Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Đồn lũy khen ngợi




Đồn lũy khen ngợi
Nếu một người bạn thân đến khuyên quí vị: "Thật là dễ chịu và rộng lượng khi bạn có dư dật, nhưng hãy thận trọng vì bạn chưa phải là một người bạn hiệp nghi với Đức Chúa Trời!” Phải chăng lời nói của họ đang châm chích trái tim của chúng ta? Những lời nói ấy đã được đưa ra với Anna Spafford.
Anna Spafford đứng với bốn đứa con gái của mình trên boong chiếc tàu chở hành khách của Pháp tên là Vill du Havre đang chìm dần, vào ngày 22 tháng 11 năm 1873. Hai trăm hai mươi sáu người bị mất mạng - 87 người sống sót.
Annie, đứa con gái lớn nhất, bước tới giúp mẹ nó đỡ lấy Tanetta, đứa con gái út, nó quàng tay quấn quanh cổ mẹ nó. Bessie, đứa áp út, bám chặt lấy hai đầu gối mẹ nó. Maggie, đứa con kế, bình tỉnh đứng bên cạnh mẹ nó mà nói: "Đức Chúa Trời sẽ quan phòng chúng ta ". Annie nói thêm: "Đừng sợ. Biển cả là của Ngài và Ngài đã dựng nên nó". Thế rồi, biển đã nhận chìm họ.
Ký ức sau cùng của Anna Spafford là đứa con nhỏ của bà bị làn sóng biển tách ra khỏi vòng tay bà. Một tấm ván nổi lên bên dưới thân thể không còn cảm giác của Anna và nâng bà nổi lên. Nhưng, mấy đứa con gái của bà không còn nữa. Phản ứng đầu tiên của bà là thất vọng hoàn toàn. Khi ấy bà nghe một giọng nói phán cùng bà: "Ngươi được tha vì một mục đích". Rồi ngay tức khắc bà nghĩ đến một lời khuyên mà người bạn thân đã nói với bà nhiều lần: "Thật là dễ chịu và rộng lượng khi bạn có dư dật, nhưng hãy thận trọng vì bạn chưa phải là một người bạn hiệp nghi với Đức Chúa Trời!”
Chín ngày sau bà đã đến tại Cardiff, xứ Wales, rồi đánh điện tín cho người chồng làm luật sư của mình ở Chicago với mấy từ nầy: "Chỉ một mình em được cứu mà thôi".
Ngay lập tức ông đáp tàu đến gặp bà ở Âu châu. Một tối kia, viên thuyền trưởng gọi ông vào cabin chỉ huy. Ông ta nói: "Một sự tính toán cẩn thận đã được vạch ra, và tôi tin chúng ta đang ở ngay vị trí mà chiếc “du Havre” bị đắm. Nước ở đây sâu độ 3 dặm".
Horatio Spafford trở lại phòng mình, rồi trên vùng biển ấy đêm đó, gần vị trí mà mấy đứa con ông bị chết, đã viết ra bài thánh ca, khởi đầu là: "Khi bình an, như một dòng sông, trôi theo đường tôi, Khi đau buồn như sóng biển cuồn cuộn lăn tới; dù số phận tôi có ra thể nào, Ngài đã dạy tôi biết nói: 'linh hồn con được yên nghỉ rồi'".
Chẳng một ai trong chúng ta ở đây tin rằng chúng ta có thể bước đi mà không bị những vô vọng, đau thương, thất bại và khổ ải trong đời nầy làm tổn thương. Chúng ta vốn biết rõ lắm!
Vì vậy, có một chỗ miễn trừ nào giữ chúng ta tránh không bị héo úa do hơi nóng của lò thử thách chăng? Phải chăng có một chỗ cho quí vị và tôi đủ khả năng để đối diện với những thời điểm thử thách bằng sự tin cậy và đảm bảo? Có đấy, và đó là một chỗ mà chính thân vị của Đức Chúa Trời đang ngự trị. Nơi ấy được gọi là "Đồn Lũy Khen Ngợi".
Thi thiên 22.3: “Còn Chúa là thánh, Ngài là Đấng ngự giữa sự khen ngợi của Ysơraên”.
Chúng ta có thể khen ngợi Đức Chúa Trời trong các thời điểm khó khăn chăng? Có phải chúng ta là một người bạn hiệp nghi với Đức Chúa Trời không? Chúng ta có thể chấp nhận nghịch cảnh đến từ Đức Chúa Trời mà vẫn dâng lên Ngài sự khen ngợi giống như khi chúng ta nhận lãnh điều tốt lành chăng? (Gióp 2.10)
Joni Eareckson Tada nói: "Một của lễ ngợi khen sẽ luôn luôn khiến cho bạn phải trả giá một điều gì đó. Ngợi khen sẽ là một việc rất khó làm. Nó đòi hỏi sự đánh đổi lòng tự hào, cơn giận dữ, cùng mọi thứ có giá trị nhất theo lẽ của con người. Chúng ta buộc phải nói ra lời khen ngợi một cách kiên quyết và chắc chắn, dù những tiếng kêu la hợp lý của chúng ta không làm dao động những gì Ngài đang làm”.
Tối nay chúng ta xét qua hai đời sống và ba trạng huống để thấy được niềm hy vọng đang bước vào trong đồn lũy khen ngợi.
1. KHEN NGỢI KHI TRỐN CHẠY. . . Thi thiên 22.1-3
Thi thiên 22.1-3: “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhơn sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siết tôi? Đức Chúa Trời tôi ôi! tôi kêu cầu ban ngày, nhưng Chúa chẳng đáp lại; Ban đêm cũng vậy, song tôi nào có được an nghỉ đâu Còn Chúa là thánh, Ngài là Đấng ngự giữa sự khen ngợi của Ysơraên”.
Một số nhà giải kinh cho rằng David đang trên đường trốn chạy tránh Vua Saulơ khi ông viết ra mấy câu nầy. David đang trốn chạy vì mạng sống mình rồi kết thúc bằng cách khen ngợi Đức Chúa Trời ở giữa cơn thử thách của mình.
Quí vị có nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã lìa bỏ quí vị trong thì giờ quí vị có cần không? David đã cảm thấy Đức Chúa Trời quên phứt ông khi ông kêu la giữa nổi đau thương của cuộc đời mình: "Đức Chúa Trời ơi, Ngài đã lìa bỏ tôi! Sao Ngài đứng cách xa tôi như thế. Tôi không ý thức được sự ở gần của Ngài, lời cầu nguyện của tôi không chạm đến lỗ tai Ngài. Đức Chúa Trời ơi, Ngài đang ở đâu?" Hãy nhìn nhận cảm xúc đó, hết thảy chúng ta đều có những suy nghĩ và cảm xúc tương tự đối cùng Đức Chúa Trời, chúng ta nghĩ Ngài đang lìa bỏ chúng ta trong giờ sợ hãi và trốn chạy của mình.
David, vẫn trong nỗi thất bại và hoang mang, ông thở ra hơi thở hy vọng rồi bắt đầu viết ra những lời khen ngợi từ đáy lòng mình. Ông nhìn thấy Đức Chúa Trời có sự “thánh khiết”. Thánh khiết có ý nói tới việc sống biệt lập. David đã nhìn nhận rằng mặc dù Đức Chúa Trời im lặng trong giây phút ở riêng biệt từ các nan đề của ông. Ấy chẳng phải là Đức Chúa Trời không quan tâm, nhưng sự quan tâm ấy không bị hoàn cảnh của David, hay của chúng ta điều khiển đâu.
Nhiều lần một người bị bắt bỏ tù căn cứ theo chứng cớ hiển nhiên. Chúng ta có khuynh hướng để cho bằng chứng hiển nhiên trong đời sống chúng ta đặt chúng ta vào nhà tù bản ngã đầy sự nghi ngờ, thương hại, lo lắng cùng những thứ giống như vậy. Ngợi khen buông tha chúng ta ra khỏi gánh nặng của lòng về các hoàn cảnh của mình.
David đã nhìn biết rằng Đức Chúa Trời sống theo những lời khen ngợi của dân sự Ngài. Nói cách khác, khi chúng ta khen ngợi Đức Chúa Trời bất chấp hoàn cảnh của chúng ta, Đức Chúa Trời ngự trị và lập nơi ở với chúng ta! Đức Chúa Trời ở với chúng ta trong những lời chúng ta khen ngợi Ngài. Quí vị có thấy không? Tiêu điểm của David không đặt nơi Saulơ, cũng không đặt vào sự trốn chạy để tránh né Saulơ đâu! Nhưng tiêu điểm của ông trong cuộc trốn chạy là ngợi khen Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng cùng đi với ông qua cơn thử thách.
Hãy bước vào đồn lũy khen ngợi bằng cách chạy đến với Đức Chúa Trời, hãy ngợi khen Ngài trong mọi góc cạnh của cuộc sống.
2. ĐƯỢC CỨU ĐỂ KHEN NGỢI . . . II Samuên 22.1-4
II Samuên 22.1-4: “Khi Đức Giêhôva đã giải cứu Đavít khỏi tay các thù nghịch và khỏi tay Saulơ, thì người hát các lời nầy mà ngợi khen Đức Giêhôva, rằng: Đức Giêhôva là hòn đá và đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi. Đức Chúa Trời tôi là hòn đá tôi, nơi tôi sẽ nương náu mình, Là thuẫn đỡ tôi, sừng chửng cứu tôi, ngọn tháp cao và nơi nương dựa của tôi; Hỡi Đấng che chở tôi! ấy Ngài giải cứu tôi khỏi sự hung bạo. Tôi sẽ kêu cầu cùng Đức Giêhôva, là Đấng đáng khen ngợi; thì tôi sẽ được giải cứu khỏi các thù nghịch tôi”.
Lên tới điểm nầy trong cuộc đời của David, ông đã kinh nghiệm nhiều sự thất vọng trong cuộc sống.
- Sau cái chết của Saulơ, David được tôn làm Vua – nhưng không phải không có sự chống đối. - David đánh bại người Philitin, nhưng bị bại trận vì khiêng hòm giao ước không đúng cách. - David phạm tội tà dâm với Bátsêba và đứa con bị chết. - David thất bại không kỹ luật được con cái mình rồi kết thúc với con gái bị cưỡng hiếp và hai người con trai phải ngã chết. - David đối diện với cuộc nổi loạn trong Nước và buộc phải chạy trốn để cứu lấy mạng của mình. - David tiêu diệt những tên giềnh giàng người Philitin và ông được tay Đức Chúa Trời giải cứu cho.
Nhiều người sẽ đồng ý, David đã có từng lý do để không khen ngợi Đức Chúa Trời và ông sẽ bị Ngài lật đổ. Nhưng trong lúc phấn khích và phản ứng, David đã chọn khen ngợi Đức Chúa Trời.
Tại sao vậy? Vì ông đã nhìn thấy Đức Chúa Trời là . . . Vầng Đá, Đấng Giải Cứu, Sức Lực, là Thuẩn Đỡ, là Nơi Nương Náu, là Chúa và Cứu Chúa của ông. David được giải cứu để khen ngợi Đức Chúa Trời! "Là Đồn Lũy của tôi . . . đáng được khen ngợi!" Có phải quí vị được cứu để ngợi khen Đức Chúa Trời?
- Quí vị đang đối diện với nan đề gì ngay bây giờ, có nan đề nào to lớn hơn Đức Chúa Trời không? - Quí vị đang vật vã với nan đề gì mà Đức Chúa Trời không thể giải cứu quí vị ra khỏi đó? - Nan đề nào quá thúc bách đến nỗi quí vị không thể khen ngợi Đức Chúa Trời ở giữa nan đề đó?
Nếu không có nan đề nào, thì hãy đứng lên, hãy bước vào Đồn Lũy Ngợi Khen rồi khởi sự ngợi khen Đức Chúa Trời!
3. SỐNG ĐỂ NGỢI KHEN . . . Sáng thế ký 29.31-35
Hãy lắng nghe mấy lời nầy từ bài hát: "Ngợi khen Chúa”.
"Khi bạn chỗi dậy chống chọi với một cuộc chiến làm tan vỡ mọi giấc mơ của mình. Và mọi hy vọng của bạn bị kế sách của Satan làm nát vụn ra. Khi bạn cảm thấy có một sự giục giã ở trong lòng khiến bạn phải chào thua nỗi sợ hãi đời nầy, Đừng đánh mất đức tin. Hãy ngợi khen Chúa. Ngài sẽ hành động qua những kẻ ngợi khen Ngài. Hãy ngợi khen Chúa. Vì Đức Chúa Trời của chúng ta ngự giữa sự khen ngợi. "
Lêa đã chỗi dậy chống chọi với một cuộc chiến đang làm vụn nát mọi giấc mơ của mình. Cha của nàng đã lừa được người chồng sắp cưới của em gái nàng bằng cách đặt nàng vào lều hôn nhân khi nó được dựng lên cho Rachên. Giacốp đã lấy Lêa làm vợ nhưng lòng nàng tan nát khi nàng biết chồng chẳng yêu mình. Tình yêu của chàng đã dành hết cho em gái mình và nàng rõ tình yêu ấy không bao giờ nhắm vào nàng.
Sáng thế ký 29.30: “Giacốp đi lại cùng Rachên, thương yêu nàng hơn Lêa. Vậy, người ở giúp việc nhà Laban thêm bảy năm nữa”.
Giacốp sẽ quan tâm đến nàng, tiếp trợ cho nàng, và có con cái với nàng, thế nhưng chàng không hề yêu thương nàng giống như chàng đã yêu thương Rachên.
Đau khổ và thất vọng đã tràn ngập tấm lòng nàng và phó nàng vào những nỗi sợ mình không được yêu thương. Kinh Thánh dạy chúng ta: “Sự trông cậy trì hưỡn khiến lòng bị đau đớn; Nhưng khi sự ước ao được thành, thì giống như một cây sự sống” (Châm ngôn 13.12). Tấm lòng của Lêa luôn nói với nàng rằng một ngày kia có lẽ Giacốp sẽ yêu thương nàng. Rồi với từng năm tháng trôi qua, tấm lòng nàng càng nhu nhược hơn . . . nàng cảm thấy mình chẳng được yêu thương.
Nhưng một "phòng tuyến bị chọc thủng" đã đến trong đời sống của Lêa, dẫn nàng vào đồn lũy ngợi khen.
Sáng thế ký 29.31: “Đức Giêhôva thấy Lêa bị ghét, bèn cho nàng sanh sản; còn Rachên lại son sẻ”.
Mặc dù Lêa đã sống trong cuộc hôn nhân mà chồng ít lưu ý đến nàng, Đức Chúa Trời đã chú ý tới nàng. Ôi, tư tưởng Đức Giêhôva đã chăm xem nàng khiến cho chúng ta phải ngợi khen Ngài! Vì nếu Ngài nhìn thấy Lêa, tôi biết Ngài đang chăm xem tôi! Đức Chúa Trời đoái xem Lêa và tỏ ra ưu ái nàng qua việc cho phép nàng sinh bốn người con trai.
Với đứa con thứ nhứt Lêa suy nghĩ trong lòng rằng sự khả thi giờ đây chồng nàng sẽ yêu thương nàng giống như nàng ước ao . . . "Vì cớ đó, chồng sẽ yêu mến tôi". Thế nhưng không phải như vậy đâu! Sau khi sanh đứa con thứ hai, nàng hy vọng tình yêu của chồng sẽ xây hướng sang nàng. Nhưng không được như thế! Rồi sau khi sanh đứa thứ ba, một lần nữa nàng đã hy vọng . . . "Lần nầy chồng sẽ dính díu cùng tôi". Nhưng không được như thế đâu!
Giữa đứa con thứ ba và thứ tư, phòng tuyến bị chọc thủng đã đến với Lêa. Mặc dù Đức Chúa Trời đã đoái xem và chúc phước cho nàng, nàng đã xu hướng về chồng cùng các hoàn cảnh “ít được yêu”. . . chớ không nhắm vào Đức Chúa Trời của mình. Ôi, thật khó mà ngợi khen Đức Chúa Trời khi chúng ta nhắm vào các hoàn cảnh vây quanh chúng ta.
Nhưng Lêa đã nhận được tình yêu đó! Giống như quí vị và tôi cần nhận lãnh tình yêu thương vậy. Nàng bắt đầu nhìn thấy tình yêu mà nàng cần có sẽ kiếm được qua Đức Chúa Trời của nàng. Nàng đã được yêu! Và nàng đã ngợi khen Đức Chúa Trời! Hãy để cho phòng tuyến của Lêa bị chọc thủng trở thành phòng tuyến của chúng ta bị chọc chủng!
Sáng thế ký 29.35: “Nàng thọ thai nữa, sanh một con trai, và nói rằng: Lần nầy tôi ngợi khen Đức Giêhôva; vì cớ ấy, đặt tên là Giuđa. Đoạn, nàng thôi thai nghén”.
Tôi thấy chẳng có một sự tình cờ nào nơi mấy cái tên mà nàng đã đặt cho các đứa con của nàng, vì chúng mô tả sự chuyển biến của nàng vào trong đồn lũy ngợi khen.
Đứa con thứ nhứt: Rubên….hãy coi một đứa con trai…Đức Chúa Trời đã ban cho nàng một cơ nghiệp. Đứa con thứ hai: Simêôn…có nghe biết….Đức Chúa Trời đã nghe thấy tiếng kêu van của nàng. Đứa con thứ ba: Lêvi….dính díu….Đức Chúa Trời đã gắn bó chính mình Ngài với nàng Đứa con thứ tư: Giuđa….ngợi khen….Lêa đã bước vào đồn lũy và đã ngợi khen Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đã di dời tình trạng vô vọng, bất an, thất bại, đau đầu của Lêa rồi thay vào đấy là sự ngợi khen sống động! "Chúng ta được cứu ra khỏi những điều hòng hủy diệt chúng ta!" -- Francis Frangipane
Lêa sau đó đã sinh đứa con thứ 5 là Ysaca và đứa con trai thứ sáu là Sabulôn cho Giacốp.
Thi thiên 37.4: “Cũng hãy khoái lạc nơi Đức Giêhôva, thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước”.
Quí vị có thể ngợi khen Đức Chúa Trời ở giữa nỗi đau thương của mình không? Hãy học biết bí quyết của việc sống để ngợi khen! Hãy xu hướng về Đức Chúa Trời rồi khởi sự ngợi khen Ngài.
PHẦN KẾT LUẬN:
Có phải quí vị là người bạn hiệp nghi với Đức Chúa Trời không?
I Phierơ 1.6-7: “Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu; hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Jêsus Christ hiện ra”.
"Khi bình an, như một dòng sông, trôi theo đường tôi, Khi đau buồn như sóng biển cuồn cuộn lăn tới; dù số phận tôi có ra thể nào, Ngài đã dạy tôi biết nói: 'linh hồn con được yên nghỉ rồi'".
Hãy ngợi khen Đức Chúa Trời! Hãy ngợi khen Đức Chúa Trời!
Amen!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét