Thứ Ba, 20 tháng 7, 2010

Xuất Êdíptô ký 8:9-10: "Thêm Một Đêm Với Bầy Ếch Nhái"



THÊM MỘT ĐÊM VỚI BẦY ẾCH NHÁI
“Môi-se bèn tâu cùng Pha-ra-ôn rằng. Xin hãy định chừng nào tôi phải vì bệ hạ, đầy tớ cùng dân sự bệ hạ mà cầu khẩn Đức Giê-hô-va, để trừ ếch nhái lìa khỏi bệ hạ và cung điện, chỉ còn dưới sông mà thôi. Vua đáp rằng. Đến ngày mai” – (Xuất Êdíptô ký 8.9, 10).
Ếch nhái có ở khắp mọi nơi! Ếch nhái trong phòng ngủ, ếch nhái trong bếp, ếch nhái trong phòng khách, ếch nhái trong lò hấp bánh, ếch nhái trong máng nhào bột! Đức Chúa Trời đã phán: “Nếu ngươi không tha cho [dân Isarel) đi, nầy ta sẽ giáng tai nạn ếch nhái khắp bờ cõi ngươi!” (Xuất Êdíptô ký 8.2). Đức Chúa Trời giữ lời của Ngài! Hãy nhìn người phụ nữ Ai cập kia xem, bà ta đang mở lò hấp bánh của mình; bà ta la thất thanh lên! Bầy ếch nhái đang nhảy ra! Có gã kia đang vén chăn để lên giường ngủ, và — bầy ếch nhái nằm ngổn ngang trên giường của anh ta! Người kia đang mặc quần áo mình, có cái gì trong mấy cái túi của anh ta vậy? Ếch nhái! Hãy xem mấy thiếu niên Ai cập đang chơi bóng dọc theo con đường đi đến trường kìa, ếch nhái chen chúc nhau (thay vì bùn) giữa mấy ngón chân của chúng! Ếch nhái trong cung điện, và ếch nhái trong túp lều của những kẻ nghèo khổ. Nhái nhỏ, ếch to! Tiếng ồn ào làm cho điếc tai! Ếch nhái ở trong nhà, ếch nhái ở trong sân — hàng ngàn ếch nhái đã chết chất đống như những ngọn núi có tới hàng triệu con ra từ dòng sông để kiếm chỗ đứng của chúng!
Sau cùng Pharaôn không còn chịu được nữa. Ông cho đòi Môise, tôi tớ của Đức Chúa Trời: “Hãy cầu nguyện Đức Giê-hô-va, để Ngài khiến ếch nhái cách xa ta và dân sự ta; thì ta sẽ tha dân Hê-bơ-rơ đi tế Đức Giê-hô-va”. Môise quá đỗi vui mừng. Ít nhất thì Pharaôn cũng đã biết suy nghĩ đấy chứ! Sau cùng Pharaôn cũng đã được biến đổi! Vì vậy Môise nói: “Xin hãy định chừng nào tôi phải vì bệ hạ, đầy tớ cùng dân sự bệ hạ mà cầu khẩn Đức Giê-hô-va, để trừ ếch nhái lìa khỏi bệ hạ và cung điện, chỉ còn dưới sông mà thôi”. Pharaôn đáp: “Đến ngày mai!”
Tôi không thể hình dung có con ếch nào ra đi! Ếch nhái trong thức ăn, trong giường ngủ, trong quần áo, trong khắp nhà cửa — và Đức Chúa Trời đã sẵn sàng dời đi ếch nhái ngay tức khắc; phần quyết định dành cho Pharaôn. Ông ta nói: “Đến ngày mai!” “Hãy cho ta thêm một đêm với bầy ếch nhái!” Tại sao ông ta lại chọn thêm một đêm với bầy ếch nhái chứ?Pharaôn đáp: “Đến ngày mai”. Còn “Đức Thánh Linh phán rằng: Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, thì chớ cứng lòng” (Hêbơrơ 3.7, 8). Hãy suy nghĩ điều đó xem. Pharaôn đáp: “Đến ngày mai!” Đức Thánh Linh phán: “Ngày nay!” Chúng ta nổi tiếng vì những gì chúng ta sẽ làm ở NGÀY MAI! Hãy rao giảng cho Cơ đốc nhân về sự đầu phục trọn vẹn. Cơ đốc nhân biết mình sẽ đầu phục. Cơ đốc nhân công nhận rằng mình đã được mua bằng một giá rất cao (I Côrinhtô 6.20). Cơ đốc nhân biết rõ một đời sống tận hiến, đầy dẫy Đức Thánh Linh là việc phải lẽ nhất mà một Cơ đốc nhân có thể tận hiến cho Đức Chúa Trời. Vì vậy người hoạch định phải đầu phục, người dự tính phải tan vỡ với thế gian, người dự trù phải trở thành người dắt đưa nhiều linh hồn về với Chúa – NGÀY MAI! Luôn luôn là NGÀY MAI! “Hãy ban cho tôi thêm một đêm với bầy ếch nhái, thêm một đêm với đời sống Cơ đốc phung phí, thất bại!”
Hãy nài kẻ tái phạm kia quay trở lại với Đức Chúa Trời. Hắn rất thường công nhận: “Ờ được thôi, ông truyền đạo ơi, chắc chắn tôi phải quay trở lại rồi đó. Đức Chúa Trời vốn biết tôi chẳng thấy gì hơn là đau khổ và buồn rầu kể từ khi tôi xây lưng lại với Ngài. Tôi đong đầy đời sống khốn khổ nầy. Tôi đã bịnh tật, buồn rầu, bối rối, và thất bại kể từ khi tôi ra khỏi mối tương giao với Chúa. Tôi đã nếm trải. Tôi sẽ quay trở lại với Đức Chúa Trời!” Và quí vị nói: “Thiệt là kỳ diệu! Chúng ta hãy quì gối xuống cầu nguyện và ổn định vấn đề ấy ngay bây giờ”. Nhưng kẻ tái phạm kia nói: “Được thôi, nhưng không phải ngay giờ nầy đâu. Tôi sẽ lo vấn đề đó vào ngày mai”. Hắn muốn thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái, thêm một đêm nữa với những thèm khát nhục dục của hắn, thêm một đêm nữa với sự thoả hiệp và với rượu chè, vui đùa với bạn bè của hắn, thêm một đêm nữa với lá cờ ủ rủ chán chường — thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái! Trong thành phố Nữu Ước một thiếu niên 15 tuổi sống trong ống cống bên dưới các đường phố của thành phố ấy. Anh ta có vấn đề với cha của mình, anh ta cảm thấy mình chẳng còn muốn sống ở nhà nữa, và đã đến ngụ trong một ống cống thật lớn đã bị bỏ hoang lâu rồi. Cảnh sát tìm gặp anh ta hai tuần sau khi đang nằm ngủ trong một đường cống cũ ấy, anh ta đang tìm cách nấu nướng trên cái bếp dầu, làm bạn với bầy chuột trong một đường cống lớn! Anh ta đã sống như thế trong hai tuần lễ! Khi cảnh sát đưa anh ta về nhà, cha anh ta hỏi: “Sao, con trai, ta muốn tha thứ cho con vào ngày mai nếu con chịu về nhà!” Và kẻ tái phạm đã có nhiều hơn là hai tuần lễ sống trong ống cống của thế giới bất kỉnh, trong khi Cha trên trời ao ước muốn tha thứ cho anh ta rồi hôn lấy hôn để trên hai gò má đẫm nước mắt kia! Hãy mau mau trở về nhà với Đức Chúa Trời ngay bây giờ đi! “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (I Giăng 1.9).
Tội nhân bị hư mất cũng nài xin thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái! Người dẫn đưa linh hồn về với Chúa nói: “Sao không đến với Chúa Jêsus? Ngài sẽ tha thứ tội lỗi anh, Ngài sẽ giải quyết mọi vấn đề của anh, Ngài sẽ cất bỏ gánh nặng của anh, Ngài sẽ cứu lấy linh hồn anh!” Và tội nhân thường nhìn nhận rằng mọi điều quí vị nói đều là sự thật. Người ấy cần được cứu, và người ấy sẽ được cứu — ĐẾN NGÀY MAI! Chúa Jêsus đã có một kinh nghiệm với ba nhân vật “ngày mai” nầy trong Luca 9. Một người nói: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu tôi sẽ theo đó”. Đúng là một lời hứa đầy gan dạ, có phải không? Nhưng khi Chúa Jêsus phán: “Con cáo có hang, chim trời có ổ; song Con người không có chỗ mà gối đầu”, chẳng có ai nghe nói tới người nầy nữa. Hắn ta chẳng nghĩ suy gì về sự hy sinh và tình trạng hư mất. Vì vậy “thêm một đêm nữa” cho tôi “thoải mái” ở tại nhà!
Ngài phán cùng kẻ khác rằng: “Ngươi hãy theo ta” (câu 59). Nhưng anh ta đáp: “Lạy Chúa, xin cho phép tôi...” (cái rắc rối của anh ta ngay chỗ đó là — tôi trước!) “Lạy Chúa, xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Ngay lúc bây giờ đây, chẳng có gì sai với việc chôn cất cha của một người cả — nếu ông ấy đã qua đời; nhưng mục đích, ấy là Chúa Jêsus sẽ đi trước các thứ tình cảm khác kia. Và tôi có ý cho rằng cha của người nầy chưa chết. Tôi biết có nhiều người rất tin kính đối với cha mẹ của mình hay các người thân khác hơn là họ tin kính đối với Đấng Christ; quan tâm nhiều đến chỗ làm đẹp lòng con người hơn là Đức Chúa Trời! Nhiều người sử dụng ngày của Chúa để không có mặt ở Hội thánh và xa cách Đức Chúa Trời. Trở lại với nhà cửa vườn tược xưa, trở lại với việc “nhàn rỗi” quanh tật ăn uống và ngồi lê đôi mách vào ngày của Chúa trong khi linh hồn họ đã bị co cụm lại! “Xin cho phép tôi!” Và quí vị biết đấy, tôi đã nhìn thấy một số người thể ấy đã chôn cất cha mẹ hay đứa con nhỏ của họ hoặc ai đó trước khi họ đến phục theo Chúa và sống tốt đẹp! Vì vậy, Chúa Jêsus phán với người nầy: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; còn ngươi, hãy đi rao giảng nước Đức Chúa Trời”. Và người nầy quay lại “thêm một đêm nữa” với các thứ mộ bia và tang chế của đời nầy! Chúa Jêsus sẽ sử dụng chỉ những người nào bằng lòng đặt Đức Chúa Trời ở trên hết, và Ngài chỉ cứu những ai thực sự ăn năn sự vô tín của họ. Người thứ ba đã tình nguyện trở thành môn đồ: “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song.....”. Chữ “song” nầy chính là chỗ rắc rối của anh ta. Khi phê bình về câu nói nầy, Walter Hughes cho rằng có nhiều cái “song” ở chung quanh Hội thánh trung bình, quí vị sẽ tưởng quí vị đã ở trong một trại dê thay vì ở trong một chuồng chiên! Từng vị Mục sư đã nghe họ nói: “Tôi sẽ hát trong ca đoàn, SONG...” “Tôi sẽ đi nhóm đều đặn, SONG....” “Tôi sẽ ăn năn và được cứu, SONG...”. Quí vị nghe như thế từ cả hai: thánh đồ và tội nhân. “Tôi sẽ theo Ngài, SONG..” Vì vậy, người nầy đã nói: “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước...(ở đây chúng ta thấy một lần nữa - “tôi trước”). Đây là lý do tại sao có hàng triệu người vẫn còn là nô lệ cho bản ngã, cho tội lỗi và Satan.
Thiệt là dại dột khi gọi Jêsus là “Chúa” trong hơi thở nầy rồi nài xin cho “tôi trước” trong hơi thở kế đó! Anh ta nói: “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Chúa, song xin cho phép tôi trước về từ giã người trong nhà tôi”. Chúa Jêsus vốn biết rõ gia đình của người nầy nhiều hơn là người nầy biết nữa, và biết (chắc) rằng nếu họ níu lấy người, họ sẽ nói với người hãy rút lại quyết định của mình. Vì vậy Chúa Jêsus đã phán cùng người như sau: “Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời”. Tội lỗi rất giống với người nầy hôm nay. “Lạy Chúa, tôi sẽ theo Ngài, nhưng hãy để cho tôi thêm đúng một lần nữa, thêm một đêm nữa với câu lạc bộ, hay bàn đánh bạc, hoặc sàn nhảy, hay bên quán bia”, đúng “một đêm nữa với ếch nhái!” Và “thêm một đêm nữa” trở thành một đêm kinh hoàng không dứt, trong “bóng tối của bóng tối tăm cho đến đời đời!” Tôi thích những điều Rêbeca đã nói khi nàng đối mặt với quyết định về việc đi tức khắc với tôi tớ của Ápraham để trở thành cô dâu của Y-sác. (Giống như tội nhân đối mặt với quyết định phải tan vỡ với quá khứ rồi đến với Ngài, Đấng ấy chính là Ysác thiên thượng của chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ!). Tôi tớ của Ápraham đã được dẫn tới gặp Rêbeca. Rêbeca đã xách nước cho người nầy và bầy lạc đà uống nữa, (một thiếu nữ có được một người chồng qua công việc lao động) và bởi điều nầy tôi tớ trung thành kia nhận ra mình đã tìm đúng cô dâu rồi. Rêbeca và gia đình nàng đã nhìn thấy một số nữ trang tiêu biểu cho sự giàu có của Ysác. Họ đã bị bán trên món trang sức đó. Rêbeca đã chịu đi và đã trở thành cô dâu của Ysác.
Nhưng đêm đó mẹ của Rêbeca và người anh ruột của nàng, là Laban, đã tụm đầu họ lại với nhau. Cuộc trao đổi đại loại là như thế nầy: “Nhìn đây nè, giờ đây chúng ta không thể để cho Rêbeca dấn thân vào việc nầy. Rốt lại, nó chưa từng biết hình ảnh của nó trên trang báo xã hội của vùng Mesopotamia!” “Đúng đấy, và có ai nghe nói về một thiếu nữ như Rêbeca lấy chồng mà chẳng có một rương hy vọng, không có thậm chí cả chiếc áo cưới nữa”. Vì vậy, ở buổi điểm tâm, họ săn hỏi kẻ tôi tớ kia bằng những lời nầy: “Hãy cho người gái trẻ ở lại cùng chúng tôi ít ngày nữa, độ chừng mười bữa, rồi nó sẽ đi” (Sáng thế ký 24.55). (Giống như những người thân và bạn bè bất kỉnh thường hay trao đổi với tội nhân đừng đến với Đấng Christ!). Khi tôi tớ của Ápraham từ chối không để mình bị ngăn trở, họ nghĩ họ có thể dụ ngọt Rêbeca nên ở lại với họ; vì vậy họ nói: “Rêbeca, ‘con muốn đi cùng người nầy chăng?’“ (Sáng thế ký 24.58). Thế rồi Rêbeca đã đáp ngay: “TÔI MUỐN ĐI!” Không có một chữ “nếu”, “và”, cũng chẳng có một chữ “song” nào hết! Chẳng có việc len lén vòng qaunh về việc đi đó nữa! “Tôi muốn đi!” Tôi muốn chỗi dậy rồi đến với Chúa Jêsus! “Tôi muốn đi!” Không thêm một đêm nào với bầy ếch nhái nữa! Cảm tạ Đức Chúa Trời vì một quyết định giống như thế!
Tôi đã rao giảng bài nầy ở một Hội thánh thuộc thị trấn trong bang Florida. Nhiều thanh niên đã được cứu trong tuần lễ đó. Một số thanh niên thuộc trường đại học đã được cứu ngay trong đêm tôi rao giảng về bầy ếch nhái. Giữa vòng họ là một thiếu nữ rất đẹp đến từ một Hội thánh khác. Cô ấy là sinh viên lãnh đạo trong trường đại học. Sau buổi thờ phượng đêm hôm đó, cô ấy rất vui mừng nơi những gì Đấng Christ đã làm cho mình. Khi cô rời khỏi nhà thờ buổi tối đó, cô ấy đến nói với tôi, với cái nhắp nháy trên mắt: “Thưa Mục sư, sẽ chẳng có thêm một đêm nào với bầy ếch nhái nữa đâu ạ!” Tôi tin cô ấy sẽ làm đúng y như thế!
Giờ đây, tôi muốn đưa ra ba lý do tại sao QUÍ VỊ không dám qua thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái! Trong chỗ thứ nhứt, Bầy Ếch Nhái Có Thể Không Rời Đi Vào Ngày Mai! Quí vị biết đấy, chúng không đi đâu. Sự việc trông giống như viên quan cai trẻ trung kia sắp sửa được cứu vậy. Dương như chàng ta đã ở quá gần rồi. Nhưng chứng ung thư tham lam kia đang gậm nhấm linh hồn của anh ta. Anh ta quay đi và lìa khỏi Chúa Jêsus: “bước đi bộ buồn rầu lắm”, nhưng qua ngày sau nỗi buồn, đau khổ, bất hạnh, sự trống không hãy còn ở đó. Bầy ếch nhái đã không chịu bỏ đi!
Giôna đã mua vé đi Ta-rê-si đặng tránh khỏi mặt Đức Giêhôva (Giôna 1.3). Đức Chúa Trời đã phán: “Hãy đi đến thành lớn Ninive”, nhưng Giôna đã chọn “thêm một đêm nữa” trên đại dương xanh thẳm kia, thêm một đêm nữa đi theo đường lối của Giôna thay vì đường lối của Đức Chúa Trời. Đi như thế luôn luôn tạo ra nhiều rối rắm. Đức Chúa Trời đã sai đến một trận bão lớn. Con tàu cũ kêu cót két và than vãn, quay cuồng và thấy hiểm nguy ở trước mắt. Sự thể chắc chắn sẽ là hủy diệt — cho tới chừng họ ném Giôna qua boong tàu. Đức Chúa Trời đã sửa soạn một con cá lớn để nuốt Giôna. Vì vậy Giôna đã trở thành hành khách của chiếc tiềm thủy đỉnh đầu tiên trong lịch sử! Ông đã lên chiếc tiềm thủy đỉnh vùng Trung đông trong bụng của một con cá voi — và Giôna đã nhuốm bịnh! Nhưng ông không nhuốm bịnh giống như con cá voi nhuốm bịnh! Một kẻ tái phạm buồn nôn đến nỗi ngay cả con cá voi không thể giữ Giôna mãi được. Giôna phải được gọi là nhân vật khó tiêu hóa nhất trong Kinh Thánh! Sau cùng, ông bắt đầu kêu cầu cùng Đức Giêhôva. Đức Giêhôva cho con cá voi lên cạn và con cá voi cho Giôna lên cạn! Đức Chúa Trời ấn cái nút, con cá voi đã làm phần còn lại — và MỬA Giôna ra! Ông đã chạm lên đất khô — để đi tới thành Ninive! là nơi Đức Chúa Trời bảo ông phải đi đến trước hết! Nhưng chắc chắn ông đã tự cứu lấy mình thoát khỏi nhiều lo buồn nếu ông chỉ chú ý đến Đức Chúa Trời hầu khởi sự với Ngài! Bầy ếch nhái không chịu rời đi, một số những rối rắm khác đã hiện đến!
Tôi sẽ không hề quên chuyến đi đầu tiên đến nhà tù Pensacola — không phải là một bạn tù, mà là một khách viếng! Những bà trong cộng đồng truyền giáo của chúng tôi đã xuống vào những ngày thứ Hai để trò chuyện với các nữ tù phạm trong chiếc rào chắn, và sáng nay tôi cùng đi với họ để trao đổi với các nữ phạm nhân ở trong tù. Khi họ nói họ sẽ đi vào xà lim của giới nữ, tôi mong tìm được những mụ phù thủy bẩn thỉu, những kẻ bị bỏ rơi già nua nhếch nhác, họ đã phung phí sau nhiều năm tháng làm gái điếm và phạm tật xấu. Tôi rất ngạc nhiên khi tìm ra một xà lim đầy những cô gái tuổi thanh thiếu niên rất hấp dẫn! Người trẻ nhất mới có 14 tuổi. Lứa tuổi trung bình khoảng 17. Mấy “bà già” ở đó có lẽ chừng hơn 20. Đa số trong vòng họ đã bị bắt khi bị buộc tội làm gái nhảy loại vũ điệu khiêu dâm trên sàn nhảy vào ngày cuối tuần. Một thiếu nữ xinh đẹp khoảng 15 tuổi đã được tìm thấy lúc nửa đêm với khoảng 10 thủy thủ. (Khi tôi hỏi làm sao cô ta sống được một đời sống như thế, cô ta đáp: “Ồ, thưa Mục sư, tôi thích vũ điệu ấy”). Đúng thế, kìa họ ở đó — bẩn thỉu, nhà tù cũ dơ dáy, những cô gái nhếch nhác, loài rệp, bầy chuột (họ nói) đang chạy quanh dưới chân họ lúc đêm xuống, họ bước vào phòng vệ sinh chẳng có cánh cửa nào hết (mùi hôi thối thật là khủng khiếp!) Và cứ thế, khi chúng tôi rao giảng cho các cô gái nầy rồi thúc giục họ trở thành Cơ đốc nhân, khi chúng tôi nói cho họ biết những gì Chúa Jêsus đã làm cho họ, thể nào Ngài không những cứu giúp họ ra khỏi nhà tù, mà còn khởi sự sống phải lẽ trong cuộc sống và nhận biết sự hạnh phúc và sự tha thứ thật, họ đã cười toe toét rồi lắc đầu. Họ đã nếm trải tội lỗi và tư dục cũ giống như tội lỗi ấy. Vì thế, họ nói rất nhiều: “Không, cảm ơn! Hãy để cho chúng tôi thêm một đêm nữa với bầy chuột và loài rệp, thêm một đêm nữa trong ngục tù dơ bẩn, thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái!” Nhưng bầy ếch nhái không chịu rời đi vào ngày mai đâu. Mấy cô gái vẫn còn ở trong tù, hãy còn ở trong tội lỗi của họ, hãy còn đau thương, thống khổ, vẫn còn ở trong vòng nô lệ!
Charles E. Fuller đã rao giảng về đề tài: “Giờ Phấn Hưng”. Một người nữ Cơ đốc không thể đưa người chồng hay phạm tội đến nhà thờ, ở đó có chương trình cao đến nỗi ông ta cần phải lắng nghe bất luận ông ở chỗ nào trong nhà. Ông đã nổi giận dữ với Tin lành đến nỗi ông ta đã vác cái ghế trong nhà bếp rồi đập mạnh nó vào chiếc radio, làm cho nó vỡ tan ra thành nhiều mãnh. Ông ta làm cho giọng nói của Anh Fuller phải tạm thời im lặng, nhưng ông không thể làm cho tiếng của Đức Chúa Trời trong linh hồn phải im lặng được! Khi kết thúc bài giảng, cũng không làm sao kết thúc được nỗi đau thương trong tấm lòng của ông — bầy ếch nhái hãy còn ở đó! Ông ta không thể làm cho sự tin quyết tê liệt được và sau cùng ông ta đã được cứu. Sau đó, người bạn nghèo phải mua một chiếc radio khác!
Có nhiều tội nhân nói: “Không bao lâu sau đó, tôi đã ngồi thẳng lên, tôi đã trở thành một Cơ đốc nhân”, Hoặc: “Mục sư ơi, ông có thể kể như vậy đi; chúng tôi sẽ khởi sự đi nhà thờ không bao lâu sau khi tôi đứng vững”. Và, quí vị biết đấy, khi một số tội nhân nầy đến nhóm ở nhà thờ...khi hết thảy họ đều đứng vững được, ngay thẳng và kiên quyết như một tấm ván. Họ đã bị đặt vào một cái hộp 6 feet bề dài, và họ LĂN chúng vào trong nhà thờ, dựng đứng dậy ngay phía trên bàn thờ, với các bó hoa hết thảy đã được buộc ở chung quanh họ! Họ đã được vững vàng, nhưng lại quá trễ không làm được một việc gì để giữ họ ở ngoài địa ngục được! Nếu quí vị cứ đợi chờ những sự việc hết thảy họ đều được vững vàng và bầy ếch nhái đã ra đi trước tiên, quí vị sẽ KHÔNG BAO GIỜ đến với Đấng Christ! Hãy phục theo Ngài. Hãy để cho Ngài làm cho ngay thẳng, hay quí vị sẽ bị bẻ cong càng hơn nữa! Bầy ếch nhái có thể không chịu rời đi vào ngày mai. Một lần nữa, quí vị không dám qua thêm một đêm nữa với bầy ếch nhái vì Sự Tồi Tệ Có Thể Xảy Đến Ngay Chỗ Của Bầy Ếch Nhái!
Cũng thực như thế trong trường hợp của Pharaôn. Sau bầy ếch nhái thì tới chấy rận, ruồi, cào cào, ghẻ chốc, lửa, tối tăm — và sau cùng là sự chết của con đầu lòng trong từng gia đình người Ai cập! Đúng là một tai hoạ. Ôi, tội nhân có nhiều đau khổ thay! Sự kiêu ngạo đang cầm giữ con người không chịu phục theo Đấng Christ, mặc dù bầy ếch nhái đang hành hại người. Nhưng một ngày kia “Con mắt ngó cao của loài người sẽ bị thấp xuống, sự kiêu ngạo của người ta sẽ bị hạ đi...” (Êsai 2.11). Sự phán xét của Đức Chúa Trời chắc phải giáng trên tội lỗi rồi. Một việc còn tồi tệ hơn là bầy ếch nhái đến nữa!
Đối với một tội nhân, cái điều đáng kể tới, chính là sự tham lam — yêu mến tiền bạc, và nhiều thứ! Kinh Thánh vẫn còn rao báo: “Lòng yêu mến tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác” (I Timôthê 6.10). Vì tiền bạc mà một số lớn người ta đã “rơi vào chỗ buồn rầu khôn xiết”. Ngày nay tiền bạc – hạng người dại dột, lo tích lũy nhiều của cải, sẽ chễnh mãng đối với gia đình, sức khoẻ, con cái, đạo đức và thậm chí cả Đức Chúa Trời để kiếm cho được nhiều tiền. Họ dung chịu bầy ếch nhái trong lúc bây giờ, nhưng một ngày kia sự tệ hại xảy đến ngay chỗ của bầy ếch nhái! Ở một nông trại đáng yêu chúng ta tận hưởng một bữa ăn trước buổi tối thờ phượng phấn hưng. Có một bức hình chụp cậu bé trai tóc quăn tại bàn của phòng khách. Nhưng không thấy một em bé nào hết. Không một bước chân liếng thoắng nhỏ bé nào ở trong nhà. Bố mẹ dường như là Cơ đốc nhân tin kính, nhưng ở đấy có bầu không khí của sự buồn rầu. Ngôi nhà rất xinh đẹp, kho thóc gần như rất mới, to lớn. Tôi được vị Mục sư cho hay những người đó không còn đi nhóm lại nữa, họ lo kiếm tiền, làm giàu trên nông trại, và gần như thờ lạy hình tượng đến nỗi họ không còn đi nhà thờ nữa. Họ sống quá bận rộn, quá thoả mãn cho cái tôi của họ. Thế rồi bịnh tật đến, nhưng vẫn còn loạn nghịch. Rồi tai hoạ xảy tới. Kho thóc bị cháy tiêu khi người cha đi ngủ sớm, còn đứa con nhỏ của họ đã bị thiêu mất trong ngọn lửa — họ không biết nó có còn ở trong kho thóc hay không nữa!?! Sau cùng, bố mẹ, tán nát cõi lòng, biết hạ mình xuống, đến với Đức Chúa Trời, đem đời sống họ mà đầu phục, hiệp tác với Hội thánh, và đã hầu việc Đấng Christ — nhưng đúng là phải trả một giá quá đắt! Họ đã xưng nhận họ đã từng được biến đổi. Có thể họ đã được biến đổi. Nhưng Đức Chúa Trời phán: “Tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi, sự bội nghịch ngươi sẽ trách ngươi, nên ngươi khá biết và thấy rằng lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và chẳng có lòng kính sợ ta, ấy là một sự xấu xa cay đắng, Chúa, là Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Giêrêmi 2.19). Ồ, tôi nói cho quí vị biết, một việc tệ hại hơn sẽ đến trong chỗ của bầy ếch nhái!
Với Bên-ha-đát, đó là sự say sưa! Ông ta đã uống rượu say sưa trong cung điện, Kinh Thánh nói cho chúng ta biết. Hạng tội nhân sẽ không chịu tin Đức Chúa Trời khi Ngài nói cho chúng ta biết: “Rượu khiến người ta nhạo báng, đồ uống say làm cho hỗn hào...” (Châm ngôn 20.1). Nhưng người uống rượu say thường chạy thẳng vào sự phán xét của Đức Chúa Trời. Quân đội Syri đã gánh chịu thất bại và sau đó chính Bên-ha-đát đã bị đẩy vào sự phán xét. Một việc còn tệ hại hơn đang xảy đến! Khi dại dột với rượu thì quí vị sẽ thấy ngay thôi! Tôi có nghe nói Bill Rice thuật lại về cô gái mới bước vào đời, cô ta đến dự một bữa tiệc “ngoài trời” ở Chicago. Đến giữa đêm cô ta cùng những người bạn đã say mèm, họ mạo hiểm vào trong sở thú để chơi đùa với các loài thú vào lúc 3 giờ sáng. Họ bắt đầu trêu chọc mấy con gấu. “Cô gái mới bước vào đời” nầy đang vẫy tay qua mấy chấn song giả khóc nhè. Con gấu thình lình cặp chặt lấy cánh tay của cô ta rồi siết chặt cô ta vào mấy chấn song khi nó bắt đầu nhai ngấu nghiến thịt từ bàn tay và cánh tay của cô ta! Ngay khi ấy, mấy người bạn say rượu kia chạy đến cứu và một chiếc xe cứu thương, con gấu đã xé rách thịt ra khỏi tay của cô ta, lột sạch cho tới vai. Cánh tay của cô ta bị cắt bỏ cho tới vai. Qua cuộc sống, cô ta phải mang lấy một tay áo trống trơn như một sự nhắc nhớ một việc tồi tệ đã xảy đến ngay chỗ của bầy ếch nhái!
Lý do thứ ba và là sau cùng cho thấy tại sao quí vị không dám qua thêm một đêm với bầy ếch nhái nữa. Ngày Mai Sẽ Không Bao Giờ Đến đâu! Đức Chúa Trời phán: “Chớ khoe khoang về ngày mai” (Châm ngôn 27.1). Kinh Thánh chép: “mà nếu ta còn trễ nải sự cứu rỗi lớn dường ấy, thì làm sao tránh cho khỏi được?” (Hêbơrơ 2.3). Nước Mỹ ai cũng biết là vùng đất của sự chết thình lình! Khoảng 831 linh hồn đã vị đùa vào cõi đời đời rất thình lình chỉ trong ngày lễ Giáng sinh vừa qua, những cái chết không đúng lúc! Trong số đó, 621 người trong số họ là thảm hoạ về xa lộ. Tôi rất kinh ngạc khi đọc báo Atlanta mới đây cho thấy rằng giữa 400 và 500 người Mỹ bị đùa vào trong cõi đời đời do sấm sét hàng năm. Khi Đức Chúa Trời gọi tới số của quí vị, quí vị phải đi thôi! Đối với quí vị, ngày mai sẽ không bao giờ đến đâu! Cái điều đem đến sự an ninh là ăn năn và xây trở lại với Đức Chúa Jêsus Christ ngay bây giờ! Ngài đã chịu chết để cứu lấy quí vị. Ngài bằng lòng giải cứu quí vị. Ngài không bằng lòng để cho một ai bị hư mất. Ngài chẳng lấy làm vui nơi sự chết của kẻ ác. Nhưng Đức Chúa Trời tỏ ra sự kiên nhẫn! Ngài phán: “Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn!” (Sáng thế ký 6.3). Ngài sẽ giải cứu quí vị nếu quí vị đến với Ngài với đức tin đơn sơ ngay bây giờ: “...người nào đến cùng ta, ta sẽ chẳng bỏ ra ngoài đâu” (Giăng 6.37). Đức Chúa Trời đã làm phần CỦA NGÀI. Ngài đã sai phái Con của Ngài. Huyết đã đổ ra. Cái giá đã được trả. Phần kế tiếp là phần của quí vị! Hãy tin cậy Ngài hôm nay: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời” (Giăng 3.36).
Torng một thành phố bang Tennessee, có bà kia đến nghe tôi giảng. Bà ta đã nói cho vị Mục sư cùng nhiều người khác biết bà ta sẽ tiến tới phía trước để cầu nguyện. Bà ta chưa hề đưa ra một lời tuyên xưng đức tin công khai. Bà ta đã ngồi trong buổi thờ phượng. Bà ta đã nghe giảng Tin lành. Bà ta đưa tay mình lên trong sự cầu nguyện. Nhưng bà ta không chịu tiến lên phía trước. Ngày hôm sau, lúc giữa trưa, vị Mục sư đã được gọi đến khi dùng bữa tối, rất khẫn cấp. Người phụ nữ kia đã được đưa vào bịnh viện sáng hôm ấy và đã qua đời ngay trước bữa ăn trưa! Ngày mai không bao giờ đến! Ở Chattanooga một thiếu niên 16 tuổi đang ngồi thay ruột xe. Ruột xe nổ ngay mặt cậu ta. Hai ngày sau họ đến dự đám tang của cậu ấy. Ở Birmingham một phụ nữ đang lo cắt cỏ, thình lình dây ăng-ten TV rớt xuống từ mái nhà giật bà ta chết ngay trước thềm nhà. Ở Pittsburgh ngày hôm kia một chiếc xe tải bị gãy gập xuống và ném một đống thép ngang qua một ngôi nhà kia, làm cho hai phụ nữ chết liền tại chỗ. Một vị Mục sư ở đây, tại Jacksonville (nơi tôi tham dự kỳ phấn hưng) mới hôm qua chỉ cho tôi xem một địa điểm chiếc máy bay chệch khỏi đường băng cuối tháng Chạp rồi, làm cho 17 linh hồn đi vào cõi đời đời! Vùng đất của sự chết thình lình.
Khi tôi làm Mục sư chủ toạ trong một thành phố của bang Florida, tôi có trao đổi với một người bị hư mất về Đấng Christ. Vợ của ông ấy là một tân tín hữu, cảm thấy gánh nặng về người chồng tội nhân của mình. Ông ta đã uống rượu say sưa và sống một đời sống buông thả. Tôi bèn đến gặp ông ấy. Khi đó ông ta chưa chịu tiếp nhận Đấng Christ, nhưng ông ta chịu đến nhà thờ vào Chúa nhựt tới. Các nhân viên tiếp tân đã mời ông ta ngồi ở hàng ghế phía trước. Trời không ấm lắm, nên ông ta không mặc áo choàng. Sự tin quyết đã viết ra trên gương mặt ông ta. Ông ta đã đưa tay lên cầu nguyện vào cuối bài giảng. Ông ta biết mình phải đến với Đấng Christ. Nhiều người khác cũng đã đến với Ngài. Ông ta bám chặt vào chỗ ngồi, đau khổ, nhưng ông ta không chịu bước lên. Tại cửa ra vào, khi ông ta rời khỏi nhà thờ, tôi giục ông ta ở lại với tôi để định liệu vấn đề được cứu rỗi. Tôi nhắc cho ông ta nhớ rằng giờ đây ông ta đã biết Đấng Christ đã chịu chết vì tội lỗi của ông ta và sẽ cứu ông ta nếu ông ta bởi đức tin mà kêu cầu Chúa. Mọi sự ông ta sẽ làm là hứa trở lại với Hội thánh. Rồi sau đó ông ta sẽ được cứu vĩnh viễn. Ma quỉ thường giục một tội nhân hứa một điều gì đó khi ông ta chạy khỏi Đức Chúa Trời.
Ông ta đã không đến vào đêm hôm ấy hay ngày Chúa nhựt kế đó. Tôi đến tìm ông ta nhưng không gặp được. Tôi đã cố gắng trở lại nữa, nhưng ông ta tránh né tôi. Họ nói ông ta đã đi uống rượu và “sống với rượu” y như trước đó. Và rồi sự việc đã xảy ra. Một sáng kia ông ta đang lái xe chở đầy sĩ quan xuống căn cứ không quân cách đó 40 dặm. Đây là phần hành của ông ta. Ông ta lái xe thật nhanh. Thình lình ông ta đổi hướng gấp vì sợ đụng một con heo đi lạc. Bánh xe bên phải đụng vào thành cầu và cả chiếc xe bật lăn nhiều vòng. Tay lái đập vào ngực, ông ta chết ngay tức khắc. Ông ta đã nói NGÀY MAI — nhưng “ngày mai” không bao giờ đến! “Nầy, HIỆN NAY là thì thuận tiện....” Đức Thánh Linh phán: “NGÀY NAY!”
Quí vị đã nghe lời kêu nài hãy tin cậy Đấng Christ để được cứu ngay hôm nay. Giờ đây, cho phép tôi nài nỉ quí vị hãy đem tấm lòng mình đầu phục Đấng Christ. Chẳng lẽ ngay chính giờ phút nầy quí vị không quyết định mình không nên qua một đêm nữa với bầy ếch nhái tội lỗi sao? Chỉ tuyên xưng mình là một tội nhân bị hư mất và cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ mọi tội lỗi của quí vị vì cớ sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét