Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2010

Mathiơ 5.5: "PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ NHU MÌ"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
SỨ ĐIỆP CỦA NHÀ VUA
PHƯỚC CHO NHỮNG KẺ NHU MÌ
Mathiơ 5.5
1. Xã hội chúng ta xem thường những ai có tánh nhu mì. Tôi nhớ khi còn nhỏ đang đọc trong một tấm biển quảng cáo sau bìa của loại sách báo hài. Luôn luôn có hình vẽ một gã gầy nhom đứng bên bờ biển với cát dính đầy mặt. Sau khi Trường Charles Atlas đã dạy hắn rèn luyện thân thể, hắn có thể làm cho kẻ bắt nạt hắn phải bỏ đi. Mỗi đứa trẻ trong nước Mỹ đều ghét cái gã gầy nhom hiền từ kia và đã tán thưởng kẻ biết rèn luyện thân thể ấy. Chẳng một người nào là hiền lành hết. Đấy là lý do tại sao lời phán của Chúa Jêsus: “Phước cho những kẻ nhu mì” dường như rất xa lạ đối với chúng ta.
2. Lời phán nầy cũng rất xa lạ đối với khán giả của Ngài trong thế kỷ đầu tiên. Họ đã xem thường tình trạng hiền lành. Họ là những người Dothái kiêu căng, con cháu của Ápraham, là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Họ mong đợi một Đấng Mêsi đầy quyền lực, là Đấng sẽ cất bỏ cái ách nô lệ của người La mã và giúp họ “hưởng đất làm cơ nghiệp”.
3. Có những nhóm người Dothái khác nhau trông mong các loại Đấng Mêsi khác nhau.
A. NGƯỜI PHARISI là những người chạy theo truyền khẩu. Họ nghĩ Ngài sẽ đến giống như Môise với dịch lệ và các phép lạ giống như chia Biển Đỏ ra làm hai vậy.
B. NGƯỜI SAĐUSÊ là hạng người theo chủ nghĩa đổi mới. Họ mong đợi một cấp lãnh đạo năng nổ về chính trị, là người sẽ dùng sự khôn ngoan và ảnh hưởng tuyệt đối mà giải cứu họ.
C. HẠNG NGƯỜI QUÁ KHÍCH là các nhà hoạt động chính trị. Họ trông đợi một Đấng Mêsi quân sự, một Tướng lãnh giống như Giôsuê.
4. Đấng Mêsi thật không phải là Đấng giống như vừa nêu ở trên. Nếu họ đã đọc sách Êsai, họ đều biết rằng Ngài là một Cứu Chúa chịu thương khó. Ngài dịu dàng và nhu mì. Êsai 42.3 chép về Ngài như sau: “Người sẽ chẳng bẻ cây sậy đã giập, và chẳng dụt tim đèn còn hơi cháy”. Chúa Jêsus đã nói về chính mình Ngài ở Mathiơ 11.29: “Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường”. Khi Ngài đến và đã phán: “Phước cho những kẻ nhu mì”, họ đã chối bỏ Ngài. Họ không muốn có một Đấng Mêsi nhu mì. Ngài là một sự thất vọng hoàn toàn.
5. Chúa Jêsus đã và đang là Đức Chúa Trời toàn năng, toàn tri. Ngài là Đấng đã phán thì vũ trụ thành hình, lại đã đến như một con người hiền lành, nhu mì, Ngài là tấm gương trọn vẹn về tánh nhu mì.
I. Ý NGHĨA CỦA SỰ NHU MÌ.
A. Định nghĩa CƠ BẢN.
1. Trong xã hội chúng ta, “nhu mì” được hiểu là một sự yếu đuối, ẻo lả, không vững chắc, bấp bênh hoặc thậm chí nhu nhược như đàn bà. Tự điển Webster định nghĩa từ ngữ nầy là “thiếu can đảm và hèn nhát, không cứng rắn hay mạnh mẽ”. Hãy tưởng tượng một nhân viên quản lý nói với các nhân viên đứng bán hàng rằng: “Bây giờ hãy đứng tại cửa hàng và phải nhu mì với khách hàng của quý vị”.
2. Chữ “nhu mì” trong Kinh Thánh ra từ chữ Hy lạp praos, có nghĩa là “dịu dàng, khiêm nhường hay tử tế”. Tiếng Hy lạp cổ điển sử dụng từ nầy theo nhiều cách khác nhau:
a. Nhu mì có ý mô tả một loại thuốc dễ chịu.
b. Nhu mì có ý nói tới một cơn gió nhẹ.
c. Nhu mì có ý nói tới một sợi dây thừng bị sút rời ra và có ích lợi.
d. Nhu mì có ý nói tới người biết đối xử với người khác bằng sự tôn trọng, kính nể, lễ độ, và nhã nhặn.
e. Trong một tác phẩm của Plato, một đứa trẻ yêu cầu vị y sĩ phải “nhẹ nhàng” với nó. Cũng chính là từ ngữ nầy.
B. Định nghĩa theo VĂN MẠCH.
** Chỉ biết qua phần định nghĩa cơ bản thôi thì chưa đủ, chúng ta cần phải biết từ ngữ nầy được sử dụng như thế nào torng văn mạch của Các Phước Lành.
1. Nhu mì giống với “có lòng khó khăn”. Cả hai đều là đặc điểm chính nói tới sự khiêm nhường.
2. “Có lòng khó khăn” nghĩa là chúng ta tập trung vào sự nghèo khó về mặt thuộc linh của chúng ta. Chúng ta hiểu rõ tình trạng tội lỗi của mình. sự hiểu biết đó khiến cho chúng ta phải khiêm nhường. “Nhu mì” có nghĩa là chúng ta tập trung vào sự thánh khiết và quyền phép của Đức Chúa Trời, điều nầy cũng khiến cho chúng ta phải hạ mình xuống.
3. Chúng ta có thể nhìn thấy một chuỗi logic trong các Phước Lành. Khi một người “có lòng khó khăn” (Phước lành 1) thì người sẽ “than khóc” (Phước lành 2) về tội lỗi mình và được “yên ủi” bởi ân điển và sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Khi một người trở nên “nhu mì” (Phước lành 3) do công nhận sự thánh khiết và qyền phép của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ “đói khát sự công bình” (Phước lành 4).
C. Nhu mì là chương trình của Đức Chúa Trời dưới GIAO ƯỚC CŨ.
1. Gióp đã nói Đức Chúa Trời: “Nhắc lên cao những kẻ bị hạ xuống, Và cứu đỡ những người buồn thảm cho được phước hạnh” (5.11).
2. Dân số ký 12.3 chép: “Vả, Môi-se là người rất khiêm hòa hơn mọi người trên thế gian”.
3. Thi thiên 25.9 chép: “Ngài sẽ dẫn kẻ hiền từ cách chánh trực, Chỉ dạy con đường Ngài cho người nhu mì”.
4. Thi thiên 147.6 chép: “Đức Giê-hô-va nâng đỡ người khiêm nhường, Đánh đổ kẻ ác xuống đất”.
5. Êsai 29.19 chép: “Những người nhu mì cũng sẽ được thêm sự vui vẻ trong Đức Giê-hô-va”.
D. Nhu mì là chương trình của Đức Chúa Trời trong GIAO ƯỚC MỚI.
1. Trong Êphêsô 4.1-2, Phaolô nói: “Vậy, tôi… khuyên anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em, phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu mà chìu nhau”.
2. Ông đã nói trong Côlôse 3.12: “Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục”.
3. Ông nhắc cho Tít nhớ: “chớ nói xấu ai, chớ tranh cạnh, hãy dong thứ, đối với mọi người tỏ ra một cách mềm mại trọn vẹn” (Tít 3.1-2).
E. NHỮNG SỰ HIỂU SAI về nhu mì.
1. Nhu mì không phải là YẾU ĐUỐI. Từ ngữ nói tới yếu đuối đã được người ta sử dụng trong văn chương ngoài Kinh Thánh để nói đến một con ngựa đã được thuần hoá. Vì cớ đó, mới có quan điểm: “chịu dưới quyền điều khiển”.
a. Một con ngựa đã được thuần hoá rất hữu dụng và an toàn. Tuy nhiên, một con ngựa không thể điểu khiển được thì vô dụng và rất nguy hiểm.
b. Một phương thuốc có khả năng chế ngự sẽ đem lại sự chữa lành. Dù vậy một phương thuốc không chế ngự được sẽ giết chết người.
c. Một ngọn gió thổi với tốc độ vừa phải rất có ích lợi cho việc bơm nước và cung cấp năng lượng. Một ngọn gió không chế ngự được sẽ là ngọn gió mang tính huỷ diệt.
d. Người nào có thể kiềm chế lời nói của mình là người có lòng can đảm và biết tiết độ. Người nào không kềm chế được sẽ gây ra lắm thiệt hại.
e. Có người nói: “Nếu bạn nghĩ nhu mì là yếu đuối, hãy thử làm người nhu mì trong một tuần lễ xem sao!”.
2. Nhu mì không phải là HÈN NHÁT.
a. Có người tin rằng “đưa má bên kia” (câu 39) là một hành động hèn nhát.
b. Chúa Jêsus là con người can đảm nhất đã từng sinh sống. Ngài đã đối diện với mọi tội lỗi độc địa nhất, địa ngục và sự chết trên thập tự giá.
c. Mặc dù Ngài không hề tự biện hộ cho mình, Ngài rất mau mắn biện hộ cho người khác. Ngài đã dùng chiếc roi da đánh đuổi những kẻ đổi bạc!
d. Một Cơ đốc nhân trưởng thành đã chết bản ngã và vì thế sẽ không lo lắng gì về sự tổn thương, lăng nhục, hay bị thua thiệt.
3. Nhu mì không phải là TẾ NHỊ THEO CON NGƯỜI.
a. Ấy chẳng phải là thiếu lòng tin hay thiếu lễ độ, nhưng một người công bình phải biết kính sợ Chúa và tôn trọng người khác.
b. I Phierơ 2.22-23 nhắc cho chúng ta nhớ tới tấm gương của Chúa Jêsus: “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá; Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề hăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình; Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ, hầu cho chúng ta là kẻ đã chết về tội lỗi, được sống cho sự công bình; lại nhân những lằn đòn của Ngài mà anh em đã được lành bịnh”.
II. CÁC TẤM GƯƠNG VỀ SỰ NHU MÌ.
A. ÁPRAHAM (Sáng thế ký 13.5-12).
1. Sau khi Đức Chúa Trời đưa Ápraham cùng gia đình ông vào xứ Canaan. Một cuộc tranh cãi nổi lên giữa các tôi tớ của Ápraham và tôi tớ của cháu ông là Lót về các quyền lợi, về đồng cỏ cho gia súc ăn.
2. Đức Chúa Trời đã ban hết xứ cho Ápraham. Ông là người của Đức Chúa Trời với giao ước của Đức Chúa Trời. Lót chỉ là người cháu hư hỏng, là người nương cậy mọi sự vào Ápraham. Ápraham là bác của Lót và là bậc trưởng thượng của ông ta.
3. Ápraham có thể nói: “Hãy nghe đây, cháu là kẻ ăn bám ta, cháu quá tự phụ, cháu nên chăn thả súc vật chỗ nào ta bảo cháu thôi”.
4. Tuy nhiên, Ápraham lại bằng lòng nhường mọi quyền lợi của mình vì cớ đứa cháu, vì cớ sự hoà thuận, và vì cớ sự làm chứng của họ.
5. Ápraham vốn có quyền làm bất cứ điều chi ông muốn. Tuy nhiên quyền hạn đó đã được ông kềm giữ lại. Với sự khiêm hoà, ông đã từ khước mọi quyền hạn của mình.
B. GIÔSÉP (Sáng thế ký 45.5, 8; 50.19-20).
1. Giôsép đã bị các anh mình bán sang Aicập làm nô lệ. Trải qua thời gian, Đức Chúa Trời đã thăng cấp cho Giôsép từ nô lệ lên làm Thủ Tướng cai quản khắp cả Aicập.
2. Khi các anh đến với Giôsép để mua lúa ăn, ông có thể giết chết họ hoặc bắt họ làm nô lệ. Thay vì thế, “Người cất tiếng lên khóc; dân Ê-díp-tô nghe và nhà Pha-ra-ôn nghe nữa” (Sáng thế ký 45.2).
3. Ông đã bày tỏ chính mình ra cho các anh thấy rồi tỏ lòng thương xót họ (Sáng thế ký 45.5, 8; 50.19-20).
4. Trong sự nhu mì, Giôsép vốn biết Đức Chúa Trời đã đặt ông vào chỗ xét đoán.
C. MÔISE (Sáng thế ký 12.3).
1. Chúng ta đã biết rồi, Môise “là người rất khiêm hoà hơn mọi người trên thế gian”.
2. Tuy nhiên, hãy nhớ chính Môise là người đã nổi giận vì sự ngược đãi dân Hêbơrơ, nên mới giết chết một đốc công người Aicập (Xuất Êdíptô ký 2.11-12).
3. Chính Môise là người đã đập vỡ nát hai bảng đá luật pháp đầu tiên khi ông nhìn thấy dân sự say sưa đang nhảy múa quanh con bò con vàng.
4. Trong Xuất Êdíptô ký 3 khi Đức Chúa Trời kêu gọi Môise trở thành đấng giải cứu cho Ngài, Môise đã nói rằng ông không thể làm nổi việc đó và ông không phải là một tay nói giỏi.
5. MÔise vốn nhu mì và hạ mình không phải vì ông yếu đuối đâu, ông sẽ biện hộ cho bất cứ ai trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng ông không tự biện hộ mình trước mặt Đức Chúa Trời.
D. ĐAVÍT (I Samuên 24.5-7; II Samuên 16.5-12).
1. Đức Chúa Trời đã chọn Đavít thay thế cho vua Saulơ. Vì điều nầy Saulơ đã thù ghét Đavít, nên đã dẫn quân truy đuổi và tìm giết Đavít.
2. Đavít có một cơ hội để giết chết Saulơ khi Saulơ vào trong hang động Ênghêđi để đi tiện. Người của Đavít đã hành động giống như họ tung hô khích lệ ông bước tới giết Saulơ ngay giây phút cơ hội ấy. Thay vì thế, ông “cắt trộm vạt áo tơi của vua”.
3. Tuy nhiên, vì cớ tánh nhu mì, “lòng người tự trách về điều mình đã cắt vạt áo tơi của vua”. Ông đã ngăn trở người của mình (các câu 5-7).
4. Ở một trường hợp khác, rất lâu về sau khi Đavít đã lên làm vua, con trai ruột ông là Ápsôlôm đã mưu nghịch ông rất thành công và trục xuất ông ra khỏi Jêrusalem.
5. Một trong các người thân của Saulơ – Simêi đã công khai rủa sả Đavít và ném đá vào người ông. Một trong những người mạnh sức của Đavít đã thắc mắc: “Cớ sao con chó chết kia dám mắng vua chúa tôi? Hãy để tôi đi chém đầu nó!”.
6. Đavít đã ngăn cản người đó vì cớ sự nhu mì (các câu 10-12).
7. Ông là một chiến sĩ rất mạnh sức chiến đấu cho Đức Chúa Trời, song ông không hề tự tôn hay bảo vệ mình.
E. PHAOLÔ (Philíp 3.3; 4.13).
1. Phaolô là người có học vấn cao hơn hết trong các vị sứ đồ, thế mà ông là một người rất nhu mì. Ông đã nói trong Philíp 3.3 rằng ông “chẳng hề tin cậy vào xác thịt”.
2. Dù vậy, Phaolô có lòng tin tưởng hoàn toàn vào Đức Chúa Trời. Trong 4.13, ông viết: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”.
F. CHÚA JÊSUS (Mathiơ 11.28-29; Philíp 2.5-8).
1. Dĩ nhiên Chúa Jêsus là tấm gương quan trọng nhất về sự nhu mì. Ngài đã phán trong Mathiơ 11.28-29: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ”.
2. Có lẽ Philíp 2.5-8 là chỗ nói tới sự hạ mình quan trọng nhất của Ngài.
III. KẾT QUẢ CỦA SỰ NHU MÌ.
A. Kết quả CHUNG. Chúa Jêsus phán rằng “kẻ có lòng nhu mì” sẽ được “phước”. Họ biết rõ ơn phước và niềm vui mừng vì Đức Chúa Trời đã làm cho họ được vui mừng.
B. Kết quả ĐẶC BIỆT.
1. Chúa Jêsus phán “những kẻ nhu mì” được “phước” vì họ sẽ hưởng được đất. Từ “hưởng” có ý nói tới việc nhận lãnh phần gia tài hay cơ nghiệp của một người. Đây là chỗ trưng dẫn trực tiếp Thi thiên 37.11.
2. Chúng ta đã thấy được điểm tương đồng giữa việc làm “người nhu mì” và việc “có lòng khó khăn”. Một người phải nhìn nhận tình trạng nghèo khó thuộc linh của mình rồi với sự “nhu mì” tiếp nhận Đấng Christ trước khi người được cứu. Cho nên chỉ có người “nhu mì” mới là người sẽ “hưởng được đất”.
3. Đức Chúa Trời bảo Ađam phải “quản trị” hay cai trị trên đất. Quyền hạn và khả năng quản trị của ông đã được thiết lập kia không còn có hiệu lực nữa do Sự Sa Ngã. Nhờ sự cứu rỗi Đức Chúa Trời phục hưng lại quyền quản trị của chúng ta. Chúng ta sẽ “hưởng” lấy quyền ấy một ngày kia.
4. Xuyên suốt lịch sử, dân sự của Đức Chúa Trời đã lấy làm ngạc nhiên nơi sự thịnh vượng của hạng người gian ác. Hết thảy chúng ta đồng nói cùng với tác giả Thi thiên: “Vì khi tôi thấy sự hưng thạnh của kẻ ác, Thì có lòng ganh ghét kẻ kiêu ngạo” (Thi thiên 73.3). Chúng ta phải nhớ lời nói của một nhà truyền đạo: “Không thể như thế được mãi đâu!”. Thi thiên 37.10 chép: “Một chút nữa kẻ ác không còn”. Trong kỷ nguyên của Nước Trời, dân sự của Đức Chúa Trời “sẽ đồng trị vì với Ngài trong một ngàn năm”.
5. Lời hứa về tương lai vinh hiển của chúng ta cung ứng cho chúng ta niềm hy vọng và phước hạnh ngay bây giờ! Người “nhu mì” có thể hưởng được đất ngay bây giờ trong những phương thức mà không một người chưa tin Chúa nào có thể hiểu được. Hãy lắng nghe lời lẽ của Wade Robinson:
Bầu trời trên cao kia toàn màu xanh lơ,
Xung quanh đất là màu xanh lá cây dịu dàng;
Có chi đó sống động trong từng màu sắc
Đôi mắt của kẻ không biết Đấng Christ
Không hề thấy được!
Loài chim hót lên mãi những bài ca vui sướng,
Nhiều bông hoa khoe sắc đẹp đậm đà,
Từ khi tôi nhìn biết, như hiện nay tôi đang biết,
Tôi thuộc về Ngài và Ngài là của tôi.
IV. SỰ CẦN THIẾT CỦA TÁNH NHU MÌ.
A. Nhu mì là cần thiết vì SỰ CỨU RỖI cần có sự nhu mì. Đối với một người muốn được cứu, người ấy phải tự hạ mình xuống khiêm ty trước mặt Đức Chúa Trời. Khi các môn đồ hỏi Chúa Jêsus xem ai là lớn nhất trong Nước Trời, Ngài “gọi một đứa trẻ đến, để ở giữa môn đồ, mà phán rằng: quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu. Vậy, hễ ai trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy, sẽ là lớn hơn hết trong nước thiên đàng” (Mathiơ 18.2-4).
B. Nhu mì là cần thiết vì đây là một MẠNG LỆNH theo Kinh Thánh.
1. Sôphôni 2.3 chép: “Hỡi các ngươi là mọi kẻ nhu mì của đất, làm theo mạng lịnh của Chúa, hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va, tìm kiếm sự công bình, tìm kiếm sự nhu mì, hoặc giả các ngươi sẽ được giấu kín trong ngày thạnh nộ của Đức Giê-hô-va”.
2. Giacơ 1.21 chép: “Vậy, hãy bỏ đi mọi điều ô uế, và mọi điều gian ác còn lại, đem lòng nhu mì nhận lấy lời đã trồng trong anh em, là lời cứu được linh hồn của anh em”.
3. Người nào không có tánh nhu mì không thể hiểu được cũng không thể áp dụng được Lời của Đức Chúa Trời.
C. Nhu mì là cần thiết vì đây là một phần SỰ SỐNG CỦA ĐỨC TIN. Chúa Jêsus đã sống nhu mì và chúng ta không thể bắt chước Ngài nếu chúng ta sống tự phụ.
D. Nhu mì là cần thiết vì nhu mì DÂNG SỰ VINH HIỂN CHO ĐỨC CHÚA TRỜI.
1. Bổn tánh của con người tìm cách vinh hiển cho chính mình. Con người tin kính trong sự nhu mì dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
2. Khi chúng ta tự hạ mình xuống, thậm chí là với nhau, Đức Chúa Trời luôn được vinh hiển. Rôma 15.5-7 chép: “Xin Đức Chúa Trời hay nhịn nhục và yên ủi ban cho anh em được đồng lòng ở với nhau theo Đức Chúa Jêsus Christ; để anh em lấy một lòng một miệng mà ngợi khen Đức Chúa Trời, là Cha của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Vậy thì, anh em hãy tiếp lấy nhau, cũng như Đấng Christ đã tiếp anh em, để Đức Chúa Trời được vinh hiển”.
3. Nếu chúng ta muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, chúng ta phải đối xử với nhau bằng sự nhu mì. Đây là một số đề nghị thực tế:
a. Nhường thứ gì bạn muốn cho người bạn đời, cho con cái của bạn…
b. Từ chối không trả đũa và báo thù khi bị xúc phạm.
c. Không nhận lãnh sự khen ngợi cho chính mình, mà dâng hết thảy cho Đức Chúa Trời.
Có vị Mục sư kia từng chổi dậy giảng ở một nơi công cộng có nhiều người nhóm lại. Khi ông rao giảng, người ta đã vỗ tay tán thưởng ông thật nhiều. Ông đã đáp ứng lại bằng cách nói: “Vỗ tay trước khi diễn giả bắt đầu là một hành động của đức tin. Vỗ tay trong khi rao giảng là một hành động của hy vọng. Vỗ tay sau khi ông ta kết luận là một hành động của sự làm ơn”.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét