Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Luca 1.5-25, 57-80: "Xachari: Giọng vô tín"




Xachari: Giọng vô tín
Luca 1.5-25, 57-80
Tôi có nhớ mười hai giọng nói về Lễ Giáng Sinh không hả? Có chớ, tôi nhớ rõ mà. Tôi là một trong số họ đấy. Tôi là giọng nói vô tín đây.
Người ta gọi tôi là Xachari. Quí vị có thể nhận ra tên của tôi, mặc dù quí vị có thể đang nghĩ tới người nào khác. Thí dụ, con trai của Vua Giô-sa-phát, đã bị giết bởi em mình là Giô-ram hầu ngăn cản ông ấy đừng xưng vương. Rồi kế đó có vị tiên tri lỗi lạc Xachari. Có ít nhất 30 người khác nữa trong lịch sử dân tộc chúng tôi có tên giống như tên của tôi. Đây là một cái tên rất là hay. Nó có nghĩa là "Đức Giêhôva ghi nhớ". Dọc theo lịch sử dân tộc của chúng tôi, Đức Chúa Trời không bao giờ quên lời hứa của Ngài.
Tôi đã cưới Êlisabết làm vợ, và trong nhiều năm trời chúng tôi chưa có một mụn con nào cả. Quí vị không thể tưởng tượng được nỗi buồn ấy như thế nào đâu, trừ phi quí vị dự phần vào niềm tin của chúng tôi, niềm tin ấy cho rằng ơn phước và quyền năng của Đức Chúa Trời ai cũng nhận biết qua con cái của một người và con cái của con cái người ấy. Khi quí vị không có một mụn con nào hết, làm sao quí vị có thể làm chứng về sự thành tín của Đức Chúa Trời cho mọi thế hệ được? Thật là tốt đẹp dường bao một khi Đức Chúa Trời nhớ lại mọi lời hứa của Ngài, nhưng chẳng có ai trong gia đình tôi nhìn thấy chúng sẽ được ứng nghiệm hết? Tại sao Đức Chúa Trời lại lấy nhánh gia đình của chúng tôi và cắt nó khỏi gốc nho Isarel của Ngài chứ? Chúng tôi chẳng có đứa con nào hết. Điều đó chẳng có nhằm nhò gì đối với quí vị, có phải không?
Ê-li-sa-bết và tôi ở với nhau lâu năm rồi. Lâu nay chúng tôi đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng tôi một đứa trai. Tôi bắt đầu tin sự ấy thật là khó mà được lắm. Chúng tôi đã quá già rồi.
Trong buổi thờ phượng tại đền thờ, một ban thầy tế lễ sẽ đến sống tại thành Jerusalem trong một thời gian và thi hành chức vụ trong đền thờ. Thế rồi khi phiên của họ đã mãn, họ trở về lại làng mạc của họ và ban kế đó sẽ đảm trách phần hành của họ. Trong mỗi ban đó, các bổn phận trong ngày về chức năng tế lễ đã được định cho những gia đình khác nhau qua cách bóc thăm.
Một trong các bổn phận nầy là xông hương. Xông hương có nghĩa là đứng tại Nơi Thánh ngay trước bức màn ngăn Nơi Chí Thánh và xông hương cho Đức Giêhôva. Thầy tế lễ nào đã được chọn sẽ đứng gần ngôi thương xót hơn bất kỳ ai khác được đứng ở đó, trừ ra chính Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm, và chỉ có ông trong ngày Lễ Chuộc Tội.
Ngày nọ thăm trúng vào tôi. Những người khác đến thờ phượng phải đứng chờ ở bên ngoài, họ lo cầu nguyện. Tôi bước vào Nơi Thánh. Tôi đặt hương lên trên các hòn than của bàn thờ và một đám mây khói dậy lên. Tôi chỉ mới vừa đọc xong bài kinh tạ ơn của Arôn, nhưng có điều gì đó đã làm cho tôi phải giật mình. Tôi không ở đó một mình. Có ai đó đang đứng kế bên bàn thờ xông hương. Tôi nhìn xem. Ấy là một thiên sứ.
Thiên sứ tìm cách kềm hãm những nỗi sợ hãi của tôi lại. Ngài quyết chắc với tôi là những lời cầu nguyện của chúng tôi trải qua nhiều năm tháng giờ đây sẽ được nhậm. Ê-li-sa-bết sẽ có thai và chúng tôi sẽ có một đứa con trai.
Thiên sứ nói cho tôi biết phải đặt tên gì cho đứa con. Tên của nó sẽ là Giăng, và nó sẽ làm một người Naxirê từ lúc còn trong lòng mẹ. Nó sẽ rao giảng với tinh thần và quyền phép của Êli. Con trai của chúng tôi đã được chỉ định phải lo sửa soạn tấm lòng của dân sự hầu nghinh đón Đấng Mêsi. Nói như thế có nghĩa là Đấng Mêsi vốn được trông đợi bấy lâu nay không bao lâu nữa sẽ đến.
Tôi nghĩ tôi bị chóng mặt đôi chút thôi. Nhưng không, chẳng có lỗi phải gì cho những điều mà tôi đã nói. Tôi đáp lại với thiên sứ. Tôi đã cất cao giọng mình trong sự vô tín.
Tôi nói: "Làm sao tôi biết đây là sự thực chứ? Tôi là một cụ già. Vợ tôi là một bà lão đã lớn tuổi rồi. Người già cả như chúng tôi không thể làm cha làm mẹ được đâu".
Tôi có một đôi lời khuyên bảo quí vị đây. Nếu một thiên sứ đến thăm viếng, đừng trả lời lại đối với Ngài. Thiên sứ nói cho tôi biết tên của Ngài. Gápriên – một trong các thiên sứ đứng trước mặt Đức Chúa Trời. Nếu tôi có nói gì ngu xuẫn với một thiên sứ, sao không là một thiên sứ thấp kém hơn. Mà lại là Gápriên!?! Ngài báo cho tôi biết vì tôi đã cất cao giọng nói của mình trong sự vô tín, Đức Giêhôva sẽ cất bỏ khả năng nói năng của tôi cho tới chừng mọi việc đã được ứng nghiệm. Thế rồi Ngài biến mất.
Đám đông những kẻ đến thờ phượng đang đứng đợi tôi ở bên ngoài. Tôi sẽ làm gì đây? Làm sao tôi nói cho họ biết được đây? Tôi không thể thốt được một lời nào hết.
Tôi rời khỏi nơi thánh đó. Tôi làm nhiều động tác, làm nhiều dấu hiệu. Tôi cố gắng nói cho họ biết đâu là vấn đề, nhưng chẳng có cách nào để tôi truyền đạt cho họ hiểu cả. Đây là một sự thất bại lớn lắm đấy! Tôi không thể nói ra các tin tức tốt lành cho một linh hồn nào biết cả.
Khi tôi làm xong mọi bổn phận tại đền thờ, tôi bèn trở về nhà. Ê-li-sa-bết luôn luôn sốt sắng lắng nghe tất cả các tin tức từ thành Jerusalem. Còn gì tệ hại hơn cho một người, khi có nhiều tin tức tốt lành thế kia mà chẳng nói năng chi được cả? Tôi có nhiều điều để nói, song không có khả năng để nói ra nữa. Sau nhiều năm tháng thất vọng, chúng tôi sau cùng đã có một đứa trai, nhưng tôi lại không thể nói cho bà ấy biết được.
Ê-li-sa-bết đã có mang.
Mấy người hàng xóm vốn tò mò về nổi lặng câm của tôi, và họ lấy làm lạ về Ê-li-sa-bết, bà thường hay ẩn mình tránh con mắt dòm ngó của họ. Đến tháng thứ sáu mang thai của Ê-li-sa-bết, chúng tôi tiếp đón một cuộc viếng thăm của người cháu gái của bà ấy, Mary từ thành Nazarét đến. Bản thân Mary cũng đang mang thai. Đó là tin tức đáng xấu hổ và gây sửng sốt. Mary, một nữ đồng trinh, đã đính ước với một thanh niên có tên là Giô-sép, nhưng họ chưa lấy nhau. Nàng nói cho chúng tôi biết thiên sứ Gápriên có đến viếng nàng và nàng cho chúng tôi hay phép lạ mà Ngài đã công bố. Lại Gápriên nữa! Ê-li-sa-bết không dám chắc, nhưng tôi mau mắn nhận chân điều đó. Quí vị cần phải tin điều nầy nhiều hơn.
Chúng tôi tán thưởng cuộc thăm viếng của Mary. Nàng đã ở lại với chúng tôi cho tới ngày sanh của Giăng. Thì giờ của Ê-li-sa-bết đã đến rồi. Chúng tôi có một bé trai thật xinh đẹp, bụ bẫm. Mấy người hàng xóm và người thân ở khắp mọi nơi đổ về. Những vị khách viếng ngồi đầy nhà chúng tôi với nụ cười và ca hát ngợi khen Chúa.
Còn tôi? Tôi đã ngồi yên lặng mà quan sát. Tám ngày sau khi đứa trẻ ra đời, chúng tôi ẳm nó đi chịu phép cắt bì. Phép nầy sẽ tuyên bố nó là con cái của giao ước và là kẻ kế tự mọi lời hứa của Israel. Đây đúng là ngày để đặt tên cho nó. Tất nhiên là mọi người cho là chúng tôi sẽ đặt tên đứa trẻ là Xachari theo tên của tôi. Nhưng Ê-li-sa-bết nói: "Giăng là tên nó".
Bạn bè của chúng tôi cãi lại, họ cho rằng bà con của chúng tôi chẳng ai có tên đó. Họ nhìn qua tôi. "Xachari, có vấn đề gì với Ê-li-sa-bết vậy? Bộ ông không đặt tên con theo tên của mình sao?" Nhưng tôi lấy tấm bảng con rồi ghi lên đó: "Tên của nó sẽ là Giăng". Khi ấy rất đột nhiên, trong lúc tôi làm dấu giải thích cho bạn bè tôi hiểu lý do tại sao chúng tôi đặt tên nó là Giăng, tôi bắt đầu nói được. Nhiều tháng trời qua và đột nhiên tôi nói được.
"Giăng" tôi nói, "tên của nó là Giăng. Đấy mới là tên mà chúng tôi gọi nó". Tôi bắt đầu nói tiên tri và hát ngợi khen Chúa. "Ngợi khen Chúa, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì đã thăm viếng và chuộc dân Ngài, cùng sanh ra cho chúng tôi trong nhà Đa-vít, tôi tớ Ngài, một Đấng Cứu thế có quyền phép!"
Đức Chúa Trời rất nhơn từ đối với tôi. Vì trong 12 giọng nói trong dịp Lễ Giáng Sinh, chỉ có giọng của tôi đã được cất lên trong sự vô tín. Nhưng với tình yêu thương và sự thương xót cả thể của Đức Chúa Trời, Ngài đã nắm lấy sự vô tín của tôi rồi đổi nó thành ra sự ngợi khen.
Phước thay Giêhôva Đức Chúa Trời của Israel, vì Ngài đã thăm viếng chúng tôi và làm xong sự chuộc tội cho dân sự của Ngài!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét