Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Luca 2.25-35: "Simêôn: Giọng bình an"



Simêôn: Giọng bình an
Luca 2.25-35
Không một ai giống như họ. Chúng tôi không muốn họ đến đây. Nhưng trông họ muốn ngụ lại đây kìa. Họ đã sống ở đây 60 năm rồi. Khi vị Tướng của họ là Pompeii, tiến quân vào chiếm lấy xứ, hết thảy chúng tôi trong xứ Giuđê đều biết rằng chúng tôi đã rơi vào tay một cường quốc vô địch về mặt quân sự. Tôi chỉ là một đứa trẻ, nhưng tôi nhớ hết.
Quân La mã đã tóm lấy xứ sở của chúng tôi bằng cái nắm thật chặt nơi cổ họng. Họ dựng lên nhiều trại quân, xây dựng nhiều đồn lũy, và đào nhiều cảng biển nhân tạo. Trong một số phương thức, những kẻ chinh phục đã đối xử chúng tôi với sự tôn trọng. Họ cấp phép đặc biệt để chúng tôi có thể tiếp tục thực thi tôn giáo của mình. Họ để cho chúng tôi xây dựng nhiều nhà hội. Họ không buộc chúng tôi phải vi phạm ngày sa bát. Chúng tôi được miễn trừ không phục vụ trong quân đội của người La mã.
Nhưng về tổng thể, họ hành động với sự kiêu căng ngạo mạn. Họ đã sung công nhà cửa, hãm hiếp phụ nữ và làm suy đồi xứ sở của chúng tôi. Họ trừng phạt kẻ nào chống cự không chút thương xót. Hạng nô lệ và người ngoại bang bị đóng đinh trên thập tự giá, cây thập tự của người La mã đã được trồng trên khắp thế giới của vùng Địa Trung Hải. Làm sao kẻ bị áp bức như thế nói bình an cho được chớ?
Ở đâu cũng có binh lính. Đồn lũy. Ngựa chiến. Gươm giáo. Xe bọc sắt. Sẽ chẳng có hoà bình trong vùng đất nầy bao lâu Rôma còn cai trị. Một vài người trong xứ sở chúng tôi dám mưu phản làm loạn. Những người cuồng tín. Nhiều người đã chết. Tôi e còn có nhiều nữa. Nhưng Rôma và những con quái vật giống như nó, những kẻ cuồng tín kia sẽ chẳng thắng hơn được đâu. Vì vậy, có nhiều người khác trong xứ sở chúng tôi đã tìm hoà bình bằng con đường khác.
Tôi thuộc về một nhóm nhỏ những người nam người nữ đang tìm kiếm giải pháp của Đức Chúa Trời cho nan đề Rôma. Chúng tôi tin Ngài có một giải pháp. Các vị tiên tri của chúng tôi đã viết rằng ngày kia chính mình Đức Chúa Trời sẽ đưa Israel tới chỗ hoà bình, vui vẻ và phước hạnh. Vì vậy chúng tôi không hoạch định những cuộc tấn công đột kích và chúng tôi không cất giấu các loại vũ khí, nhưng chúng tôi biết trước với lòng sốt sắng một ngày kia Israel sẽ được giải phóng ra khỏi bầy chó Rôma nầy. Ngày ấy sắp xảy đến. Đức Chúa Trời đã hứa như thế.
Chúng tôi nài xin Ngài mỗi ngày bằng những lời cầu nguyện của chúng tôi. "Lạy Đức Giêhôva, hãy lắng nghe ý tưởng của chúng con. Xin hãy chú ý đến tiếng kêu cầu của chúng con. Hãy nghiêng tai qua nghe lời cầu nguyện của con, những lời ấy không ra từ môi miệng dối trá đâu. Nguyện sự xét nét của chúng con ra từ sự hiện diện của Ngài. Nguyện mắt Ngài nhìn xem với sự vô tư". Thi thiên của David vốn có sức mạnh trút ra loại bình an của Đức Chúa Trời. Đây là cách chúng tôi trông đợi sự yên ủi của Israel. Đây là cách chúng tôi phụ giúp vào việc tỏ ra sự yên ủi đó.
Vì vậy, tôi là giọng bình an. Tôi là Simêôn đây! Tôi không phải là thầy tế lễ. Thậm chí tôi chẳng phải là người Lêvi. Tôi chẳng có một bổn phận đặc biệt nào trong đền thờ, ngoài bổn phận của hết thảy dân sự của Đức Chúa Trời là tôn vinh và thờ lạy Ngài, làm cho Ngài vui thích, và để kêu cầu danh Ngài. Tôi tin vào những lời hứa của Đức Chúa Trời. Chắc quí vị nghĩ tôi kỳ quặc nếu tôi nói cho quí vị biết rằng có lúc tôi đã nhận lấy một lời hứa riêng từ Đức Chúa Trời? Quí vị sẽ nghĩ là tôi điên, nhưng tôi thắc mắc: "Tại sao Đức Chúa Trời không trò chuyện với một con người chớ?"
Sự nầy đã xảy ra như vầy. Tôi đã cầu nguyện từ sách Thi thiên: "Nhân sao các ngoại bang náo loạn? Và những dân tộc toan mưu chước hư không? Các vua thế gian nổi dậy, các quan trưởng bàn nghị cùng nhau nghịch Đức Giê-hô-va, và nghịch Đấng chịu xức dầu của Ngài?" Quí vị biết điều nầy như thế nào rồi. Và trong lòng tôi, tôi đã bật cười. Thật là vui khi nhìn thấy các vua hay nổi dậy phải im lặng bởi Vua của Đức Chúa Trời khi Ngài ban cho Vua ấy các nước làm cơ nghiệp! Sự bình an mà Đức Chúa Trời đem đến mới là sự bình an thật.
Và khi tôi đã cầu nguyện và suy gẫm những việc nầy, Đức Chúa Trời đã lập với tôi một lời hứa. Ngài nói cho tôi biết rằng tôi sẽ cứ sống để nhìn thấy sự đến của Đấng chịu xức dầu của Ngài. Một người phải làm gì với một lời hứa như thế chứ? Từ khi Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời sẽ lập Vua Ngài trên núi Siôn, là hòn núi thánh của Ngài, tôi bắt đầu để hết thì giờ mà tôi có thể để ở trong đền thờ. Tôi đã có mặt ở đó với đám đông trong thì giờ dâng của lễ và cầu nguyện. Tôi cũng đã có mặt ở đó vào những thì giờ khác nữa. Hết ngày nầy sang ngày khác, tôi đã hát lên những Thi thiên, thờ lạy Đức Chúa Trời trong tấm lòng của tôi. Tôi không có mặt thường trực ở đó, nhưng tôi thường xuyên hiện diện ở đó.
Một ngày kia tôi trông thấy một phụ nữ hãy còn trẻ và chồng của nàng đem con trẻ mới sanh lên đền thờ. Việc nầy chẳng có gì là bất thường cả. Có nhiều đứa trẻ mới ra đời, và nhiều đứa có mặt tại thành Jerusalem. Luật pháp của chúng tôi đòi hỏi rằng sau khi sanh một con trai, người nữ không thể vào đền thờ cho tới sau khi công việc làm tinh sạch của nàng vào ngày thứ bốn mươi. Đấy là thời điểm đứa con được đem lên để dâng cho Đức Chúa Trời. Có nhiều phụ nữ lớn tuổi đến đền thờ mỗi ngày và thích rối rít lên về mấy đứa trẻ. Tôi gọi họ là “mấy bà già của đền thờ”. Không phải là bất thường cho những bậc làm cha làm mẹ khi để cho một trong mấy bà già nầy ẳm lấy đứa trẻ rồi cầu nguyện cho nó, đặc biệt là đứa trẻ xuất thân từ chi phái của họ trong Israel.
Khi đôi vợ chồng nầy bước vào sân đền thờ, tôi biết ngay đây là con trẻ mà Đức Chúa Trời đã hứa. Tôi vội vã đến gặp họ. Tôi vòng tay lại giống như một bà già trong đền thờ rồi xin ẳm lấy đứa con trai của họ. Người nữ còn trẻ kia nhìn về phía chồng mình. Anh ấy mĩm cười và gật đầu. Nàng tử tế trao đứa con của nàng. Tôi ẳm lấy Ngài trong hai cánh tay rồi áp sát Ngài vào lồng ngực của tôi. Đôi mắt tôi đẫm nước mắt. Đấng Mêsi đã được hứa cho đây rồi! Tôi giơ Ngài lên cao trong khoảng không rồi bắt đầu ngợi khen Đức Chúa Trời. Tôi cất cao giọng nói của mình, giọng bình an, và cảm tạ Đức Chúa Trời. Sau điều nầy, tôi đã sẵn sàng để ra đi. Giờ đây Đức Chúa Trời có thể cho phép tôi tớ Ngài qua đời trong sự bình an.
Chúng tôi đã không sống trong một đất bình an hay trong thời điểm hoà bình, nhưng con trẻ nầy sẽ đem lại sự bình an. Tôi đang ẳm Ngài ở trong tay tôi. Tôi đã nhìn thấy ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Tôi đã nhìn thấy sự sáng của Đức Chúa Trời cho các nước, sự vinh hiển của Israel. Đây là sự bình an.
Tôi trao con trẻ về cho mẹ Ngài. Tôi đã nói một hai câu, nhiều hơn mấy bà già trong đền thờ có thể nói. Tôi có thể nói, họ chẳng trông đợi chi về sự ấy, vì vậy tôi đã tìm cách giải thích. Tôi nói cho họ biết Đức Chúa Trời đã hứa gì với tôi. Tôi đã chúc phước cho họ. Tôi nói cho họ biết một vài lời hứa quan trọng của Đức Chúa Trời về Đấng chịu xức dầu của Ngài. Và tôi đã trông thấy gương mặt của Mary, tôi có được một cái nhìn thoáng qua rất kinh khủng về tương lai của nàng. Nhiều sự buồn đau đã đặt ở đàng trước dành cho nàng! Tôi lấy làm lạ nơi cái giá mà Con Trai nàng phải trả để mua lấy sự bình an.
Thế rồi hai vợ chồng nói cho tôi nghe về mấy gã chăn chiên đã đến viếng thăm họ vào buổi tối Con Trai họ ra đời. Họ đã cho tôi biết mấy gã chăn chiên đã nhìn thấy đoàn thiên binh thiên sứ cất tiếng hát. "Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!" Sự bình an đang ở trên đất.
Tôi thêm giọng bình an của tôi vào giai điệu đó. Tôi đã nhìn thấy sự bình an ấy mặt đối mặt nơi một con trẻ ra đời ở Bếtlêhem. Tôi đã sống trong một xứ đầy dẫy với thù hận và áp bức, nhưng Đức Chúa Trời cho phép tôi sống để nhìn thấy Đấng Christ, Đấng chịu xức dầu của Ngài. Đức Giêhôva lập Ngài làm Vua cho đến đời đời! Nguyện Chúa ban năng lực cho dân sự Ngài! Nguyện Đức Giêhôva chúc bình an cho dân sự Ngài!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét