Thứ Tư, 28 tháng 7, 2010

Xuất Êdíptô ký 12; Giăng 1.29: "Chiên Con của Đức Chúa Trời"



Chiên Con của Đức Chúa Trời
Xuất Êdíptô ký 12; Giăng 1.29
Cơ đốc nhân khắp mọi nơi đều công nhận con chiên là một hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh Thánh. Hình ảnh chiên con thường được nối kết với cả hai lễ Giáng Sinh và Phục sinh. Mặc dù con chiên đặc biệt không được nhắc tới trong truyện tích Giáng sinh, chúng được ám chỉ bởi sự hiện diện của người chăn chiên và cũng bởi sự thực Chúa Jêsus chào đời trong một chuồng chiên. Vì thế, chữ “chiên con” không được sử dụng gắn bó với sự ra đời của Chúa Jêsus, chúng ta biết đã có nhiều bầy chiên trong khu vực ở chung quanh thành Bếtlêhem.
Kinh Thánh thực hiện sự nối kết giữa Chúa Jêsus và chiên con trong một vài phân đoạn. Êsai 53.7 sánh Đấng Mêsi với chiên con đã chịu giết. Giăng Báptít đã gọi Chúa Jêsus là “Chiên Con của Đức Chúa Trời” (Giăng 1.29). Phaolô gọi Đấng Christ là “Chiên Con Lễ Vượt Qua” ở I Côrinhtô 5.7. Phierơ nói tới huyết của Đấng Christ là huyết của chiên con ở I Phierơ 1.18-19. Sau cùng, sách Khải huyền gọi Đấng Christ là “Chiên Con” 30 lần.
Những ý nghĩa về mặt tình cảm dành cho từ ngữ “chiên con” hoàn toàn rất tích cực. Những chữ như dịu dàng, vô dụng, thân thiện và vô tội thoạt đến trong trí. Hãy so sánh với hình ảnh của con rắn được sử dụng như biểu tượng của điều ác. Trẻ con vốn yêu thương chiên con đang khi hầu hết người ta đều sợ loài rắn. Hai loài thú có cấp độ tình cảm rất khác nhau ở nơi bạn.
I. Thử thách trong xứ Aicập
Để hiểu rõ bức tranh trong Kinh Thánh nói đến Chúa Jêsus là Chiên Con lễ Vượt Qua, chúng ta cần phải để thế giới hiện đại lại sau lưng mà dự vào cuộc hành trình lần ngược lại thời gian 35 thế kỷ đến tại xứ Aicập. Ở đó, chúng ta khám phá ra rằng người Do thái đã bị người Ai cập cầm làm nô lệ. Trong 400 năm, người Do thái đã sống trong những tình trạng rất nhọc nhằn, gian khổ. Trong nhiều thế hệ, những người cai thợ đã bóc lột công lao động của họ.
Sau cùng, Đức Chúa Trời đã dấy lên một lãnh tụ có tên là Môise. Ông đến trước mặt Pharaôn với một sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. “Hãy để cho dân ta đi!” Pharaôn chẳng xem trọng sứ điệp nầy, vì vậy Môise trở lại mấy lần cũng với sứ điệp đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng Pharaôn chẳng chút chú ý đến việc để cho những tên nô lệ nầy được tự do ra đi.
Vì thế, Đức Chúa Trời nghĩ ra một kế hoạch sẽ khiến cho Pharaôn phải nài nĩ dân Do thái rời khỏi xứ của ông. Ngài sai một loạt sự phán xét rất kinh khủng (được gọi là những trận dịch lệ) giáng trên xứ Aicập. Mỗi trận dịch này tiêu biểu cho tai vạ thiên nhiên khủng khiếp và mỗi tai vạ tỏ ra quyền phép trọn vẹn của Đức Chúa Trời trên thiên nhiên và đồng thời, tỏ ra sự bất lực của các tà thần trong xứ Aicập.
Sau đây là chín tai vạ đầu tiên được liệt kê ra theo thứ tự:
+ Nước hoá thành huyết
+ Ếch nhái
+ Muỗi
+ Ruồi
+ Bịnh tật trên gia súc
+ Ghẻ chốc
+ Mưa đá
+ Châu chấu
+ Bóng tối tăm
Tai vạ cuối cùng là cuộc tấn công thẳng vào Thần Ra, là thần mặt trời của Aicập. Từ khi được xem xét là đại biểu của Thần Ra, trận dịch nầy chứng tỏ rằng ngay cả Pharaôn cũng chẳng phải là đối thủ đối với Đấng Toàn Năng.
Mặc dù những tai vạ nầy đã giáng đau khổ khắc nghiệt trên dân sự, Pharaôn đã làm cho tấm lòng ông chai cứng nghịch lại Đức Chúa Trời. Thay vì nói: “Các ngươi có thể ra đi”, ông ta đã tròng tréo sự việc. Trước tiên, ông ta hứa cho dân Do thái đi ở một khoảng xa xa trong sa mạc nếu họ hứa sẽ trở lại. Kế đó, ông ta hứa để cho nam giới ra đi nếu phụ nữ và trẻ con phải ở lại đàng sau. Sau cùng, ông ta hứa để cho hết thảy họ ra đi nhưng phải để bầy súc vật lại đàng sau. Rõ ràng, không một điều nào trong số những điều nầy được chấp nhận. Đức Chúa Trời không đôi co với những vị vua theo tà giáo!
Sau cùng, giờ phút đã đến cho tai vạ thứ 10 và là tai vạ sau cùng. Đức Giêhôva phán với Môise: “Đừng lo. Khi tai vạ nầy xảy ra cho Aicập, Pharaôn sẽ vội vàng cho các ngươi ra đi” (đối chiếu, Xuất Êdíptô ký 11.1-2). Vào một tối kia, lúc nửa đêm, Đức Giêhôva sẽ đi ngang qua xứ Aicập và từng đứa con trai đầu lòng trong xứ Aicập sẽ ngã chết tức khắc. Đặc biệt Ngài phán rằng sẽ không có một gia đình nào được thoát khỏi hết – từ người nhà của Pharaôn cho đến nhà của tên nô lệ thấp hèn nhất người Aicập. Thậm chí Đức Chúa Trời tính sổ luôn con gia súc đầu lòng trong sự phán xét của Ngài.
Nhưng Đức Chúa Trời sẽ buông tha người Do thái để tạo ra một sự phân biệt giữa dân sự của Đức Chúa Trời và dân sự của Pharaôn.
Xuất Êdíptô ký 12 tỏ ra kế hoạch của Đức Chúa Trời buông tha dân Do thái tránh khỏi cuộc tàn sát lúc nửa đêm về con đầu lòng. Ngài sẽ buông tha dân sự Ngài khi sử dụng huyết của một con chiên. Khi huyết chiên con được bôi trên mày cửa của từng nhà Do thái, Đức Chúa Trời sẽ nhìn thấy huyết và chắc chắn sẽ “vượt qua” ngôi nhà ấy. Nhưng nếu Đức Chúa Trời không thấy huyết, Ngài sẽ lấy đi sinh mạng của con đầu lòng trong sự phán xét.
Chính huyết của chiên con đã cứu lấy dân sự của Đức Chúa Trời trong đêm đó.
Kể từ đó, cứ mỗi năm, trong 3.500 năm, và liên tục cho đến năm nay, người Do thái đã tuân giữ lễ Vượt Qua như một sự nhắc nhớ trang trọng về sự giải cứu lạ lùng của Đức Chúa Trời trong xứ Aicập.
II. Chiên Con Lễ Vượt Qua
Charles Simeon bình luận rằng ngay cả những chi tiết từng phút một của Lễ Vượt Qua dường như được ấn định để chỉ ra Đức Chúa Jêsus Christ. Chúng ta sẽ chỉ ra 10 điểm tương tự giữa các biến cố của Lễ Vượt Qua đầu tiên cách đây 3.500 năm và sự hy sinh của Đức Chúa Jêsus Christ trên thập tự giá trong vai trò Chiên Con tối hậu của Lễ Vượt Qua.
1. Phải là một Chiên Con
Xuất Êdíptô ký 12.3 chép rằng mỗi người cần phải “bắt một con chiên con” cho cả nhà mình. Không thể là một con bò hay con chim bồ câu, là thứ đôi khi được sử dụng làm con sinh trong Cựu Ước. Đức Chúa Trời thật là đặc biệt – mà phải là một con chiên con và chỉ là chiên con. Không một con vật nào khác được sử dụng.
Khi Giăng nhìn thấy Chúa Jêsus, ông kêu lên: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời , là Đấng cất tội lỗi thế gian đi (Giăng 1.29). Phaolô nói rằng: “Đấng Christ, Chiên Con Lễ Vượt Qua của chúng ta, đã hy sinh vì chúng ta”. Sách Khải huyền đề cập đến Đấng Christ là Chiên Con trong 30 trường hợp phân biệt.
2. Phải là một con đực
Xuất Êdíptô ký 12.5 đặc biệt chép rằng “con vật các ngươi chọn phải là con đực giáp niên”. Chúa Jêsus đã làm ứng nghiệm điều nầy, trong đó Ngài là con trai do nữ đồng trinh Mary sanh ra.
3. Phải là chiên con giáp niên
Điều nầy có nghĩa là con chiên con phải đúng tuổi, sung sức, không quá nhỏ hay quá già. Như vậy, “Đấng Christ đã hiến thân Ngài ở chỗ đúng tuổi, không phải niên thiếu với các con trẻ tại thành Bếtlêhem”.
4. Phải không tì vít
Bản Hybálai sử dụng một cụm từ nói rằng “không có một khuyết điểm nào hết”. Điều nầy muốn nói rằng người nam Do thái phải cẩn thận xem cho kỹ bầy chiên của họ để quyết chắc chẳng có vết lở loét, không có một đốm da trống nào, không một chỗ nào nhiễm trùng, không có bịnh gì hết, chẳng có một chỗ nào sưng tấy hay tì vít, không có loại bịnh tật nào. Điều nầy ngăn không có người ta dâng một chiên con hay loài vật kém cõi trong khi giữ lại con tốt nhứt cho mình.
I Phierơ 1.19 nắm chắc lẽ đạo nầy khi chép về Đức Chúa Jêsus Christ là “chiên con không lỗi không vít”. Hêbơrơ 4.14-16 nhấn mạnh rằng dù Đấng Christ bị cám dỗ trong mọi việc như hết thảy loài người, song chẳng phạm tội. Khi Bôntu Philát xem xét xong, ông ta tuyên bố: “Ta không thấy người có tội lỗi chi hết” (Giăng 19.6). Ngay cả những thầy tế lễ thượng phẩm thù nghịch kia cũng không thể tìm được lý do nào đúng đắn để kết án tử hình Ngài, vì vậy họ đã tìm những chứng dối để chống nghịch Ngài.
Cái điều quan trọng, ấy là Chiên Con Lễ Vượt Qua đã được tuyển chọn vào ngày thứ 10 trong tháng, nhưng chưa được hy sinh mãi cho đến ngày thứ 14 của tháng. Như vậy, có tới 4 ngày để xem xét cẩn thận con chiên. Nếu Đấng Christ bước vào thành Jerusalem vào ngày Chúa nhựt và bị đóng đinh trên thập tự giá vào ngày thứ Sáu, vậy thì có 4 ngày xen giữa thích ứng với chính khuôn mẫu nầy. Trong suốt mấy ngày nầy, những kẻ thù cay đắng của Ngài đã sử dụng từng chiến thuật khả thi để làm mất thể diện của Ngài, nhưng mỗi chiến thuật ấy đều hoàn toàn thất bại. Họ không thể tìm được dù một lỗi nhỏ nhất nơi bổn tánh Ngài. Vì thế, ngay cả những kẻ thù tệ hại nhất của Ngài phải thừa nhận rằng Ngài xứng đáng với một con sinh vì tội lỗi của cả thế gian.
5. Chiên Con phải bị giết và bị quay
Xuất Êdíptô ký 12 nói rõ ràng luận điểm nầy. Tất cả những con chiên con đều bị giết cùng một lúc và huyết phải được lấy ra hết. Thế rồi thịt phải được đem quay và được ăn. Chúng không được luộc sôi hay ăn sống (cả hai thông lệ của dân theo tà giáo). Bất cứ thứ chi còn chừa lại phải được đem thiêu đi. Vì thế, chiên con phải được thiêu hoá hoàn toàn.
Cả hai cách: giết chết và quay phác hoạ ra sự thương khó của Đấng Christ trên thập tự giá. Không những Ngài đã chịu chết, mà sự chết của Ngài, bản thân sự chết ấy là một sự hy sinh trọn vẹn. Ngài đã chết cái chết của tội phạm bị treo trên thập tự giá mà người Lamã gớm ghiếc. Không phải như nhà quí tộc Socrates uống thuốc độc, mà là cái chết sỉ nhục của một người bị thế gian chối bỏ, những kẻ mà Ngài đến để cứu họ.
6. Phải không có một cái xương nào bị gãy
Xuất Êdíptô ký 12.46 đặc biệt nói rằng khi những con thú được chọn làm con sinh Lễ Vượt Qua hàng năm, không một cái xương nào bị gãy. Đây là thông lệ của người Lamã, họ đánh gãy hai chân của kẻ bị đóng đinh trên thập tự giá để làm cho cái chết đến thật nhanh. Giăng 19.32-36 cho chúng ta biết mấy tên lính Lamã không đánh gãy hai chơn của Chúa Jêsus vì Ngài đã chết rồi. Câu 36 chỉ ra rằng điều nầy đã xảy ra để làm ứng nghiệm Kinh Thánh chép: “Chẳng một cái xương nào của Ngài sẽ bị gãy”. Mặc dù câu Kinh Thánh được trưng dẫn là Thi Thiên 34.20, phần tham khảo lần trở lại với Xuất Êdíptô ký 12.
7. Chiên Con phải được làm “vào lúc chiều tối”
Cụm từ bất thường nầy là cách dịch sát nghĩa cụm từ Hybálai được thấy ở Xuất Êdíptô ký 12.6. Mặc dù bản Kinh Thánh NIV chép rằng của lễ phải lo liệu vào lúc chạng vạng, cụm từ sát nghĩa cho thấy “vào lúc chiều tối”, theo suy nghĩ của người Do thái là vào khoảng giữa 3-5 giờ chiều.
Tân Ước cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus đã bị đóng đinh trên thập tự giá vào giờ “thứ ba”, nghĩa là lúc 9 giờ sáng, khi người Do thái kể thì giờ trong khoảng 24 tiếng đồng hồ bắt đầu từ lúc 6 giờ sáng. Mathiơ 26.45 cho chúng ta biết rằng đã có sự tối tăm từ giờ thứ sáu cho tới giờ thứ chín, hay từ 12 giờ trưa cho đến 3 giờ chiều. Một thời gian ngắn sau khi Chúa Jêsus thốt ra những lời cuối cùng của Ngài rồi tắt hơi. Thi thể của Ngài khi ấy được đem xuống khỏi thập tự giá trước khi mặt trời lặn. Vì vậy, Chúa Jêsus đã chết “vào lúc chiều tối” (3-5 giờ chiều) đúng giờ các con chiên con Lễ Vượt Qua được đem dâng trên khắp cả xứ Israel.
8. Mọi người phải dâng Chiên Con
Xuất Êdíptô ký 12 nhấn mạnh rằng những con chiên con phải được dâng lên bởi từng người cho từng gia đình trong xứ Israel. Và tất cả những con chiên con phải bị giết cùng một lúc. Cho nên, những con chiên con tiêu biểu cho sự dự phần hoàn toàn của xứ sở trong của lễ bằng huyết. Bởi chính dấu hiệu nầy, Đấng Christ đã chịu đóng đinh trên thập tự giá bởi người Lamã vì ích của người Do thái. Mọi người đều đã dự phần vào sự chết của Ngài. Sự chết của Ngài đã được lập làm của lễ vì tội lỗi của cả thế gian. Những gì những con chiên con đã làm cho nhiều người, Chúa Jêsus Chiên Con của Đức Chúa Trời đã làm cho hết thảy mọi người.
9. Huyết phải được rảy ra
Một lần nữa, Xuất Êdíptô ký là quyển sách rất đặc biệt khi mô tả phần nghi thức. Khi Chiên Con bị giết và huyết được lấy hết rồi, người cha phải lấy một bó lá, nhúng nó vào trong huyết, và rồi bôi huyết trên mái nhà và mày cửa. Huyết sẽ là dấu cho thấy rằng cả gia đình đã hy sinh một con chiên con theo như Đức Giêhôva đã truyền dạy. “Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Ê-díp-tô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi” (Exodus 12. 13).
Những hình ảnh nầy không phải là sự chết của Đấng Christ, mà là ứng dụng của chúng ta về cái chết của Ngài vào lòng chúng ta bởi đức tin. Đấy là lý do tại sao I Phierơ 1.2 nói tới việc rảy huyết của Đấng Christ. Một mình chiên con không thể cứu được một người Do thái. Ngay cả một con chiên con chết cũng không cứu được ai. Ngay cả huyết ở trong chậu cũng chẳng cứu được ai hết. Chỉ có huyết rảy ra bôi trên mày cửa mới có thể buông tha dân sự tránh khỏi cơn phán xét khủng khiếp của Đức Chúa Trời.
Hãy suy nghĩ việc ấy theo cách nầy. Đức Chúa Jêsus Christ là hy vọng cứu rỗi duy nhứt của chúng ta. Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời được dâng lên vì tội lỗi của thế gian. Tuy nhiên, huyết của Chúa Jêsus không những cứu khi được vận dụng bởi đức tin. Còn đối với những ai chối bỏ huyết, ngay cả Chiên Con của Đức Chúa Trời cũng không thể cứu được họ.
Người Do thái phải làm nhiều việc thật khôn ngoan, và bản thân họ phải đắc thắng nhiều trở ngại chống lại sự hủy diệt của thiên sứ; nhưng nếu họ không rảy huyết trên mày cửa, họ sẽ bị hư mất. Loài người có thể phấn đấu làm thật nhiều việc để cải thiện tình trạng của họ là tội nhân, còn thập tự giá của Đấng Christ là phương bảo hộ thực sự duy nhứt cho họ.
10. Thịt phải được thiêu hết
Không những huyết đã đổ ra và thịt được đem quay, nhưng gia đình cần phải cùng nhau ăn với rau đắng và bánh không men (một sự nhắc nhớ đến những ngày của họ ở trong xứ Aicập). Họ không được phép giữ thịt để dùng sau đó nữa. Bất cứ phần nào chưa ăn phải đem đi thiêu hết. Thế là dân Do thái biểu hiệu sự họ dự phần trọn vẹn vào cái chết của chiên con. Sự sống của Ngài đã được phó cho, huyết Ngài đã đổ ra, huyết được sử dụng, thịt bị đem quay, và thịt bị thiêu hoá. Qua những đánh giá nầy, người Do thái được nhắc nhớ rằng sự cứu chuộc của họ đã đến qua sự chết của một thay thế. Chiên con đã chịu chết trong chỗ của họ. Qua việc ăn thịt của nó, họ biểu thị sự họ đồng hoá với chiên con đã chịu chết thay cho họ.
Ý nghĩa cho chúng ta rất đơn giản. Đấng Christ cứu chúng ta khi chúng ta “ăn thịt và uống huyết Ngài” bởi đức tin. Chúa Jêsus đã sử dụng lối nói nầy ở Giăng 6.53-58. Ngài phán điều nầy không phải nói tới thịt và huyết theo nghĩa thuộc thể mà nói tới những gì đức tin cứu rỗi có ý nói tới. Chúng ta cần phải nắm lấy Đấng Christ một cách hoàn toàn, trọn vẹn, tuyệt đối, và chẳng có một sự dè dặt nào hết. Khi chúng ta nắm lấy Ngài là Cứu Chúa theo tư thế nầy, thì giống như chúng ta ăn và uống tại một bữa tiệc vậy.
Sau đó, họ được an toàn và họ được tự do!
Bạn biết phần còn lại của câu chuyện rồi đấy. Thiên sứ sự chết đã dừng lại tại từng ngôi nhà trong xứ Aicập, nhưng từng nhà trong xứ Gôsen (nơi người Do thái sinh sống) đã được buông tha. Từ cung điện của Pharaôn cho đến ngôi nhà thấp hèn nhất sự than khóc lớn tiếng đã đến. Những tiếng kêu gào dậy lên lúc ban đêm. Hết gia đình nầy đến gia đình khác bắt đầu kêu gào lên khi họ khám phá ra con cái ngã chết lúc nửa đêm. Trong xứ Gôsen thì chẳng như vậy đâu. Xứ ấy yên tĩnh đến nỗi chẳng có một cho chó nào sủa trong đêm đó (Xuất Êdíptô ký 11.7).
Không bao lâu sau đó, Pharaôn đã gửi lời cho rằng dân Do thái được tự do ra đi. Kỳ thực, ông ta đã nài nĩ họ phải ra đi trước khi có thêm người ngã chết nữa! Đấy là lý do tại sao Đức Chúa Trời đã bảo người Do thái phải vội vàng ăn lễ Vượt Qua. Ngài biết rõ không bao lâu nữa họ sẽ ra đi.
Thế là Đức Chúa Trời đã đánh thẳng vào các tà thần của xứ Aicập và đồng thời giải phóng dân sự Ngài qua một sự giải cứu lạ lùng bởi huyết của nhiều con chiên con.
Cũng một thể ấy, qua huyết của Đấng Christ, là Chiên Con vĩ đại của Đức Chúa Trời, chúng ta được an toàn tránh khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời và được buông tha không bị án phạt của tội lỗi. Ở trong Ngài và qua Ngài và bởi Ngài, Đức Chúa Trời đã giải cứu dân sự Ngài một lần đủ cả.
III. Những bài học dành cho những tín đồ thuộc thế kỷ 20
Từ lịch sử xa xưa nầy, chúng ta có thể tiếp thu được bốn bài học áp dụng cho hàng tín đồ hôm nay.
1. Đức Chúa Jêsus Christ là Chiên Con của Đức Chúa Trời
Ngài là Thân Vị duy nhứt thoả mãn mọi phẩm chất. Ngài làm phu phỉ từng chi tiết trong bức tranh Cựu Ước. Không một ai khác trong Kinh Thánh thoả mãn những đòi hỏi nầy.
Nhưng điều đó giải thích phần thấm thía nhất của truyện tích Giáng sinh. Khi cụ Simêôn bồng con trẻ Jêsus trên tay rồi chúc phước cho Ngài, cụ nói rằng Chúa Jêsus sẽ là cớ cho sự dấy lên và vấp ngã của nhiều người trong xứ – nói thế như có ý nói trong khi có một số người chịu theo Ngài, nhiều người khác sẽ cay đắng chống đối Ngài. Khi ấy cụ còn thêm một lời đặc biệt dành cho Mary: “còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi” (Luca 2.35).
Đây là phần tham khảo rất sớm sủa nói tới cái chết mà Chúa Jêsus sẽ chịu. Ngay từ lúc ban đầu Ngài đã được đánh dấu như chiên con của Đức Chúa Trời. Ngài ra đời để chịu chết! Mặc dù Mary khi ấy không thể nhìn biết hết các chi tiết, từ những ngày đầu sớm sủa nhất nàng vốn biết rõ rằng đau khổ đang nằm dọc theo con đường sự sống của Ngài.
Đấy là lý do tại sao nhiều nghệ sĩ tài ba của chúng ta, khi họa Mary và con trẻ Christ, đã hoạ với vẻ đau buồn và nặng nề trên khuôn mặt của nàng. Thường thì nàng nhìn vào khoảng xa xăm giống như thể nàng có thể trông thấy được hình bóng thập tự giá ở trên đường chân trời vậy.
Kể từ khi chiên con phải chịu chết để cung ứng huyết bôi cho được cứu, Chúa Jêsus một ngày kia phải chịu chết và huyết Ngài phải đổ ra. Đây là số phận và là số phận được ấn định của Chiên Con Đức Chúa Trời, Ngài đến để cất bỏ tội lỗi thế gian đi.
2. Không có sự cứu rỗi nếu không có con sinh
Hêbơrơ 9.22 nhắc cho chúng ta nhớ rằng “không đổ huyết thì không có sự tha thứ”. Một chiên con sống có thể rất xinh xắn, và thích vuốt ve, nhưng nó chẳng cứu được ai hết. Trừ phi chiên con chết đi, huyết của nó không tốt đâu. Trong hệ thống của Đức Chúa Trời, chỉ có huyết đổ ra mới có thể tha tội được. Là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Chúa Jêsus phải bước lên thập tự giá để cứu lấy thế gian.
3. Nếu không có đức tin, Chúa Jêsus không thể cứu được bạn đâu.
Bạn có thể nói: “Chuyện nầy vô lý quá!” Nhưng tôi dám chắc với bạn rằng chuyện ấy hoàn toàn thật như vậy đấy. Giả sử một người Do thái từ chối dâng một con chiên xem. Con đầu lòng của người ấy sẽ ngã chết trong đêm đó. Là một người Do thái không thể cứu được cái đêm định mệnh ấy. Ấy chẳng phải nguồn gốc dân tộc là vấn đề với Đức Chúa Trời đâu, mà là đức tin nơi phương thức cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã ấn định rồi kia.
Cũng thực như thế cho tín đồ trong Hội thánh. Bạn không được cứu qua việc đến với nhà thờ. Đi nhà thờ chẳng phải là vấn đề đâu. Khi Đức Chúa Trời nhìn xuống từ trời, việc duy nhứt là vấn đề, ấy là Ngài nhìn thấy huyết Chiên Con đã được bôi trên mày cửa lòng của bạn kìa.
4. Nếu bạn từ chối chiên con của Đức Chúa Trời, không còn có kế hoạch nào khác đâu.
Hãy xem xét hai người trong xứ Aicập vào buổi trưa trước cái đêm số phận kia. Một là người Aicập rất đạo đức, tốt lành; còn gã kia là một người Do thái phi đạo đức, bất lương. Không cứ cách nào đó hai người là bạn hữu với nhau, bất chấp những dị biệt văn hoá của họ. Người Aicập vui hưởng tình bạn của người Do thái cho dù người không hiểu tôn giáo lạ lùng nầy. Và người Do thái đã nhìn thấy nhiều lợi ích khi quen biết với một người xuất thân từ xứ Aicập. Và rồi họ nói chuyện với nhau về ngày ấy, người Do thái đã mô tả một số chi tiết trong kế hoạch của mình là giết một chiên con rồi bôi huyết lên mày cửa. Người Aicập chẳng thấy một mục đích gì trong sự việc lạ lùng nầy. Tại sao lại phí đi một chiên con xinh xắn (con tốt nhứt của mình) cho một nổ lực kỳ cục như thế chứ? Người Aicập đồng ý, nhưng lấy làm lạ trong một lúc về những trận dịch kinh khiếp kia đã giáng xuống rồi trên xứ sở của ông ta. Họ chia tay, hứa trao đổi thêm vào sáng hôm sau.
Nhưng cuộc trao đổi đó không bao giờ có được. Rồi buổi trưa hôm ấy, người Do thái kia thôi không giết chiên con tốt nhứt của mình. Vợ ông nài nĩ: “Anh ơi, đến giờ rồi. Đừng đợi cho tới khi quá trễ nhé”. Khi giờ đã định đến, người giết chiên con nhưng không giết với lòng sốt sắng. Ông ta chậm trễ cho tới giây sau cùng việc bôi huyết trên mày cửa. 10.30 đến rồi đi, kế đó 11.00 giờ, người vợ yêu dấu lo sợ chồng mình sẽ trễ quá lâu. Bốn đứa con của họ, kể cả đứa con trai đầu lòng, trông nó cũng giống như cha nó vậy, đã nhóm lại quanh cái bàn ăn cơm. 11.30 và người kia vẫn trì trệ. 11.45 và người ấy chưa làm gì hết. Vợ ông ta bật khóc trước mặt ông ta: “Làm sao ông liều mạng sống của con trai trưởng của ông như vậy chứ?” Miễn cưỡng lắm, người kia cầm lấy bó lá rồi nhúng huyết bôi lên mày cửa. Vợ ông mĩm cười, giờ đây lấy làm thoả mãn vì gia đình bà được an toàn.
Nửa đêm đến, chẳng có việc gì xảy ra thậm chí cả tiếng chó sủa cũng không có.
Không có huyết bôi trên mày cửa!
Nhưng trong xứ Aicập tiếng gào thét ghê rợn, nhiều tiếng kêu inh ỏi, than khóc, tiếng khóc của nhiều người nữ, những người cha bật khóc lớn tiếng. Chết! Khắp mọi nơi, Chết! Những đứa con trai, con gái đầu lòng đang gục chết trong giấc ngủ của chúng. Con gia súc đầu lòng đã ngã chết trong chuồng của chúng. Không một gia đình nào mà thiên sứ sự chết không đụng đến. Trong ngôi nhà của người Aicập đạo đức kỉnh kiền kia, thình lình kinh khủng và đột nhiên khóc than. Đứa con 15 tuổi của họ, kẻ kế tự mọi công việc của gia đình, hy vọng của họ trong tương lai, niềm an ủi của họ trong lúc tuổi già, đã thình lình thôi không thở nữa. Nó chết thật thình lình đến nỗi không có thì giờ để chào tạm biệt.
Tại sao nó chết chứ? Vì không có huyết bôi trên mày cửa!
Nhưng sẽ ra sao nếu người Aicập có bôi huyết còn người Do thái kia không chịu bôi? Khi ấy vai trò sẽ được đảo lại.
Chính huyết của Chiên Con tạo ra sự khác biệt. Đối với những ai chối bỏ huyết, Đức Chúa Trời không còn có kế hoạch cứu rỗi nào khác nữa.
Bạn Đang Cần Một Chiên Con!
Bạn đang cần một Chiên Con! Chiên Con ấy sẽ thoả mãn mọi đòi hỏi mà Đức Chúa Trời đặt ra ở Xuất Êdíptô ký 12. Chiên con phải chịu chết. Và bạn phải bôi huyết trên mày cửa lòng của bạn. Nghĩa là, bạn phải tin cậy nơi huyết để tội lỗi bạn được tha thứ.
Bạn sẽ tìm đâu được một chiên con ấy?
Hãy nhìn xem thập tự giá! Hãy nhìn vào tình trạng đổ huyết của Con Đức Chúa Trời! Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi của thế gian đi!
Chúa Jêsus là Chiên Con mà bạn đang có cần. Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời cho tội lỗi của bạn.
Hãy để cho dân sự của Đức Chúa Trời vui mừng vì Chiên Con của Đức Chúa Trời đã hy sinh vì họ. Chúng ta hãy tỉnh táo trong năm nay vào thời điểm Giáng sinh với sự nhận biết rằng Con Trẻ nằm trong máng cỏ ra đời để chịu chết.
Hãy ngủ ngon đi, hỡi Chiên Con của Đức Chúa Trời. Hãy rúc vào ngực của mẹ Ngài. Con đường từ thành Bếtlêhem dẫn tới thập tự giá.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét