Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Luca 2.8-17: "Mấy gã chăn chiên: Giọng công bố"




Mấy gã chăn chiên: Giọng công bố
Luca 2.8-17
Ai đó vậy? Sao chứ? Quí vị muốn gì? Ồ. Được rồi, hãy đến gần ngọn lửa kia đi. Tối nay trời lạnh lắm. Ngồi xuống đi.
Chúng tôi chẳng có nhiều khách ở đây đâu. Không ai quấy rầy chi mấy gã chăn chiên. Chúng tôi là giai cấp bị khi dễ nhất trong xứ Israel. Ồ, hầu hết mọi người sống trên đường phố ở trong thành đều chẳng có việc chi phải làm với chúng tôi cả. Họ nghĩ bọn tôi đều là trộm cướp hết đấy. Tôi không có ý nói tới những ai đang vắng mặt, mà được thôi, đừng lo về ví tiền của quí vị trong khi quí vị đang ở gần với nhóm của chúng tôi.
Có phải mùi hôi hám làm cho quí vị thấy khó chịu không? Bản thân tôi chẳng để ý mấy tới chuyện đó. Quí vị hiểu là chúng tôi đã sinh sống suốt thời gian đều ở ngoài đồng đấy thôi. Không có nhiều cơ hội để tắm rửa đâu. Dĩ nhiên, với nhiều con chiên như thế nầy, phải thôi, ít nhất là chúng tôi đang ở trong bầu không khí rộng mở.
Tôi thích những đêm tối mát mẻ như thế nầy, khi sao trời dày đặc như thế kia. Tôi không muốn đánh đổi để vào sống trong thành thị, mặc dù đi lên đền thờ thường xuyên thì có điều vui thích lắm. Sao chứ? Quí vị nghĩ rằng vì chúng tôi là những kẻ chăn chiên, chúng tôi không thể yêu mến Đức Chúa Trời sao? Còn Vua David thì thế nào? Ông ấy là một người chăn chiên, ông ấy là một người vừa lòng Đức Chúa Trời. Ông ấy yêu mến đền thờ. Hoặc có phải quí vị muốn ai đó xem thường chúng tôi vì chúng tôi không tuân thủ mọi truyền khẩu tôn giáo của họ chăng? Có thể xem chúng tôi là những người Pharisi đi! Nhưng chúng tôi chỉ ở ngoài đồng trống mà thôi.
Quí vị muốn gì nơi chúng tôi chứ? Mười hai giọng nói trong dịp Lễ Giáng sinh ư? Quí vị muốn biết chúng tôi có phải là một trong mười hai giọng ấy hay không chứ gì? Thưa phải, chúng tôi là giọng công bố đây. Chúng tôi nhớ tới đêm hôm đó. Làm sao chúng tôi quên được chớ? Một gã chăn chiên không có nhiều vui thú trong cuộc đời của mình đâu! Ngày giờ của chúng tôi đã bỏ ra để sống với bầy súc vật, lúc nào cũng phải lo tìm một ít chỗ có cỏ cho chúng ăn. Đến tối, chúng tôi đưa bầy chiên vào một nơi ẩn trú nào đó, một cái chuồng rào kín hay một cái ràng chiên, và chỉ đảo mắt lo canh chừng mà thôi. Vẫn có những con sư tử cùng nhiều thú hoang khác trong nhiều nơi kiểm hóc.
Đêm hôm ấy cũng như bao đêm khác. Chúng tôi mệt mõi lắm. Bầu trời thật im ắng. Ngọn lửa cháy vừa đủ để chống chọi với cái lạnh. Thình lình, bóng tói tăm sáng rực hẳn ra với một tia chớp có thể làm cho quáng mắt. Chúng tôi sợ hãi sụp hết xuống đất, hoàn toàn bị chế ngự. Tôi nhớ đã che đầu và mắt mình lại. Ôi khủng khiếp quá. Có ai đó, có cái gì đó đang hiện diện tại nơi ấy! Đó là thiên sứ của Đức Chúa Trời. Thiên sứ nói cho chúng tôi biết lúc đầu hôm bữa tối ấy, ở bên kia những cánh đồng, trong làng Bếtlêhem, Đấng Mêsi mới vừa ra đời – là Đấng mà hết thảy dân tộc chúng tôi đều trông đợi. Ngài còn bảo chúng tôi biết cách để nhận ra Đấng ấy nữa – hãy đi vào làng Bếtlêhem rồi gặp Ngài đang nằm trong máng cỏ, quấn bằng khăn. Tôi đã suy nghĩ tới chuyện kỳ lạ đó. Có phải đấy là nơi Đấng Mêsi ra đời không? Ngài không phải bọc bằng khăn và nằm trong máng cỏ! Ngài phải được bọc bằng loại vải màu tía trong cung đền của nhà vua hay có thể ở trong chính đền thờ mới phải. Nhưng tôi còn biết điều chi nữa? Tôi chỉ là một gã chăn chiên thôi!
Phải, chúng tôi mới chỉ bắt đầu phục hồi lại ý thức khi vị thiên sứ cùng kết với cả đạo binh thiên sứ ở trên trời. Thình lình bầu trời đầy dẫy với các thiên sứ. Họ đang ngợi khen Đức Chúa Trời, họ nói: "Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao!" Còn lớn tiếng hơn cả sấm sét chạy là giọng nói ầm ầm của đoàn thiên binh thiên sứ nầy. Khi ấy họ đã nói xong. Giống như họ đã đến một cách mau chóng, các thiên sứ cũng ra đi mau như vậy. Bầu trời tăm tối và im ắng lại như trước. Chúng tôi ngước mắt nhìn nhau. Chúng tôi không thể ở lại đó được. Chúng tôi phải rời khỏi cánh đồng mà đi thẳng vào làng Bếtlêhem để tự mình tìm gặp Đấng Mêsi.
Ngôi làng rất đông các khách viếng, họ đã ở trong khu chợ để tham gia vào cuộc điều tra dân số khá quan trọng của người La mã. Cho nên có đông người lắm! Chúng tôi tới ngay chỗ quán trọ, ra phía chuồng ngựa. Chúng tôi có mặt ở đây, một bọn chăn chiên bẩn thỉu. Một người đờn ông chúng tôi nghĩ là cha của đứa trẻ chặn chúng tôi lại không cho vào bên trong cánh cửa, chắc ông ta bảo hộ sự riêng tư của vợ mình, tôi nghĩ thế. Chúng ta ra sức giải thích về các thiên sứ, và rồi có một giọng nhỏ nhẹ của mẹ đứa bé gọi: "Được rồi, Giôsép ơi. Hãy để cho họ vào đi".
Chúng tôi bèn quay trở lại chuồng ngựa, và ở đó là một trẻ sơ sinh. Đây là điều khiến cho các thiên sứ cất tiếng lên mà ca hát! Nhưng một gã chăn chiên thì có thể làm được gì đây? Chúng tôi phủ phục xuống hai đầu gối mình trước mặt Ngài. Tôi không muốn đánh đổi giây phút ấy một khi tôi là thầy tế lễ có mùi thơm tho nhất trong đền thờ. Chúng tôi đã cố lì trong một thời gian ngắn và trò chuyện với bố mẹ đứa bé. Một lần nữa tôi nói cho họ biết chúng tôi đã gặp một thiên sứ cùng mọi điều Ngài bảo chúng tôi biết về đứa trẻ, và Ngài nói cho chúng tôi biết con trẻ ấy sẽ nằm trong một chiếc máng cỏ. Đấy là những gì chúng tôi biết đây là Christ, là Chúa. Tôi nói: "Và khi đó, vị thiên sứ đã hiệp với muôn vàn thiên binh thiên sứ khác, hết thảy đều ngợi khen Đức Chúa Trời vì cớ con trẻ nầy. Chúng tôi phải đến đây và bản thân chúng tôi phải nhìn thấy. Chúng tôi cũng phải ngợi khen Ngài nữa".
Được thôi, bây giờ quí vị đang suy nghĩ tới loại giọng nói nghe như dại dột lắm, có phải không? Mấy gã chăn chiên à? Sao Đức Chúa Trời lại bày tỏ sự Đấng Mêsi ra đời cho mấy gã chăn chiên trước hết thế? Tôi sẽ nói cho quí vị biết. Tôi không biết đâu! Nhưng tôi chẳng lằm bằm mà chi. Chúng tôi đã hoàn tất xong việc làm chứng lại và chuồng ngựa kia trở lại với yên tĩnh. Hết thảy chúng tôi đều nhìn xem con trẻ đó. Rồi vì một lý do nào đó, tôi nghĩ tới bốn người phung ở xứ Samari. Có thể quí vị cũng biết câu chuyện ấy. Một ngày kia trong lịch sử của chúng tôi, quân Syri đến bao vây thành Jerusalem và thành phố đang đói khát. Vì vậy bốn người phung nầy mới quyết định rời khỏi thành Jerusalem rồi tự phó mình cho quân Syri với hy vọng kiếm được chút chi để mà ăn. Nhưng khi họ đến tại trại quân của kẻ thù, mấy người phung mới thấy trại quân ấy trống trơn. Hết thảy quân Syri đã đi đâu mất hết rồi. Mấy người phung đó mới đi từ túp lều nầy sang túp lều khác và đã tìm được đồ ăn, thức uống cùng quần áo nữa – đủ mọi thứ mà họ có cần! Họ cũng lấy làm lạ nơi vận may của mình. Một trong mấy người phung ấy nói: "Đây là ngày của những tin tức tốt lành, há chúng ta sẽ giữ nín lặng sao". Vì vậy họ đã quay trở lại thành phố để thuật lại cho mọi người biết các tin tức tốt lành của họ.
Đấy là những gì tôi đã cảm nhận được. Chúng tôi, chẳng có ai ưa thích và chẳng khá gì trước mắt nhiều người hơn mấy người phung kia, đã tìm gặp Con trẻ Christ. Nhiều người khác cũng phải được nghe những tin tức tốt lành nầy. Vì vậy chúng tôi rời khỏi chuồng gia súc ấy rồi thuật cho mọi người biết chúng tôi đã gặp Cứu Chúa đã ra đời tại làng Bếtlêhem. Đấy là chỗ mà chúng tôi đã trở thành những giọng công bố. Không cứ cách nào đó, Đức Chúa Trời đã quyết định rằng chúng tôi – mấy gã chăn chiên đơn sơ, có mùi hôi hám – lại là những con người phải rao truyền lời nói rằng Cứu Chúa đã hiện đến. Những người Pharisi tại thành Jerusalem, họ đã nghiên cứu sách luật và tuân giữ hết thảy điều răn, họ không phải là người đầu tiên nghe thấy các tin tức nầy. Mấy gã chăn chiên, cô đơn và thấp hèn, đã trở thành những giọng công bố. Chúng tôi đã hợp mọi giọng nói của mình cùng với mười hai giọng làm chứng về Lễ Giáng Sinh.
Chúng tôi là những giọng nói công bố. Quí vị sẽ không công nhận tên tuổi của chúng tôi, nhưng đêm hôm ấy Đức Chúa Trời đã đặt những kẻ rốt rồi lập họ lên làm đầu. Đầu tiên công bố các tin tức đầy vui mừng phước hạnh.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét