Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

Luca 1.39-80: "MÙA CA HÁT VUI MỪNG"



MÙA CA HÁT VUI MỪNG
Luca 1.39-80
1. Bạn có để ý thấy thể nào người ta ưa thích những bài hát trong dịp Lễ Giáng Sinh không? Cách đây nhiêu năm cũng chính những bài hát ấy quay trở lại sau Lễ Cảm Tạ. Đêm Yên Lặng, Hỡi Các Môn Đồ Trung Tín, Ô Bếtlêhem Ấp Nhỏ, Kìa Thiên Binh Cùng Nhau Trổi Hát, Bài Ca Máng Cỏ, tất cả những bài nầy và thêm nhiều bài khác từng được ưa thích là những nhắc nhớ về sự giáng sinh của Chúa chúng ta. Chúng ta nghe chúng suốt cả mùa Lễ Giáng Sinh, trên những đài phát thanh, nơi mấy cái loa trong thang máy, và ở đầu dây điện thoại. Chúng ta nghe chúng trong các cửa hàng và nhà hàng. Chúng ta cũng hát chúng trong nhà thờ nữa. Tôi thích hát những bài ca ấy, còn bạn thì sao?
2. Ngay cả những người chưa tin Chúa, những người chưa từng được sanh lại, những kẻ chưa tuyên xưng đức tin cá nhân nơi Chúa Jêsus dường như rất thích những bài hát chúc mừng nầy về Con Trẻ Christ. Họ thưởng thức những cảm xúc bình an, vui mừng, yêu thương chan chứa trong linh hồn họ trong mấy tuần lễ mỗi năm. Tại sao chứ? Vì những bài hát kỳ diệu dùng để thờ phượng nầy họ nhận thức được một tia sáng nhỏ đang chiếu rọi vào đời sống tăm tối của họ. Câu 79 cho chúng ta biết rằng sự giáng sinh của Chúa Jêsus sẽ "soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết".
Mới đây tôi có nghe từ vị Mục sư, ông đã có một chương trình truyền giảng Tin lành đặc biệt trong dịp Lễ Giáng Sinh. Ông đem theo những ca viên từ Hội thánh của mình đến mấy quán rượu ở địa phương. Họ luôn luôn hỏi xin phép những ông chủ trước tiên để họ được phép hát ở đó. Sau khi hát vài bản thánh ca Giáng Sinh, họ đã phân phối các chứng đạo đơn Tin lành. Họ thường nhìn thấy những hàng nước mắt chảy dài trên những gương mặt cô đơn, vất vả … "sự sáng soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết".
3. Tôi thích những bài hát cũ về Lễ Giáng Sinh. Mặc dù hầu hết các bài hát ấy đều đã viết ra vào các thế kỷ 17, 18 và 19, chúng vẫn còn mang sứ điệp đầy quyền năng nói đến sự hoá thân thành nhục thể, sự Con Đức Chúa Trời "mặc lấy xác thịt". Những bài hát ấy thật là tuyệt diệu, chúng ta cần một số bài ca mới để kỷ niệm sự giáng trần của Chúa. Những bài ca Giáng Sinh mới đây như bài I Saw Mommy Kissing Santa Claus và Grandma Got Run Over by a Reindeer. Tôi nghe những bài ca Giáng Sinh mới đây đã được loài sóc, loài heo và mấy con chó hay sủa hát. Có thể quí vị viết ra điệu hát trữ tình cho một bài ca mới trong dịp Lễ Giáng Sinh. Ai biết được? Có lẽ một bài hát do quí vị viết sẽ được hát khoảng 200 năm sau, tính từ bây giờ.
4. Đối với những ai trong chúng ta có lòng tin, ca hát về Chúa Jêsus không phải chỉ trong dịp Lễ Giáng Sinh. Đức Thánh Linh đang đặt một bài ca trong tấm lòng quí vị 365 ngày một năm. Êphêsô 5.18-20 cho chúng ta biết phải "đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta". Chúng ta luôn luôn có lý do để ca hát.
5. Dân sự của Đức Chúa Trời luôn luôn ca hát tôn vinh Ngài. Trong Phục truyền luật lệ ký 32, chúng ta đọc một bài hát từ MÔISE ngợi khen Đức Giêhôva và nhắc cho dân sự nhớ đừng tẻ tách khỏi Ngài. Vua DAVID đã viết ra nhiều bài hát ngợi khen Đức Giêhôva.
6. Trong phân đoạn Kinh thánh quan trọng nầy, chúng ta thấy hai bài ca vui mừng được cảm thúc bởi Đức Thánh Linh đề cập đến sự giáng sinh sắp tới của Chúa. Bài ca thứ nhứt đến từ Mary, là mẹ của Chúa Jêsus. Bài ca ấy được gọi là Bài Ca Tụng và đã được hát lên và học thuộc từ những ngày đầu tiên của kỹ nguyên Hội thánh. Bài thứ hai đến từ Xachari, là cha của Giăng Báptít khi ông nói tiên tri các chi tiết đáng kinh ngạc về chức vụ của Chúa Jêsus. Bài ca nầy được gọi là Bài Tạ Ơn. Bài ca của Mary tương tự như bài ca của An-ne, bài ca của một người mẹ vốn có lòng trông đợi. Mặt khác, bài ca của Xachari rất giống với những tác phẩm có tính tiên tri trong Cựu Ước. Chúng ta hãy xem xét cả hai bài ấy.
I. Bài ca vui mừng của Mary (các câu 39-56).
A. Nội dung bài ca của Mary (các câu 39-45).
1. Trong các câu 26-38, chúng ta học biết các chi tiết nói tới chỗ thiên sứ "Gáp-ri-ên" được “Đức Chúa Trời sai đến” thành Nazarét để nói với Mary, một thiếu nữ đã "hứa gã" hay đính hôn với một người thợ mộc có tên là Giô-sép.
2. Thiên sứ cho Mary biết nàng "đã được ơn" và "được phước … trong đám đàn bà" vì không bao lâu nữa nàng sẽ hạ sanh một Con Trai… là Con của Đức Chúa Trời, là Đấng Mêsi. Mary phản đối rằng nàng chưa "biết" một người nam nào, vì nàng là một nữ đồng trinh. Khi ấy thiên sứ giải thích rằng con trẻ sẽ không phải là dòng dõi của người nam, mà là dòng dõi của Đức Thánh Linh và nàng sẽ mang thai "Đấng Thánh… là Con Đức Chúa Trời".
3. Thiên sứ cũng cho nàng biết rằng "người bà con" của nàng là Ê-li-sa-bết, bà đã trong "tuổi già" vốn có tiếng là son mà nay đã mang thai 6 tháng rồi. Thiên sứ nói thêm, tôi nghĩ với một nụ cười: "Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được".
4. Trong sự vâng lời thuận phục, Mary chấp nhận mạng lịnh của thiên sứ. Nàng nói: "Xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền".
5. Trong câu 39, chúng ta thấy thể nào Mary "chờ dậy…lật đật" rồi đi đến nhà của Ê-li-sa-bết trong "miền núi" của xứ Giu-đê. Dường như nàng chẳng báo cho Giô-sép biết, nhưng cứ đi ở lại với người bà con mình trong "ba tháng" (câu 56). Cả hai người đàn bà đều mang thai dưới những hoàn cảnh thật lạ lùng. Nơi Ê-li-sa-bết, bà đã tìm được người duy nhứt ở trên đất hiểu được bà.
6. Mary bước vào nhà rồi "chào Ê-li-sa-bết", có lẽ với một cái ôm thật chặt. Ngay khi ấy bà thấy "con nhỏ ở trong lòng liền nhảy nhót". Thật là bình thường cho những con trẻ ở trong lòng cử động nhiều vào tháng thứ 6. Đây là một việc rất có ý nghĩa, rất phi thường. Sự ấy giống như thể Giăng Báptít đã hoan nghênh Chúa Jêsus lần đầu tiên vậy. 30 năm sau, khi ông hoan nghênh Chúa một lần nữa, ông đã nói: "Kìa! Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi!" (Giăng 1.29).
7. Tại điểm nầy, Ê-li-sa-bết đã được "đầy Đức Thánh Linh" rồi thốt ra "với một giọng lớn tiếng". Đức Chúa Trời đã ban cho Ê-li-sa-bết một lời đặc biệt để nói với Mary.
8. Bà nói: "Ngươi có phước trong đám đàn bà". Kể từ khi lời hứa của Đức Chúa Trời trong Sáng thế ký 3.15, những phụ nữ tin kính trong Israel đã hy vọng mình sẽ trở thành mẹ của Đấng Mêsi, Cứu Chúa của thế gian. Đức Chúa Trời đã chọn cô thiếu nữ khiêm nhường nầy từ một ngôi làng nhỏ bé trong hàng triệu phụ nữ Hê-bơ-rơ để đảm nhận vai trò đặc biệt nầy.
9. Ê-li-sa-bết cũng nói: "Thai trong lòng ngươi cũng được phước". Không cứ cách nào đó qua lời tiên tri nầy, bà vốn biết rõ Mary đang mang thai Đấng Mêsi.
10. Bà tiếp tục làm cho câu chuyện ra đơn giản hơn nữa bằng cách hỏi: "Nhân đâu ta được sự vẻ vang nầy, là mẹ Chúa ta đến thăm ta?" Hãy chú ý chẳng có một sự ganh tỵ nào cả. Mặc dù đây là một việc lạ lùng cho bà khi mang thai một con trẻ trong khi "tuổi già" bà biết rõ Mary còn được phước hơn nữa.
11. Trái tim của Mary thể nào đã đập thình thịch khi Ê-li-sa-bết mô tả con trẻ của bà nó "nhảy nhót trong lòng [bà] vì vui mừng". Ê-li-sa-bết tiếp tục chúc phước hơn nữa cho Mary vì bà "tin" vào lời hứa đến từ Chúa … không giống như Xachari.
B. Sứ điệp trong bài ca của Mary (các câu 46-55).
Khi chúng ta xem xét bài ca của Mary, Bài Ca Tụng, có ba lẽ thật rất là rõ ràng. Thứ nhứt, Mary cũng được "đầy dẫy Đức Thánh Linh". Những lời nầy đến từ Đức Chúa Trời. Thứ hai, Mary vốn biết rõ rất nhiều về Kinh thánh Cựu Ước, đặc biệt là sách Sáng thế ký, sách Thi thiên và các sách tiên tri. Sứ điệp nầy có rất nhiều trưng dẫn. Thứ ba, Mary vốn biết rõ thuộc tánh của Đức Giêhôva.
1. Mary biết rõ Đức Chúa Trời là Cứu Chúa Lạ Lùng (các câu 46-48).
a. Thứ nhứt, nàng nói "linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Chữ "ngợi khen" ở đây thường có nghĩa là "tôn cao, tán dương hay công bố ra sự cao trọng của…". Tuy nhiên, ý nghĩa cơ bản của chữ nầy là "phóng to lên" giống như trong một KÍNH PHÓNG ĐẠI vậy. Chúng ta càng đến gần Chúa thì thấy Ngài càng lớn lao hơn. Mary cảm thấy ở gần Đức Chúa Trời đến nỗi khi nàng thờ lạy, Ngài được phóng đại lên trong mắt nàng. Cũng trong ý nghĩa ấy, sự thờ phượng cũng mang ý nghĩa ấy đối với chúng ta nữa!
b. "Linh hồn [nàng]… ngợi khen Chúa", "Cứu Chúa" của nàng.. Trước khi đưa ra lời công bố phước hạnh nầy, qua đức tin nàng biết rõ Đức Chúa Trời của nàng thực sự là "Cứu Chúa" của nàng. Giờ đây, nàng còn hiểu nhiều hơn thế nữa. Đức Chúa Trời sẽ bước vào bằng xác thịt qua chính xác thịt của nàng để làm "Cứu Chúa" của thế gian (đối chiếu Thi thiên 34).
c. Nàng cũng đưa ra lý do cho sự biết ơn của nàng. Đức Chúa Trời đã "đoái đến" hay đã chọn nàng, một con người với "địa vị thấp hèn" xuất thân từ một thị trấn nhỏ bé không ra chi hết đã nhận được vinh quang nầy. Chúng ta đáng phải ngợi khen Đức Chúa Trời tùy theo Êphêsô 1.4, Đức Chúa Trời "đã chọn chúng ta trong Đấng Christ trước khi sáng thế".
d. Mary cũng nhìn biết rằng từ lúc ấy trở đi: "muôn đời sẽ khen tôi [nàng] là kẻ có phước". Không một người nào sẽ quên được nàng. Bây giờ, chúng ta biết rằng Mary là một phụ nữ trẻ tuyệt vời được Đức Chúa Trời "chúc phước cho" để đảm nhận một vai trò đặc biệt; tuy nhiên, chúng ta không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ được truyền cho phải thờ lạy nàng. Mary là một con người giống như chúng ta. Phân đoạn nầy nói rõ ràng rằng nàng là một người thờ phượng, chớ không phải đối tượng của sự thờ phượng!
2. Mary biết rõ rằng Đức Chúa Trời là Nguồn Sức Lực của chúng ta (các câu 49-50).
a. Mary nói Đức Chúa Trời là "Toàn Năng" hay mạnh sức. Sức lực của Đức Chúa Trời rất rõ ràng đối với nàng. Nàng đã bị phủ lút hoàn toàn vì Ngài đã "làm nhiều việc lớn" trong đời sống của nàng. Có lẽ nàng nghĩ tới những lời lẽ của thiêns ứ trong câu 37: "Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được".
b. Nàng nói: “Danh Ngài là Thánh". Nàng vốn biết rõ điều nầy trước đây, nhưng thực sự nhìn biết điều ấy trong lúc bây giờ. Một ngày kia tất cả mọi người sẽ thốt ra câu nói ấy về Con của nàng (Philíp 2.9-11).
c. Nàng nói Ngài có "lòng thương xót kẻ nào kính sợ Ngài". Câu nầy được rút ra từ Thi thiên 103.17. "Kính sợ" không nhất thiết có nghĩa là "phải sợ hãi", mà đúng hơn, tôn vinh Ngài bằng sự vâng phục và thờ phượng.
3. Mary vốn biết rõ rằng Đức Chúa Trời là Quan Án Công Bình của chúng ta (các câu 51-53).
a. Khi chúng ta đọc những câu nầy, rõ ràng là trong tâm trí của Mary, sự lựa chọn của Đức Chúa Trời về hai con người khiêm nhường như nàng và Ê-li-sa-bết chỉ ra một nguyên tắc rất cách mạng trong đó Đức Chúa Trời sẽ làm mới lại muôn vật qua Đấng Mêsi hầu đến.
b. Những gì con người xem là quan trọng, Đức Chúa Trời đã "phá tan", "cách khỏi" và "đuổi". Những gì con người xem là quan trọng, Đức Chúa Trời đã "trút bỏ" và "làm cho đầy". Chúng ta thấy một nguyên tắc tương tự trong I Côrinhtô .26-31.
4. Mary vốn biết Đức Chúa Trời là Cha thành tín của chúng ta (các câu 54-55).
a. Đây là dòng sau cùng của bài hát, chữ "Amen" dành cho lời cầu nguyện của nàng. Nàng đã nhìn về phía trước về những gì Đức Chúa Trời sẽ làm như Quan Án Công Bình, nàng dựa vào những gì Ngài đã làm … Ngài là một Đức Chúa Trời thành tín.
b. Đức Chúa Trời muốn thành thực với các lời hứa của Ngài. Ngài "đã vùa giúp Israel, tôi tớ Ngài". Ngài nhớ đến giao ước của Ngài về sự thương xót mà Ngài "phán cùng tổ phụ chúng ta vậy". Ngài nhớ tới giao ước mà Ngài đã ban cho "Ápraham cùng con cháu người luôn luôn". Đức Chúa Trời chưa bao giờ thất tín trong quá khứ và sẽ không hề thất tín trong tương lai.
C. Phần kết bài ca của Mary (câu 56). Mary đã ở lại với Ê-li-sa-bết "chừng ba tháng". Quả thực, họ đã có những cuộc đối đáp thật tuyệt vời. Dường như là nàng đã ở lại cho tới chừng trước khi Giăng Báptít sanh ra và khi ấy "mới trở về nhà mình". Rõ ràng, khi con trẻ sanh ra sẽ có một dòng suối cho lữ khách và rõ ràng là Mary đã có mang chừng ba tháng. Bây giờ là lúc phải nói cho Giô-sép biết.
II. Bài ca vui mừng của Xachari (các câu 57-80).
A. Nội dung bài ca của Xachari (các câu 57-67).
1. Trong các câu 5-25, chúng ta học biết rằng thiên sứ Gáp-ri-ên cũng đã tuyên bố sự ra đời của Giăng Báptít, không phải cho mẹ ông, mà là cho cha ông, Xacha ri ông là một thầy tế lễ, đang hầu việc Chúa trong đền thờ tại thành Jerusalem..
2. Thầy tế lễ phục vụ theo mùa, thường sống ở chỗ khác gần thành Jerusalem thuộc "miền núi" xứ Giu-đê và trong thành Giê-ri-cô. Sự loan báo đã đến trong khi Xachari đang “phục vụ” trong đền thờ và đến phiên ông "dâng hương". Khi ông dâng hương, ông nhìn thấy Gáp-ri-ên đang đứng gần bàn thờ.
3. Gáp-ri-ên nói cho ông biết rằng vợ ông sẽ sanh cho ông một trai, mặc dù cả hai người đều "cao tuổi". Con trai nầy sẽ nên "tôn trọng trước mặt Chúa" và được "đầy dẫy Đức Thánh Linh” từ trong lòng mẹ. Ông cũng sẽ có một lời thề giống như một người Na-xi-rê vậy.
4. Con trai nầy sẽ "đi trước mặt" Đấng Mêsi "bằng tâm thần và quyền phép Ê-li … đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng”.
5. Trong câu 18, chúng ta thấy Xachari đã thắc mắc không biết điều nầy có thể xảy ra hay không!?! Vì cớ ông thiếu đức tin, Gáp-ri-ên nói rằng ông sẽ bị "câm", không thể nói được "cho tới ngày nào các điều ấy xảy ra".
6. Sau khi Mary đã ở với họ trong 3 tháng rồi trở về nhà, khi "ngày mãn nguyệt" của Ê-li-sa-bết đã đến, bà cho ra đời một con trai. Tất cả "xóm giềng bà con … chia vui cùng người". Khi đến ngày sanh, họ không thể nói chi khác hơn "Chúa đã tỏ ra sự thương xót cả thể cho bà". Ê-li-sa-bết không còn son sẻ nữa; nỗi xấu hỗ của bà không còn có nữa!
7. Đến "ngày thứ tám" theo luật pháp Môise, họ trình con trẻ để chịu phép cắt bì. Trong nghi thức nầy, một cái tên phải được đặt chính thức cho đứa trẻ. Bạn bè và người thân mạnh dạn đề nghị rằng tên của đứa trẻ phải được gọi theo "tên của cha, là Xachari". Tuy nhiên, mẹ nó khẳng định rằng tên của đứa trẻ phải được gọi là "Giăng" (sự ban cho của Đức Chúa Trời;Đức Giêhôva rất giàu ơn).
8. Dân sự lấy làm lạ vì không một người bà con nào của bà “không ai có tên đó". Vì vậy họ "ra dấu" cho Xachari. Họ đang hỏi ông muốn đặt tên gì cho con. Cũng kỳ lạ khi dân sự dính dáng vào các vụ việc của gia đình, đây chẳng phải là công việc của họ? Việc nầy vẫn còn xảy ra hôm nay!
9. Với một "cái bảng nhỏ", một cục phấn trên bảng, Xachari đã viết "Giăng là tên nó". Ông đã không viết: "Chúng tôi quyết định đặt tên nó là Giăng", hay "Giăng là một cái tên rất đẹp". Ông nói: "Giăng LÀ tên nói". Thế là tên đã được đặt. Ông đã làm theo ý muốn của Chúa mà không một thắc mắc nào hết.
10. Ngay sau khi điều nầy xảy ra xong "tức thì miệng người mở ra, lưỡi được thong thả". Lần đầu tiên trong chín tháng qua, ông đã nói được và lời lẽ thốt ra khỏi miệng ông là "ngợi khen Đức Chúa Trời".
11. Đây là cách nói năng trong cộng đồng. Ai nấy đều lấy làm lạ, họ thắc mắc: "Ấy vậy, con trẻ đó sẽ ra thể nào?"
B. Sứ điệp trong bài ca của Xachari (các câu 68-79). Khi Xachari đã nói được vào lúc sau cùng, đây là lời lẽ đầu tiên thốt ra từ miệng ông. Ông, giống như Ê-li-sa-bết và Mary ở trước mặt ông đã được "đầy dẫy Đức Thánh Linh". Trong chín tháng, ông đã câm nín xem xét công việc của Đức Giêhôva. Với mọi hứng thú của một tiên tri trong thời Cựu ước, ông thốt ra sự thương xót của Chúa, giống như cái tên "Giăng" vậy.
1. Xachari vốn biết rõ Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Chuộc đầy lòng thương xót (các câu 68-70).
a. Xachari đã "chúc phước" cho Giêhôva Đức Chúa Trời vì trong Đấng Mêsi Ngài đã "viếng thăm" (ở cùng chúng ta "Em-ma-nu-ên) và "chuộc" chúng ta. Mặc dù ông rất cảm động về sự ra đời của con trai ruột mình, là Giăng. Ở đây chúng ta thấy ông vui sướng rất nhiều về sự giáng sinh không bao lâu nữa của Đấng Mêsi.
b. Đức Chúa Trời cũng đã "dấy lên một sừng cứu rỗi". Có hai ý nghĩa ở đây. Thứ nhứt, sừng là dấu hiệu chỉ về sức mạnh của một con vật. Thứ hai, trong Cựu ước nắm lấy sừng trong bàn thờ là một lời cầu xin được thương xót và tha thứ. Cũng hãy chú ý "sự cứu rỗi" nầy sẽ đến qua "nhà David tôi tớ Ngài" (đối chiếu II Samuên 7.12-13). Giăng không phải là nhà David, chỉ có Chúa Jêsus mà thôi.
c. Chúa phán điều nầy qua môi miệng của "các thánh tiên tri Ngài".
2. Xachari vốn biết rõ Đức Chúa Trời là Đấng Giải Cứu đầy lòng thương xót của chúng ta (các câu 71-75).
a. "Các tiên tri" đã nói ra điều gì? Có hơn 400 tham khảo đến Đấng Mêsi trong Cựu ước. Họ đã nói tới sự thực rằng dân sự của Đức Chúa Trời sẽ được "cứu… khỏi kẻ thù". Điều nầy không đề cập tới Rôma, mà tới quyền lực của kẻ tội ác.
b. Đức Chúa Trời sẽ trong "sự thương xót … nhớ lại lời giao ước thánh của Ngài", "lời thề" đã thề với Ápraham. Lời thề ấy đặc biệt có trong Sáng thế ký 12.3: "và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước".
c. Mặc dù qua sự cứu rỗi, chúng ta đã được "cứu" ra khỏi quyền lực và án phạt của tội lỗi rồi, sự ứng nghiệm trọn vẹn là khi Đấng Christ dựng lên Nước của Ngài, khi ấy chúng ta sẽ "lấy sự thánh khiết và công bình mà hầu việc Ngài, trọn đời mình không sợ hãi gì hết".
3. Xachari vốn biết rõ Đức Chúa Trời là Đấng Tiếp Trợ giàu lòng thương xót của chúng ta (các câu 76-79).
a. "Con" của Xachari là Giăng sẽ được gọi là "tiên tri của Đấng Rất Cao". Không giống như các tiên tri thời Cựu ước, họ nói trước sự đến của Đấng Mêsi, Giăng sẽ giới thiệu Ngài theo cách riêng! (Giăng 1.29).
b. Giăng sẽ "đi trước mặt Chúa" và "dọn đường Ngài" ("ban bằng đường lối Ngài") và "để cho dân Ngài bởi sự tha tội họ mà biết sự rỗi" ("ăn năn vì Nước thiên đàng đã đến gần!").
c. Đức Chúa Cha trong ơn "thương xót" của Ngài đã "thăm viếng chúng tôi" với "mặt trời mọc lên từ nơi cao". Đấy là những gì Lễ Giáng Sinh đang nói đến! Sự "thương xót" của Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta qua chiếc máng cỏ!
d. "Mặt trời mọc lên" là tước hiệu đẹp đẽ dành cho Chúa Jêsus. Tước hiệu nầy đã được sử dụng chỉ có ở đây mà thôi. Sát nghĩa, tước hiệu ấy có ý nói: "bình minh, mặt trời mới mọc lên". Cựu ước đã nói bóng về điều nầy. Êsai 60.1-2 chép: “Hãy dấy lên, và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến, và vinh quang Đức Giê-hô-va đã mọc lên trên ngươi. Nầy, sự tối tăm vây phủ đất, sự u ám bao bọc các dân; song Đức Giê-hô-va dấy lên trên ngươi, vinh quang Ngài tỏ rạng trên ngươi". Malachi 4.2 chép: "Nhưng về phần các ngươi là kẻ kính sợ danh ta, thì mặt trời công bình sẽ mọc lên cho, trong cánh nó có sự chữa bịnh". Quí vị có từng trông thấy mặt trời mọc xua tan bóng tối tăm chưa? Đấy chính xác là điều mà Chúa Jêsus ngự đến để lo làm. Đừng nghĩ tới Lễ Giáng Sinh quá nhiều giống như một em bé đang nằm trong máng cỏ. Hãy nghĩ tới Lễ Giáng Sinh là sự thương xót của Đức Chúa Trời giống như mặt trời mọc lên vậy!
4. "Mặt trời mọc lên" hay bình minh, Chúa Jêsus đã đến để "để soi những kẻ ngồi chỗ tối tăm và trong bóng sự chết". Ngài đã đến để Ngài "đưa chân chúng tôi đi đường bình an…". Nghĩa là "hoà thuận lại với Đức Chúa Trời". Rôma 5.1 chép: "Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta".
C. Phần kết luận bài ca của Xachari (câu 80). "Vả, con trẻ ấy lớn lên", chương trình của Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm. Chúng ta không ca hát vì cớ truyền thống, chúng ta ca hát vì "mặt trời mọc lên" đã chiếu sáng vào đời sống của chúng ta!!!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét