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó. Các ngươi biết ta đi đâu, và biết đường đi nữa” (Giăng 14:1-4).
Thôma đứng yên lắng nghe, chăm chú, cẩn thận lắm. Cách nói về sự đến rồi đi nầy là quá nhiều đối với ông. Dường như có gì đó mập mờ và bí nhiệm nữa. Trong giây phút thành thật nhất ông thốt ra: “Lạy Chúa, chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu; làm sao biết đường được?” (Giăng 14:5). Đấy là lời lẽ của một con người hoàn toàn thành thật. Phần còn lại các môn đồ chỉ bị bối rối, nhưng chỉ có Thôma là dám nói ra. Hết thảy chúng ta đều biết rõ hạng người như thế — nếu họ không hiểu, họ sẽ không chịu cho qua đâu. Họ cứ hỏi luôn cho tới chừng nào sự việc đã ra rõ ràng mới thôi. Đấy là Thôma. Và đấy là chìa khóa thứ hai cho thấy nhân cách của ông. Ông là một nhà tư tưởng độc lập, một người hay suy nghĩ, không dễ rối loạn đâu. Ông sẽ không đưa ra lời tuyên xưng đức tin trừ phi ông đã tin chắc đấy là sự thực. Hãy để cho những người khác có thứ đức tin dễ bộc lộ, thứ đức tin đến mà không suy nghĩ và suy nghĩ sâu sắc. Thôma không phải vậy. Thuộc về ông là một thứ đức tin có được qua một sự lăn lộn phấn đấu cá nhân.
D. Ông tin kính trọn vẹn đối với Đức Chúa Jêsus Christ.
Vì thế, bức tranh chúng ta có về Thôma ngay trước khi Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá là đây: Ông là một con người can đảm, trung thành tận tụy và đầu phục sâu sắc đối với Chúa Jêsus. Nếu cần, ông sẵn sàng phó chính mạng sống của ông. Chắc chắn ông có khuynh hướng nhìn vào nơi mặt tối của cuộc sống. Ông thành thật hoàn toàn về những điều ông hồ nghi, lo toan và sợ hãi. Và ông không lấy làm thỏa lòng với những câu trả lời hụ hợ.
Thế là bối cảnh được đặt ra cho cơn khủng hoảng lớn lao nhất trong cuộc đời ông.
II. Tình huống
Chúng ta có khuynh hướng quên tình huống vào buổi sáng Phục sinh đầu tiên đó. Thật là đáng để tự hỏi mình: nếu chúng ta có mặt ở đó, liệu chúng ta có tin hay chúng ta sẽ nghi ngờ? Hoặc đưa ra câu hỏi theo cách khác, điều chi sẽ thuyết phục bạn tin rằng người mà bạn yêu thương đã trở lại sau khi chết ba ngày? Giả sử đó là người bạn thân hay một thành viên trong gia đình mà bạn đã thấy họ chết rồi? Điều chi có cần để thuyết phục bạn đây? Hoặc giả có cách nào bạn sẽ tin theo chăng? Sống lại từ kẻ chết không phải là một việc có thường đâu. Rõ ràng nhứt là việc ấy không xảy ra trong nhiều thế kỷ rồi. Nếu chúng ta có mặt ở đó tại thành Jerusalem với Mathiơ, Giacơ và Giăng, liệu chúng ta sẽ tin theo những tiếng đồn lạ lùng kia vào sáng Chúa nhựt ấy chăng? Trong việc trả lời cho câu hỏi đó, nó giúp cho nhớ lại thể nào những kẻ quen biết Chúa Jêsus đã phản ứng tối đa trước các tin tức nói tới sự sống lại của Ngài.
A. Trước hết, chẳng có môn đồ nào chịu tin cả.
Rất là đơn giản, họ không trông mong một sự sống lại. Bấy giờ, thật sự là Chúa Jêsus đã nói trước rằng Ngài sẽ bị giết và rồi sẽ sống lại. Nhưng các môn đồ Ngài lại không hiểu được điều đó. Sống lại là một việc xa vời nhất đối với lý trí của họ. Quên phứt đi những lời loan báo trước của Ngài. Quên phứt đi mọi thứ mà lòng dạn dĩ đã nói ra. Họ đã thối lui rồi. Ai thực sự trông mong một sự sống lại vào sáng Chúa nhựt đó? Các môn đồ đâu có trông mong đâu. Chính các cấp lãnh đạo người Do thái, họ đã khuyên người Lamã nên đóng ấn ngôi mộ. Những kẻ thù của Chúa Jêsus đã lo sợ một việc gì đó sẽ xảy ra. Những bạn hữu của Ngài lại không trông mong chi hết.
Mác 16 nói rằng mấy người đàn bà đã đến mộ Ngài vào sáng Chúa nhựt để xức dầu cho xác Ngài. Đấy là một phần trong quá trình ướp xác. Trong lúc lộn xộn lo đưa xác Chúa vào trong mộ trước khi mặt trời lặn vào ngày thứ Sáu, một dược đã được ướp trên thi hài Chúa Jêsus, song không phải là dầu. Mấy người đàn bà đã đến lo liệu việc ướp xác của Ngài. Họ đã thấy gì khi vào đó? Hòn đá đã bị lăn ra và ngôi mộ trống trơn. Tất cả bốn sách Tin Lành đều nhất trí ở sự kiện nầy. Mấy người đàn bà không có một ý nhỏ nào về những điều đã xảy ra. Họ không trông mong một sự sống lại.
Mác nói rằng ngay sau khi thiên sứ giải thích những gì đã xảy ra, họ rời khỏi ngôi mộ trong run rẩy và sợ hãi (Mác 16:8). Giăng nói rằng ngay cả Mary đã tưởng ai đó đến lấy cắp xác Ngài đi (Giăng 20:2). Luca nói thêm rằng khi mấy người đàn bà đến nói cho các môn đồ biết những gì thiên sứ đã phán: “Song các sứ đồ không tin, cho lời ấy như là hư không” (Luca 24:11). Không tin. Tất nhiên. Không có người nào sống lại từ kẻ chết đâu. Không có ai sống lại sau khi chết ba ngày hết. Không có ai sống lại sau khi bị đánh đòn chết. Không có ai sống lại sau khi bị treo trên cây thập tự những sáu giờ đồng hồ liền. Không có ai sống lại sau khi mũi giáo đâm thủng hông của Ngài. Không có ai sống lại sau khi được ướp với 100 cân một dược và bị quấn với vải liệm. Không có ai sống lại sau khi ngôi mộ bị niêm phong. Không, tỉ lệ nghịch lại sự ấy. Sự ấy quả là bất khả thi. Ngài là một người tử tế. Ngài nói ra điều lành. Hết thảy chúng ta đều yêu mến Ngài. Chúng ta bước đi với Ngài khi Ngài thuật cho biết những câu chuyện kỳ diệu kia. Và, ồ, các phép lạ mà Ngài đã làm ra. Chúng ta bật cười khi Ngài bắt chẹt người Pharisi. Còn về thời điểm Ngài làm ra phép lạ với mấy ổ bánh và mấy con cá kia thì sao? Chúng ta nghĩ việc ấy là long trọng lắm.
Chắc chắn, Ngài phán Ngài sẽ sống lại. Hết thảy chúng ta đều tin sự ấy. Thậm chí Ngài cũng đã tin sự ấy nữa. Ngài không hề sai trật trước đây bao giờ. Tại sao không tin chứ? Ngài đã phán Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết chắc mình luôn nhớ đến Ngài. Ngài không nói sai đâu? Không một ai chịu tin vào sự ấy cả. Đúng là một bữa tiệc mà chúng ta đang có đây. Và Mác nói: “Nhưng các người ấy vừa nghe nói Ngài sống,… thì không tin” (Mác 16:11). Ai sẽ đổ lỗi cho họ chứ? Nếu bạn có mặt ở đó, liệu bạn có chịu tin sự ấy không?
B. Thôma không có mặt.
Giăng nói cho chúng ta biết rằng Thôma không có mặt vào buổi chiều Chúa nhựt khi Chúa Jêsus thình lình hiện ra ở giữa họ (Giăng 20:19-25). Kinh Thánh không nói lý do tại sao, nhưng tôi nghĩ tôi biết. Về mặt cơ bản có hai cách khác nhau mà người ta đáp ứng với sự buồn rầu và tai vạ. Có người tìm sự khuây khỏa trong số bạn bè của họ. Họ muốn người ta ở chung quanh giúp cho họ nói ra nổi lòng ấy. Nhiều người khác thích ở một mình hơn với mọi suy nghĩ của họ. Đấy là Thôma. Nếu điều nầy là thực, Thôma đã nhìn biết nhiều hơn các người khác những gì sắp sửa xảy ra tại thành Jerusalem, ông đã bị tổn thương sâu sắc lắm cũng là điều rất thực. Ông không có mặt với các môn đồ vì tấm lòng ông đã bị chà nát. Mọi sự ông đã có, ông đã dâng cho Chúa Jêsus, và Chúa Jêsus đã chết. Ông vẫn yêu, vẫn lo, vẫn muốn tin, song tấm lòng ông vụn nát cả rồi. Ông không phải là một người xấu, sự hồ nghi của ông cũng không phải là tội lỗi. Sâu sắc ở bên trong, ông rất muốn tin. Đừng quá hạ thấp ông. Hết thảy chúng ta đều ở cùng một chỗ đấy thôi.
III. Phần giải thích
Nếu bạn muốn gọi Thôma là một kẻ nghi ngờ, làm ơn đừng xem ông là một kẻ vô tín. Có người đã tìm cách đặt ông vào hội của những nhà phê bình, chỉ trích. Ông không thuộc về nơi đó. Thôma dứt khoát không phải là một kẻ hay phê phán hay là kẻ theo chủ nghĩa duy lý. Những điều nghi ngờ của ông đến từ sự tin kính dành cho Đấng Christ. Chẳng có một sự hồ nghi nào giống như sự nghi ngờ của một tấm lòng đã vụn nát. Nghi ngờ Sự Ra Đời Bởi Nữ Đồng Trinh là một việc. Còn mất mát người bạn yêu thương rồi lấy làm lạ không biết có một Đức Chúa Trời ở trên trời hay không là một việc khác nữa.
A. Thôma không phải là kẻ chỉ trích, phê bình.
Có hai loại kẻ hồ nghi trong lãnh vực lẽ thật thuộc linh. Có những kẻ chuyên duy lý, họ nói: “Ta không tin sự ấy và chẳng có một điều gì làm cho ta tin được sự ấy đâu”. Hạng người thể ấy thích sự hồ nghi của họ, nói về nó, bật cười về nó, rồi bắt giận dữ khi họ bị bẻ bác. Một người như thế không tìm kiếm câu trả lời; người tìm kiếm một sự bàn bạc. Người đếm những khó khăn, nắm bắt các đối tượng, rồi tìm những chỗ sơ hở. Người Pharisi rơi vào phạm trù đó. Khi họ xin Chúa làm một dấu lạ, Ngài đã từ chối, gọi họ là: “dòng dõi hung ác gian dâm” (Mathiơ 16:1-4).
B. Sự nghi ngờ của ông bung ra từ một tấm lòng bị tan vỡ.
Nhưng có một hạng hồ nghi khác nữa, người nào nói: “Ta không tin nhưng ta bằng lòng tin nếu ta có thể tận mắt mình nhìn thấy”. Thôma phù hợp với phạm trù nầy. Ông không phải là kẻ phê phán vô tín; ông là một tín đồ bị thương tích. Hãy nhớ, nói chung Thôma không nghi ngờ sự lạ lùng. Ông đã nhìn thấy nhiều phép lạ lớn lao nhất của Chúa Jêsus. Nhưng phép lạ nầy quá lớn không thể nghe theo lời của ai khác được đâu. Ông phải thấy thì mới tin. Và ai có thể đổ lỗi cho ông?
C. Ông không phải là không bằng lòng tin, mà là không thể.
Không ai muốn tin hơn Thôma đâu. Nhưng ông đã nhìn thấy quá nhiều, ông biết quá nhiều; tất cả những sự kiện đều chỉ về một hướng. Trước khi Thôma chịu tin, cá nhân ông phải nhìn thấy Chúa Jêsus đã. Và ông phải biết chắc đó là Chúa Jêsus — không phải mộng mơ hay chiêm bao. Ông phải biết chắc ấy chính là Chúa Jêsus mà ông đã thấy Ngài chết rồi. Đấy là lý do tại sao ông không thể nương theo lời lẽ của các môn đồ. Không nương vào một điều chi khác hơn là điều nầy. Không phải ông không bằng lòng tin, mà là không thể tin.
Có người lấy làm thỏa lòng với bằng chứng của nhiều người khác. Có người không chịu đâu. Thôma đã không chịu kìa. Có phải ông nghi ngờ tính chân thật của mấy người kia? Không, ông biết rõ họ đã tin họ đã nhìn thấy Chúa Jêsus. Nhưng như thế vẫn chưa phải là đủ đâu. Có nhiều người nghĩ họ nhìn thấy nhiều việc. Thôma không thể bỏ qua sự nghi ngờ họ đã nhìn thấy một con ma. Ông không thể sống với thứ đức tin phụ thuộc được. Ông phải tận mắt mình nhìn thấy kia. Khi ông nói: “Trừ phi tôi chạm đến những thương tích của Ngài, tôi sẽ không tin đâu”, còn có nhiều thứ hơn là nghi ngờ nữa. Có tình yêu thương, buồn rầu, đau đớn, và một chút hy vọng nhỏ nhoi. Thôma đang đứng cho mọi thời đại là một người thất vọng nhất muốn tin chỉ khi ông biết chắc mà thôi. Bạn có thể đổ lỗi cho ông ấy không? Bạn có sự khác biệt nào chăng?
IV. Cách giải quyết
A. Chúa Jêsus mời Thôma đến nhìn cho tận mắt.
Sau từng ấy tháng năm, Thôma đã nhận được một tiếng xấu. Thôma nghi ngờ, chúng ta gọi ông như thế. Chúng ta có khuynh hướng xem thường ông. Còn Chúa Jêsus thì không như vậy đâu. Tám ngày sau đó, Chúa Jêsus đã hiện ra với các môn đồ lần thứ hai. Lần nầy Thôma đã có mặt cùng với họ. Chúa Jêsus phán với ông như với một người có đức tin yếu ớt, chớ không phải với kẻ có tấm lòng gian ác. Ngài phán: “Hãy đặt ngón tay ngươi vào đây, và xem bàn tay ta; cũng hãy giơ bàn tay ngươi ra và đặt vào sườn ta, chớ cứng lòng, song hãy tin!” (Giăng 20:27). Cái điều đáng phải để ý là Chúa Jêsus vốn biết rõ mọi sự về những điều hồ nghi của Thôma. Ngài biết rõ cơn bão thịnh nộ trong tấm lòng của ông. Và Ngài đã đến để cho Thôma có thể biết chắc. Chúa Jêsus không xem thường ông. Ngài phán: “Lại đây, hãy xem cho chắc những gì ngươi lấy làm lạ. Hãy tận mắt mình xem đi Đừng nghi ngờ nữa và hãy tin”. Đây là lẽ thật rất tuyệt vời: Những kẻ hồ nghi được chào đón tại ngôi mộ trống.
Bạn có tin phép lạ không? Bạn có tin vào phép lạ mà chúng ta tổ chức trong dịp Lễ Phục Sinh không? Nếu bạn trả lời “không” hay “tôi không dám chắc” thế thì hoan nghênh bạn. Là một kẻ hồ nghi chơn thật thì có sao đâu. Nếu bạn đến theo cách ấy rồi muốn ra về theo cách ấy, không sao đâu. Khi bạn sẵn sàng, Ngài sẽ ở đó chờ đợi bạn. Có khi chúng ta hành động giống như thể nghi ngờ là tội lỗi và hạng người có những điểm hồ nghi sẽ không được hoan nghênh trong nhà thờ. Và có khi chúng ta tìm cách giả vờ rằng Cơ đốc nhân có sắp xếp cái gì đó, mọi thắc mắc được trả lời, và chúng ta không hề có những chỗ nghi ngờ. Thái độ ấy có cả hai: buồn và sai lầm. Hết thảy chúng ta đều có những chỗ hồ nghi và hầu hết chúng ta đều mạnh mẽ hơn nếu chúng ta nhìn nhận sự thực ấy. Chúa chúng ta hoan nghênh từng con người thành thật rồi nài mời những kẻ nghi ngờ kiểm tra lại bằng chứng cho chính họ.
Câu chuyện nầy dạy cho chúng ta biết rằng Cơ đốc giáo dựa theo bằng chứng rất xác đáng. Đấng Christ không hề buộc chúng ta phải tin theo mà chẳng vì một lý cớ nào hết. Ngài bảo Thôma kiểm tra lại bằng chứng rồi đến với kết luận của chính mình. Ngài đưa ra chính lời mời gọi ấy cho bạn và cho tôi nữa. Thuộc về chúng ta là một thế hệ hoài nghi, nhọc nhằn đã tiếp thu thắc mắc về mọi sự. Chúng ta bị lừa dối bởi nhà cầm quyền, bị lầm lạc thường bởi phương tiện truyền thông và bởi Hollywood đến nỗi chúng ta nghi ngờ bất cứ lời xưng nhận nào liên quan tới lẽ thật tuyệt đối một cách máy móc. Khi Cơ đốc nhân công bố rằng Đấng Christ đã sống lại từ kẻ chết, chúng ta không nên lấy làm lạ khi có ai đó nói: “Ồ? Tôi đã xem chương trình đặc biệt của David Copperfield tối qua”. Trải qua nhiều thế kỷ, hạng người vô tín đã đề xuất ra nhiều học thuyết hòng lý giải sự sống lại về phần xác của Chúa Jêsus: Chúa Jêsus ấy thực sự chưa chết đâu, Ngài chỉ đi ngang qua rồi hồi sinh trong ngôi mộ; mấy người đàn bà kia đã đến với một ngôi mộ khác; có người đã lấy cắp thi hài — người Lamã, người Do thái, các môn đồ; không cứ cách nào đó Chúa Jêsus đã giả chết rồi giả vờ trở lại từ kẻ chết; các môn đồ đã có ảo giác rồi tưởng tượng rằng Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết; Chúa Jêsus đã sống lại về mặt thuộc linh khi thân thể Ngài còn ở trong mộ; Hội Thánh đầu tiên đã bịa ra toàn bộ câu chuyện. Ngay cả hôm nay, có những người vẫn còn bám lấy những ý tưởng đầy nghi ngờ nầy. Chúng ta nói với mọi người cái điều Chúa Jêsus đã nói với Thôma: “Hãy đến xem tận mắt mình. Hãy kiểm tra lại bằng chứng. Hãy đọc câu chuyện với tấm lòng rộng mở và một tâm trí rộng mở. Hãy thôi đừng nghi ngờ nữa mà hãy tin”. Chúng ta tin rằng khi mọi bằng chứng đã được đánh giá công bằng rồi, phần kết luận duy nhứt khả thi sẽ là vào ngày thứ Sáu Tốt Lành, Chúa Jêsus đã chịu chết, bị chôn, rồi vào sáng Chúa nhựt phục sinh Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Toàn bộ đức tin Cơ đốc treo trên sự thực nầy: Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết — sát nghĩa, về phần xác, về phần thuộc thể, mắt thường trông thấy được.
Trong thời buổi thay đổi thất thường theo sau cuộc Cách Mạng Pháp, người kia quyết định khởi sự tôn giáo của mình, song lại thấy rằng người đã gặp khó khăn trong việc lôi cuốn những người mới theo đạo. Khi ông ta xin giúp lời khuyên, một người bạn đến nói cho ông ta biết điều nầy: “Để bảo đảm thành công cho tôn giáo mới của ông, mọi sự ông cần phải làm là tự đóng đinh mình trên thập tự giá rồi sống lại từ kẻ chết vào ngày thứ Ba”. Tôn giáo của ông ta biến mất vì ông ta không thể làm theo lời khuyên ấy. Chúa Jêsus là con người duy nhứt trong lịch sử từng thỏa mãn vấn đề đó.
B. Những kẻ hồ nghi mạnh mẽ nhất thường trở thành hạng tín đồ vững chắc nhất.
Nghi ngờ có sự hữu dụng của nó. Nghi ngờ sâu sắc thường là khúc mở đầu cho một đức tin sâu sắc hơn. Tôi thích cách Frederick Buechner tỏ ra như sau: “Trong trường hợp đức tin của bạn cho rằng có một Đức Chúa Trời hay không có một Đức Chúa Trời, nếu bạn không có một điểm nghi ngờ nào, một là bạn tự lừa dối mình hay bạn đang ngủ mê. Những điểm nghi ngờ là mấy con kiến sống bị kẹt trong hai ống quần của đức tin. Chúng cứ thức tỉnh và di động luôn” (trích từ quyển Wishful Thinking). Đây là một lẽ thật tuyệt vời: những kẻ hồ nghi dữ tợn nhứt thường trở thành hạng tín đồ vững chắc nhứt. Và những chỗ hồ nghi thành thật nhất — từng được giải quyết — thường trở thành cái nền cho đức tin không lay chuyển. Bạn đã từng hồ nghi điều gì rồi, bạn sẽ tin quyết điều ấy, đây là một sự thực. Trong lịch sử giáo hội Cơ đốc, những kẻ hồ nghi quan trọng nhứt thường trở thành hạng tín đồ vững chải nhứt. Đấy là lý do tại sao có câu chuyện của Thôma trong Kinh Thánh — để những kẻ hồ nghi chơn thật được khích lệ đem những điều họ nghi ngờ chân thật kia vào ngôi mộ trống. Thôma đã nghi, và những sự hồ nghi của ông bị phủi sạch bởi Thân Vị của Đức Chúa Jêsus Christ — sống lại từ kẻ chết.
C. Ơn phước đến với người nào tin theo những gì Đức Chúa Trời đã phán dạy.
Mọi sự Đức Chúa Trời đòi hỏi, ấy là con người phải trước sau như một với bản thân họ. Ngài đòi hỏi bạn phải dành cho câu chuyện nầy cùng một cách đối xử với bất kỳ câu chuyện nào khác. Hãy chọn lọc bằng chứng, xét đoán bản tường trình rồi đến với một kết luận. Nghi ngờ, được đấy, nhưng đừng để những điều bạn hồ nghi lôi bạn đi mất. Hãy đến với ngôi mộ trống rồi tận mắt mình xem thấy. Khi Thôma nhìn thấy Chúa Jêsus rồi, ông đã sấp mình xuống hô lên: “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi” (Giăng 20:28). Chỗ đứng ấy là bằng chứng quan trọng nhất đã được đưa ra bởi bất kỳ ai trong số các môn đồ. Đó là cao điểm của sách Tin Lành Giăng. Và nó đến từ một người đã có những điều nghi ngờ mạnh mẽ nhất.
Chúng ta thích ứng với ở chỗ nào? Rốt lại, Chúa Jêsus đã trở về lại thiên đàng. Chúng ta không có cùng cơ hội như Thôma đã có khi nhìn thấy Chúa Jêsus mặt đối mặt. Chúng ta làm gì với những điều chúng ta nghi ngờ đây? Chúa Jêsus cũng có một lời cho chúng ta nữa đấy: “Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” (Giăng 20:29). Có những người họ nói rằng sự sống lại của Đấng Christ là không quan trọng, cái điều là vấn đề, ấy là Chúa Jêsus đang sống ở trong lòng chúng ta. Nhưng nếu Chúa Jêsus vẫn còn ở trong mồ mả, Ngài không sống trong lòng chúng ta được. “Và nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin anh em cũng vô ích, anh em còn ở trong tội lỗi mình” (I Côrinhtô 15:17). Có rất nhiều người, kể cả một số Cơ đốc nhân, đang tiếp cận loại đức tin giống như cậu thiếu niên kia đã nói: “Đức tin là tin theo những gì bạn biết là không thật”. Sai! Đức tin của chúng ta được lập trên những sự thực của lịch sử. Nếu có nhà vô thần nào hay Phật tổ hoặc Ấn độ giáo hay người chạy theo thuyết duy vật hoặc Hồi giáo hay bất kỳ ai khác đang đứng trong phòng cao ấy, người ấy sẽ thấy rõ những điều mà Thôma đã trông thấy. Người ấy sẽ nhìn thấy Chúa Jêsus vì Ngài đang thực sự có mặt ở đó — sống lại từ kẻ chết. Nếu chúng ta có mặt ở đó, chúng ta có thể chạm đến những vết sẹo bằng chính hai bàn tay của chúng ta.
Chúng ta không có mặt ở đó, chúng ta đang có mặt ở đây, 2.000 năm đã trôi qua, và Chúa Jêsus hứa một ơn phước đặc biệt cho những ai trong chúng ta chịu tin mà không thấy. Nếu bạn trông đợi một loại minh chứng bằng số học rằng Chúa Jêsus đã sống lại từ kẻ chết, tôi không thể cung ứng con số ấy cho bạn được đâu. Thế nhưng bản tường trình của lịch sử đang hiện hữu ở đó cho mọi người xem xét. Nó chứa nhiều bằng chứng cho người nào chọn tin theo, và người nào quyết định không tin có thể luôn luôn tìm được lý do để mà không tin.
D. Đừng để những điều hồ nghi của bạn lôi bạn ra khỏi Chúa Jêsus.
Không một ai có thể giữ trung lập mãi cho đến đời đời được. Bạn có thể đem những điều bạn hồ nghi đến với ngôi mộ trống, song bạn phải đưa ra một sự lựa chọn. Bạn không thể trụ lại bên chiếc hàng rào mãi được đâu. Một là bạn tin hoặc bạn không tin. Đây là ngày Chúa nhựt Phục sinh. Đúng là một ngày tuyệt vời để đưa ra sự lựa chọn đó. Đúng là một ngày quan trọng để thôi không nghi ngờ nữa rồi khởi sự tin theo.
Bạn biết rõ Chúa Jêsus đã chịu chết. Chẳng có gì phải hồ nghi về điều đó hết. Bạn biết rõ Ngài đã chịu chết thay cho bạn. Bạn biết rõ Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Thắc mắc mà Đức Chúa Trời đang thăm hỏi là: “Bạn đã làm gì với Con của Ngài?”
Chúa Jêsus phán: “Thôi đừng hồ nghi nữa, song hãy tin”.
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Ngài vì vẻ đẹp của Lễ Phục Sinh. Chúng con cảm tạ Ngài vì những thắc mắc sâu sắc nhất trong cuộc sống đã được trả lời với tính cách đơn sơ của ngôi mộ trống. Xin dẫn chúng con vào trong ngôi vườn của sự sống lại, ở đó chúng con có thể gặp gỡ Chúa phục sinh của chúng con. Nguyện chúng con sẽ không được sống lại nếu như Chúa Jêsus đã chết. Nguyện những ai hồ nghi sẽ đạt tới đức tin cứu rỗi và tìm được sự sống qua danh của Ngài. Trong danh của Chúa Jêsus là Đấng đã chịu chết và đã sống lại, và Ngài hằng sống cho đến đời đời. Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét