Thứ Năm, 29 tháng 7, 2010

DAVID & MANASE: THẮNG HƠN THẤT BẠI



DAVID & MANASE:
THẮNG HƠN THẤT BẠI

Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã học biết rằng Đức Chúa Trời có nhiều cách để biến chúng ta thành hạng người mà chúng ta phải trở thành. Song, dường như phương pháp mà Ngài vốn ưa thích là phải qua sự đối kháng. Càng đối kháng chừng nào, thì sự tấn tới càng cao hơn. Những gì chúng ta nhìn thấy là ngăn trở cho sự thành tựu, Đức Chúa Trời nhìn thấy là cơ hội cho sự lớn lên. Thất vọng, mất mát, chỉ trích phê bình, thất bại, sỉ nhục, thử thách, ngã lòng, cô độc, và xuống tinh thần trở thành những phương tiện bởi đó chúng ta lớn lên mạnh mẽ nếu chúng ta được “đào tạo” bởi các sức mạnh nầy, như tác giả thơ Hêbơrơ đã nói (Hêbơrơ 12.11).
Quyển sách nhỏ nầy chủ yếu nói về sự thắng hơn thất bại. Chúng ta sẽ xem xét hai nhân vật trong Cựu Ước, David và Manase, họ đã thất bại rất đáng thương, và nhìn thấy thể nào Đức Chúa Trời đã sử dụng sự thất bại của họ để khiến cho họ được mạnh mẽ. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng Đức Chúa Trời chẳng bỏ một điều gì trong đời sống của chúng ta – thậm chí cả tội lỗi nữa.
David Roper
MANASE:
Thắng hơn sự khởi đầu tồi tệ.
Lúc bấy giờ là ngày đầu năm của năm 1929. Trường Đại Học California tại Berkeley đang thi đấu với trường Kỹ thuật Georgia ở Rose Bowl. Roy Riegels, cầu thủ hậu vệ của Cali chơi lùi ở phía sau nhìn thấy một cầu thủ của đội bạn chạy ngang sân, quay trở lại, rồi chạy thẳng 60 m theo một hướng không đúng – thẳng vào lằn goal của đội Cali. Một trong những cầu thủ đã cản chân Riegels ngay trước khi anh ta ghi điểm cho trường kỹ thuật Gerogia. Ở hiệp kế đó, trường kỹ thuật Georgia khóa được cú đá cầu vồng và ghi điểm.
Từ ngày đó trở đi, Riegels bị liệt vào danh hiệu “Riegels chuyển hướng trật lất”. Trong nhiều năm sau đó, bất cứ lúc nào người ta nói tới anh, họ sẽ hô vang: “Ồ, tôi biết anh ta là ai rồi. Anh là gã chuyển hướng trật lất ở Rose Bowl”.
Có thể sự thất bại của chúng ta không đến nỗi đáng chú ý như thất bại của Riegels, nhưng chúng ta có những lộ trình quá chằng chịt và những chuyển hướng sai lầm. Và chúng ta có những ký ức kèm theo đó – những điều phát sinh dấy lên để chế nhạo và ám ảnh chúng ta vào lúc 3 giờ sáng. Vì thế có nhiều điều trong quá khứ mà chúng ta chẳng muốn thực hiện hay làm lại – có nhiều điều chúng ta mong được quên phứt đi cho xong. Nếu chúng ta chịu bắt đầu lại.
Louis Fletcher Tarkington đã viết cho hết thảy chúng ta khi bà đăm chiêu:
Tôi ước rằng có một chốn diệu kỳ nào đó được gọi là vùng Đất Bắt Đầu Lại, ở đó mọi sai trái, mọi chứng đau đầu, mọi nổi buồn ích kỷ nghèo nàn của chúng ta có thể rơi rụng xuống giống như một chiếc áo choàng cũ kỹ treo nơi cửa, và không bao giờ được mặc lại.
Có một chốn như thế đấy! Có thể tìm gặp nơi ấy trong ân điển của Đức Chúa Trời – một thứ ơn không những tha thứ hoàn toàn quá khứ của chúng ta và nó bị gạt bỏ đi, mà còn sử dụng nó để khiến cho chúng ta ra tốt hơn trước đó. Augustine viết: “Ngay cả từ trong tội lỗi, Đức Chúa Trời đã rút ra được điều tốt lành”.
MANASE: CƠ NGHIỆP TIN KÍNH
Manase là con trai của Êxêchia, một trong vài vì vua xứ Giuđa “đã làm điều thiện trước mặt Đức Giêhôva” (II Các Vua 18.3). Nhà chép sử của Israel cho chúng ta biết: “Người phá hủy các nơi cao, đập bể những trụ thờ, đánh hạ các A-sê-ra, và bẻ gãy con rắn đồng mà Môi-se đã làm; bởi vì cho đến khi ấy dân Y-sơ-ra-ên xông hương cho nó người ta gọi hình rắn ấy là Nê-hu-tan. Ê-xê-chia nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; nên trong các vua sau người, hoặc trong những vua trước người, chẳng có một ai giống như người. Người tríu mến Đức Giê-hô-va, không xây bỏ Ngài, song gìn giữ các điều răn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se”.
Êxêchia vốn chịu trách nhiệm về một cơn phấn hưng thuộc linh trong lịch sử đã làm cho xứ Giuđa thấy mình được trẻ lại. Ông đã vứt bỏ mọi hình tượng của cha mình là Acha, đã thờ lạy, và ông đã giải phóng dân sự mình ra khỏi tình trạng bội đạo. Ông đã góp công rất lớn trong công tác cải cách qua những chức vụ tiên tri của Êsai và Michê.
Con trai của Êxêchia là Manase đã lên ngôi khi ông mới 12 tuổi và đã trị vì trong 10 năm như đồng nhiếp chính với cha mình. Khi ông được 22 tuổi, cha ông qua đời và nhà vua trẻ tuổi đã nắm lấy quyền kiểm soát chính phủ. Ông đã trị vì 55 năm – từ năm 697 cho đến 642TC – sự trị vì lâu dài nhất trong lịch sử của cả Giuđa và Israel.
Manase đã được phước với một người cha tin kính. Ông đã sống qua một thời kỳ đầy sức sống và thịnh vượng. Ông đã được các tiên tri Êsai và Michê dạy dỗ. Và ông đã nhìn thấy Chúa giải phóng Israel cách lạ lùng trong khi bị quân Asiri bao vây (II Các Vua 19.35). Tuy nhiên, ông đã không noi theo các dấu chơn của cha ông.
THẤT BẠI TRONG CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA MANASE
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Manase “làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và theo sự thờ phượng gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên” (II Các Vua 21.2).
“Các dân tộc” mà tác giả đề cập tới đều là dân Canaan hủ bại, đội lốt giả vờ. Manase đã vượt hơn họ trong cơn mê loạn điên cuồng phá vở từng luật lệ – một sự dại dột đã được chỉ ra qua những câu sau đây: “Người sửa xây lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người phá hủy, lập bàn thờ cho Ba-anh, dựng hình tượng A-sê-ra giống như của A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, đã làm, cúng thờ toàn cơ binh trên trời và hầu việc nó. Người cũng lập bàn thờ trong đền của Đức Giê-hô-va, mà Đức Giê-hô-va có phán về đền thờ rằng: Ấy tại nơi Giê-ru-sa-lem ta để danh ta ngự. Người xây những bàn thờ cho toàn cơ binh trên trời, tại nơi hai hành lang về đền thờ của Đức Giê-hô-va. Người đưa con trai mình qua lửa, tập tành phép thiên văn và việc bói điềm; lập lên những đồng cốt và thầy bói. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va quá chừng, chọc giận Ngài hoài. Còn hình tượng A-sê-ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ mà Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng: Ấy trong đền này và trong Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, mà ta sẽ đặt danh ta ngự đời đời … Nhưng chúng nó không nghe; chúng nó bị Ma-na-se quyến dụ làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên” (II Các Vua 21.3-7, 9).
Các tội lỗi của Manase đã được kể ra ở đây theo một trình tự lầm lạc càng lên cao dần. Trước tiên, ông ta “sửa xây lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người phá hủy”. Acha, là ông nội của Manase, đã dựng lên “các nơi cao” – các lùm cây trên đỉnh những ngọn núi mà người ta thờ lạy thần Asêra. Êxêchia đã đánh hạ chúng (II Các Vua 18.4). Manase dựng chúng trở lại.
Kế đó, Manase “lập bàn thờ cho Ba-anh”, tà thần chính của người Canaan, rồi dựng hình tượng Asêra giống như Aháp và Giêsabên, bộ đôi gian ác của Israel, đã làm (I Các Vua 16.33). Tượng Asêra là ảnh tượng của một nữ thần, vợ của thần Baanh, tiêu biểu cho nữ thần tình dục và sanh sản của người Canaan. Mấy cây cột được dựng lên tôn vinh nữ thần nầy rõ ràng là một loại hình tiêu biểu cho hình tượng dương vật.
Manase đã thờ lạy toàn cơ binh trên trời và hầu việc chúng. Ông ta đã thực hành phép thiên văn và bói điềm, dâng sự tôn kính của mình cho mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, cùng những ngôi sao (cũng xem Giêrêmi 8.2; 19.13). Ông ta đã dựng lên nhiều bàn thờ cho các tà thần trong đền thờ tại thành Jerusalem, là nơi Đức Chúa Trời có phán: “Ta sẽ đặt danh ta”.
Ông ta đã đưa các con trai mình qua lửa – trẻ sơ sinh làm của tế lễ. Theo nhà chép sử, “người đưa con cái mình qua lửa, tại trong trũng con Hi-nôm”. Và “người xem bói; ếm chú, dùng pháp thuật, ham theo những kẻ cầu vong và thầy phù thủy” (II Sử ký 33.6). Bản Kinh Thánh Hêbơrơ cho rằng ông ta đã cầu hỏi họ rất nhiều, ông ta đã “bổ nhiệm” họ. Nói cách khác, ông ta đã dành cho họ những bổ nhiệm trong triều đình và đặt họ trong văn phòng làm việc của ông ta.
Nếu điều nầy vẫn chưa đủ, vị vua trụy lạc nầy khi ấy lấy “hình tượng A-sê-ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ”. Ông ta đã lấy những hình thái khiêu dâm trước đây, những thứ bẩn thỉu và tục tỉu, rồi đem dựng lên tại Nơi Chí Thánh trong đền thờ của Chúa.
Chẳng còn một chỗ nào sáng sủa dành cho sự thờ lạy Đức Giêhôva. Manase đã chọn các tà thần của mình từ những nền văn hóa ở chung quanh Israel – từ dân Amôrít, dân Canaan, dân Philitin, dân Phênixi – nhưng chẳng có một tham khảo nào về Đức Chúa Trời là Đấng đã tỏ chính mình Ngài ra cho dân Israel.
Nhà chép sử kết thúc: “Ma-na-se quyến dụ [Israel] làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên”.
Hãy hiểu rõ những gì đã được ghi ra ở đây: một mình Manase gánh lấy trách nhiệm làm cho cả dân tộc đi xuống. Đúng là một di sản đã để lại sau lưng.
Bấy nhiêu vẫn chưa phải là hết đâu! Có một ghi chú còn kinh khủng hơn với mọi hàm ý của nó:
“Ma-na-se cũng đổ nhiều huyết vô tội ra, đến đỗi Giê-ru-sa-lem bị ngập từ đầu này đến đầu kia. Lại phụ thêm những tội lỗi người phạm gây cho Giu-đa phạm tội nữa, và làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va” (II Các Vua 21.16).
Manase đã làm cho các vị tiên tri phải câm nín đến giận dữ kinh hoàng. Josephus, sử gia Do thái, ghi lại rằng Manase “đã giết tất cả những người công bình nào hiện hữu giữa vòng dân Hêbơrơ, ông ta cũng không tha các vị tiên tri, mỗi ngày ông ta giết một số người trong họ cho tới khi huyết tràn ngập thành Jerusalem”.
Có một truyền khẩu lâu đời được ghi lại trong kinh Tamud, rằng Manase nhét vị thầy già nua của mình là Êsai vào một khúc gỗ rồi cưa nó ra làm hai. Chắc chắn đây là lai lịch của câu nói trong sách Hêbơrơ chép lại ít nhất một trong các anh hùng của Đức Chúa Trời đã bị “cưa xẻ” (Hêbơrơ 11.37).
PHẦN CÒN LẠI CỦA CÂU CHUYỆN
“Các chuyện khác của Ma-na-se, những công việc người, và tội người đã phạm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. Ma-na-se an giấc với tổ phụ người, được chôn trong vườn của đền người, tức trong vườn U-xa, A-môn, con trai người, cai trị thế cho người” (II Các Vua 21.17-18).
Đây là một việc rất kỳ quặc. Manase đã miệt thị Đức Chúa Trời trong 55 năm, đem thân mình xã láng trong từng thứ tư dục, sống đồi bại và làm suy sụp cả một dân tộc, và Đức Chúa Trời ngồi ở trên bàn tay của ông ta.
Có thực như thế không?
Thường thì chúng ta nhìn xem Đức Chúa Trời ở một mặt mà thôi – sự nhịn nhục lâu dài của Ngài: “Dầu vậy, Đức Giê-hô-va còn chờ đợi để làm ơn cho các ngươi” (Êsai 30.18). Nhưng còn có một mặt khác nữa: “công việc xét đoán lạ lùng” của Ngài.
Toàn bộ câu chuyện không được thuật hết trong sách Các Vua đâu. Mục đích của I & II Các Vua là lần theo sự sa bại của Israel và Giuđa đến cuộc phu tù Babylôn rồi cung ứng lý do cho cuộc phu tù đó. Các câu chuyện nhất thiết đã được tóm gọn lại. Tác giả chỉ neo vào các sự kiện góp phần vào đề tài của mình. Câu chuyện nói tới sự trị vì của Manase đã được tiếp tục và bổ sung thêm ở II Sử ký 33. Mục đích của nhà chép sử thì có khác. Chủ đề của ông là sự hồi phục ngai vàng của David. Vì mục đích nầy, tác giả đã chọn những sự kiện góp phần vào chủ đề đó và gồm những sự kiện đã bị bỏ sót trong sách Các Vua.
Chín câu đầu tiên của II Sử ký 33 cơ bản là phần sao lại II Các Vua 21.1-9 với một số thay đổi nhỏ. Thế rồi câu chuyện nổi bật lên:
“Đức Giê-hô-va phán bảo Ma-na-se và dân sự người; song chúng không chủ ý đến” (II Sử ký 33.10).
Sự phán xét của Đức Chúa Trời không rơi theo triền dốc. Không hề như vậy. Nhà thần học John Piper phát biểu như sau: “Cơn giận (của Đức Chúa Trời) đã được tuôn ra rất cứng rắn, nhưng ơn thương xót của Ngài còn nhanh hơn”. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta nhiều đến nỗi Ngài cứ để chúng ta đi. Ngài theo đuổi chúng ta – thậm chí trong tội lỗi của chúng ta – rồi nài nĩ chúng ta quay trở lại.
Một câu phương ngôn của người Thỗ Nhĩ Kỳ nói rằng Đức Chúa Trời có “đôi chân bằng len và hai bàn tay bằng thép”. Chúng ta không hay Ngài đến, nhưng khi Ngài tra tay Ngài trên chúng ta, chúng ta không thể luồn lách đi đâu được nữa. Phần b của lời hứa: “ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu” (Giôsuê 1.5) là lời thề Ngài sẽ không để chúng ta lại một mình. Ngài sẽ đuổi theo chúng ta, quấy rối chúng ta, làm cho chúng ta áy náy, khiến chúng ta phải khó chịu, và cật vấn chúng ta cho tới chừng chúng ta phải chịu thua.
Đức Chúa Trời có nhiều cách để giải cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi: có khi bằng một sự lôi kéo mà chúng ta cảm nhận được trong linh hồn của chúng ta; có khi bằng một lời nói do người bạn buông ra; có khi bằng một việc rắc rối nào đó; hay có khi bằng một quyển sách, một bài giảng, một cơ hội nhóm lại. Trong các phương thức nầy, Đức Chúa Trời đang nài nĩ chúng ta quay trở lại với Ngài.
Tôi nhớ một sinh viên mà tôi đã gặp ở trường Đại học Stanford cách đây nhiều năm. Anh ta ngồi trên băng ghế trước nhà thờ Memorial đang đọc tờ Stanford Daily. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, rồi chúng tôi bắt đầu trao đổi. Cuộc trao đổi tiếp tục rất mỹ mãn cho tới chừng nó đổi sang đề tài mối quan hệ của anh ta với Đức Chúa Trời.
Anh ta dậm chơn mình với một lời rủa sả rồi bỏ đi. Thế rồi anh ta dừng chơn và xây lại, anh ta nói: “Xin tha thứ cho tôi. Tôi đã lớn lên trong một gia đình Cơ đốc. Bố mẹ tôi là giáo sĩ của hệ phái Trưỡng Lão ở Đài Bắc, nhưng tôi thì sống xa cách Đức Chúa Trời trọn đời sống mình. Tuy nhiên, bất cứ đâu tôi đi đến cũng có người đến nói với tôi về Đức Chúa Trời”.
Hơn bất cứ điều chi khác, Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải nhượng bộ trước tình yêu thương của Ngài. George McDonald nói: “Tình yêu thương vây quanh chúng ta, tìm kiếm chổ rạn nứt nhỏ nhất để nó chui vào đó”. Đức Chúa Trời chờ đợi không hề mỏi mệt và yêu thương không ngừng nghỉ. Nhưng nếu chúng ta không có Ngài, Ngài sẽ để cho chúng ta đi đường mình rồi để cho chúng ta gặt lấy mọi hậu quả của sự chúng ta kháng cự. Nhưng dẫu vậy vẫn là điều ích cho chúng ta. Đấy là sự phán xét có tính cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời biết rõ khi cơn gió lạnh thổi qua, nó sẽ làm cho cái đầu của chúng ta xây lại.
“Vì cớ ấy, Đức Giê-hô-va khiến các quan tướng đạo binh của vua A-si-ri đến hãm đánh chúng; các quan ấy bắt đóng cùm Ma-na-se, xiềng người lại, rồi dẫn về Ba-by-lôn. Khi người bị hoạn nạn, bèn cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người” (II Sử ký 33.11-12).
Vua Asiri được nhắc tới ở đây có lẽ là Esarhaddon, con trai của Sennachaerib. Esarhaddon xỏ một chiếc vòng vào mũi của Manase, đóng cùm người cả hai tay hai chân, và đưa người sang Babylôn, trong 12 năm ở đó người tiều tụy trong ngục tù. Chiếc vòng đeo nơi mũi là cách sĩ nhục của người Asiri đối với các vì vua bị bắt phục, một thông lệ rõ ràng đã minh họa công cụ do người Asiri làm ra. Đúng là một sự sĩ nhục hoàn toàn! Đúng là một sự thất bại kinh khủng! Nhưng hết thảy mọi sự ấy đã đem Manase về quê hương cùng với Đức Chúa Trời.
CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ
Sự hồi phục bắt đầu với sự xấu hổ. MacDonald viết: “Biết xấu hổ là một việc phước hạnh và thánh khiết. Xấu hổ là xấu hổ chỉ cho người nào muốn tỏ mình ra, chớ không phải cho người nào muốn bị xấu hổ. Xấu hổ là xấu hổ chỉ cho người nào muốn vượt qua sự thử nghiệm, chớ không phải cho người nào giấu vào lòng những việc … Biết xấu hổ cách khiêm nhường là lao mình vào, dùng lẽ thật mà tắm rửa”. Hạ mình xuống và ăn năn là hai chìa khóa mở cửa lòng của Đức Chúa Trời. Đó là hai chìa khóa mà Manase đã sử dụng:
“Khi người bị hoạn nạn, bèn cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người” (II Sử ký 33.12).
Josephus nói rằng Manase đã “tự xem mình là nguyên nhân của mọi sự”. Ông ta đã chấp nhận hết mọi trách nhiệm về những việc mà ông ta đã làm – không chối bỏ, không miễn thứ, không xưng công bình, không đổ thừa, không van nài chi hết. Khi ấy Manase “đã hạ mình xuống lắm”.
Khuynh hướng của chúng ta là hay đưa ra những lời cáo lỗi cho bản thân mình, chúng đến từ suy nghĩ Đức Chúa Trời sẽ chẳng hề đem chúng ta trở lại trừ phi chúng ta thu nhỏ hay lý lẽ việc làm sai trái của chúng ta. Nhưng, như C. S. Lewis lưu ý: “Sự tha thứ thực có ý nói hãy nhìn thẳng vào tội lỗi, là thứ tội lỗi còn đó mà chẳng có một lời cáo lỗi nào hết, sau khi mọi sự công nhận đã được lập ra, và nhìn xem nó với sự kinh khủng, bẩn thỉu, bĩ ỗi, và hiểm độc, rồi làm hòa trọn vẹn với ai đó đã làm ra nó. Như thế, và chỉ như thế, mới là sự tha thứ; và chúng ta có thể luôn luôn có sự tha thứ từ Đức Chúa Trời”.
Manase không bị quên lãng đâu! Mặc dù sự gian ác ghê gớm lắm, Chúa vẫn là Đức Chúa Trời của Manase. Mặc dù cơn giận đã quét qua gương mặt của Đức Chúa Trời, Ngài không hề xây ánh mắt của Ngài đi.
TÌNH YÊU BẤT DIỆT
Trong quyển Cabin của Bác Tom (Uncle Tom’s Cabin) do Harriet Beecher viết, Tom than phiền: “Tôi thật là độc ác – độc ác lắm. Tôi chẳng thể làm chi được hết”. Tội lỗi là bản chất của chúng ta. Đấy là cách mà chúng ta buông mình trong cuộc sống – và chúng ta chẳng thể làm sao khác được nữa. Tuy nhiên, những thất bại cứ lặp đi lặp lại của chúng ta không làm thay đổi tâm tình của Đức Chúa Trời đối cùng chúng ta. Nếu bản chất của chúng ta là hay phạm tội, thì cứu rỗi chính là thuộc tánh của Ngài. Thiếu sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ không hề tồn tại với tội lỗi của chúng ta. Nó chỉ làm cho chúng ta phải khiếp sợ và đưa chúng ta xa khỏi Đức Chúa Trời mà thôi.
Chúng ta có những cái cớ cho sự kinh khiếp đó nếu Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta ngay từ sáng thế vì chúng ta đẹp đẽ như thế. Nhưng từ khi sự tán thưởng nguyên thủy của chúng ta không nương vào điều gì nơi chúng ta, thì sự tán thưởng đó không thể nương vào bất cứ điều chi nơi chúng ta trong lúc bây giờ. Không một điều gì nơi chúng ta xứng đáng với sự ưu ái của Ngài trước khi chúng ta trở lại đạo; không một điều gì nơi chúng ta xứng đáng với sự liên tục của việc trở lại đạo đó.
Đức Chúa Trời cứu chúng ta vì Ngài quyết định làm như thế. Ngài dựng nên chúng ta cho chính mình Ngài, và không có mối tương giao đó những cơn đau lòng của Ngài cứ dìm mãi trong sự cô độc. Đấy là lý do tại sao Đấng Christ đã chịu thương khó vì chúng ta – “Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời” (I Phierơ 3.18). Ngài không hề nhượng bộ. Ngài yêu chúng ta nhiều đến nỗi không nhượng bộ. “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết …” (Philíp 1.6).
Chúng ta phải chấp nhận ơn tha thứ rời rộng và đầy trọn của Đức Chúa Trời, rồi khi ấy hãy tự quên đi. Vì chúng ta là hạng tội nhân là sự thực không thể chối bỏ được. Chúng ta là hạng tội nhân được tha thứ cũng là sự thực không thể chối bỏ được. Chúng ta đừng nương dựa vào tình trạng tội lỗi của mình nữa. Tấm lòng của Đức Chúa Trời đang rộng mở cho chúng ta. Chúng ta phải tiếp lấy ơn tha thứ mà chúng ta đang có cần rồi cứ tiếp tục với cuộc sống.
KẾT THÚC MỸ MÃN
Còn nữa. Không những Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi chúng ta, Ngài còn sử dụng nó để khiến cho chúng ta ra tốt hơn trước đó. Hãy xem Manase kìa. Ông đã được tha ra khỏi ngục tù sau 12 năm và được phục hồi lại ngôi vị của mình. Khi ấy ông mới sắp đặt lo củng cố quốc phòng:
“Ma-na-se cầu nguyện cùng Ngài; Ngài nhậm lời người, dủ nghe lời nài xin của người, dẫn người về Giê-ru-sa-lem trong nước người; khi ấy Ma-na-se nhìn biết Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Sau việc ấy, người xây vách ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn trong trũng, đến lối vào cửa cá, và chung quanh Ô-phên, xây nó rất cao rồi người đặt những quan tướng trong các thành bền vững xứ Giu-đa. Người cất khỏi đền Đức Giê-hô-va những thần ngoại bang, hình tượng, và bàn thờ mà người đã xây trên núi của đền Đức Giê-hô-va và tại Giê-ru-sa-lem, rồi quăng nó ra ngoài thành. Đoạn, người sửa sang bàn thờ của Đức Giê-hô-va, dâng của lễ bình an và của lễ thù ân tại đó; người truyền dạy dân Giu-đa phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (II Sử ký 33.13-16).
Manase đã hủy diệt các tà thần và dời hết hình tượng ghê khiếp mà ông đã đặt trên nhà của Đức Giêhôva. Ông thù ghét các hình tượng với một tinh thần y như ông đã ưu ái chúng trước đây.
Ông tu sửa lại bàn thờ của Đức Giêhôva mà ông đã đánh hạ. Ông dâng của lễ trên đó, những của lễ thù ân và của lễ cảm tạ để ngợi khen Đức Chúa Trời vì ơn chửng cứu của Ngài. Giờ đây ông sử dụng quyền lực của mình để chỉnh đốn dân sự thay vì làm cho họ phải đồi bại.
Đây là những gì Giăng Báptít đã mô tả là: “kết quả xứng đáng với sự ăn năn” (Mathiơ 3.8). Sự ăn năn thật gắn liền với một sự thay đổi trong tầm nhìn và thái độ của chúng ta. Ăn năn thật không phải chỉ là buồn rầu đối với tội lỗi thôi đâu. Đây là sự đảo lộn suy tưởng của chúng ta. Tự nó sẽ tỏ ra trong một nổ lực quả quyết tự củng cố mình trong những lãnh vực chúng ta yếu đuối và trong chỗ chúng ta từng sa ngã trước đây. Sẽ có một quyết định mạnh mẽ tự canh giữ mình đối với tội lỗi.
Sự ăn năn thật còn có ý nói sống cách xa người nào, dù nam hay nữ, một khi họ có ảnh hưởng gây đồi bại cho chúng ta. Ăn năn thật có ý nói hãy ở ngoài những tình huống chúng ta có khuynh hướng vấp ngã trong đó.
Sự ăn năn thật gắn liền với một sự thay đổi trong tầm nhìn và thái độ của chúng ta. Ăn năn thật không phải chỉ là buồn rầu đối với tội lỗi thôi đâu. Đây là sự đảo lộn suy tưởng của chúng ta.
Ăn năn thật có ý nói phải cách xa những ảnh hưởng gây đồi bại trong phim ảnh, sách báo, tạp chí, và không gian ảo nữa. Ăn năn thật có ý nói phải tìm kiếm ai đó buộc chúng ta phải giải trình khi chúng ta đi đây đi đó, là người khiến cho chúng ta sống thành thực khi chúng ta rời khỏi nhà. Dù ăn năn có ý nói gì đi nữa, tình trạng lạc sai của chúng ta sẽ khiến chúng ta mạnh mẽ hơn và ra tốt hơn trước đây. Thậm chí từ tội lỗi của chúng ta, Đức Chúa Trời có thể rút ra điều tốt lành.
Đức Chúa Trời đã ban cho Manase 20 năm để trị vì. Ông đã tiếp lấy một khởi đầu tươi mới và tốt đẹp hơn, và ông đã làm tối đa cho sự khởi đầu ấy. Ông đã trở thành một trong những vị vua xuất sắc nhất của Giuđa, và trong 22 năm là một tấm gương vinh hiển cho Israel về ân điển của Đức Chúa Trời không thể tưởng tượng nổi. Đức Chúa Trời cũng làm như thế cho bạn đấy!
ĐIỀU CHI HIỆN CÓ TRONG MỘT CÁI TÊN?
Tên của Manase được rút ra từ một động từ Hy bá lai có nghĩa là “quên”. Đấy là chữ mà Đức Chúa Trời đã viết cho quá khứ của Manase và của chúng ta – đã quên. “Ta sẽ tha sự gian ác [ngươi], và chẳng nhớ tội [ngươi] nữa” (Giêrêmi 32.34). Oswald Chambers nói: “Đức Chúa Trời quên phứt tội lỗi của chúng ta”. Jeffrey Dahmer bật nhớ đến tỉ lệ tội lỗi không thể tha thứ cần phải xem xét. Dahmer xưng nhận đã giết 17 người, chặt chân tay một số người, làm tình với các thi hài, và ăn một số chi thể trong thân thể của họ.
Việc trình chiếu bối cảnh tội ác đó khiến cho Dahmer trở thành một biểu tượng gian ác của xứ sở. Sau cái chết đẩm máu của hắn tại Trung Tâm Cải huấn Columbia ở Wisconsin, ai nấy đều tin rằng hắn sẽ đi thẳng đến địa ngục. Một biên tập viên đã thốt ra lời nài xin khẩn thiết với quyền lực tối tăm: “Xin vui lòng nhận lấy Jeffrey Dahmer”.
Nhưng sự thể không diễn ra như vậy, Dahmer đã bắt đầu tham dự các lớp nghiên cứu Kinh Thánh ở trong tù. Kết quả, ông đã tuyên xưng đức tin công khai nơi Đức Chúa Jêsus Christ và đã chịu phép báptêm. Ông đã tìm được ơn tha thứ và sự bình an. Ông bình tỉnh trước số phận của mình, thậm chí sau khi một bạn tù đã rạch cổ họng của ông trong một buổi thờ phượng. Nếu ông sống thành thực, và sự thể cho thấy ông đã sống thành thực, chúng ta sẽ gặp ông một ngày kia trên thiên đàng.
Kỳ quặc làm sao, có phải không? Song đấy chính là ân điển của Đức Chúa Trời.
TÁI BÚT
Trong suốt nửa sau hiệp một của trận đấu Rose Bowl vào năm 1929, Riegels đã trốn vào một góc phòng của UCLA với cái khăn quấn quanh đầu mình. Huấn luyện viên của anh, Nibbs Price, chẳng nói gì với anh và nói rất ít với cả đội.
Ba phút trước khi hiệp nhì, ông đã bình tỉnh nói: “Cả đội đã khởi sự hiệp một sẽ khởi sự với hiệp thứ nhì”. Riegels la lên: “Huấn luyện viên ơi, tôi không thể. Tôi đã làm nhục cho cả đội, cả trường và bản thân tôi. Tôi không thể thi đấu được nữa”. Price hô lớn: “Hãy trở lại với trận đấu. Đấy chỉ là nửa hiệp thôi mà”.
Đúng là một huấn luyện viên! Đúng là một Đức Chúa Trời!
DAVID:THẮNG HƠN
NHỮNG LỜI TỰ BIỆN HỘ DỐI TRÁ
Khi thất bại và thành công trở thành vấn đề, một sự cố trong đời sống của David thoạt đến trong lý trí. Nó diễn ra trong thời kỳ khi ông và Saulơ đang chơi trò chơi trốn tìm. Saulơ, đang truy đuổi David và đồng đội của ông trong đồng vắng xứ Giuđê, nhất quyết đánh hạ ông cho bằng được.
Saulơ vốn quen thuộc với những nơi David thường lui tới và các chỗ David ẩn náu. David có thể bỏ chạy, nhưng ông biết ông không thể trốn tránh được nữa. Ông yếu sức và kiệt lực. Dường như mọi rối rắm của ông không có tận cùng.
Những bài hát được gắn cho thời kỳ nầy trong đời sống của David đều là những bài ai ca. Âm điệu chỉ là thất vọng và ngã lòng.
“Đức Giê-hô-va ôi! vì cớ gì Ngài đứng xa, lúc gian truân tại sao Ngài ẩn mình đi?” (Thi thiên 10.1).
“Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào? Ngài ẩn mặt cùng tôi cho đến bao giờ?” (Thi thiên 13.1).
“Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi?” (Thi thiên 22.1).
QUYẾT ĐỊNH NGUY HIỂM CỦA DAVID
David đã lên dây đàn tới tận cùng rồi. Ông không thể lên hơn được nữa. Vì vậy, ông đã nghĩ thầm:
“Đa-vít nói thầm nghĩ rằng: Chắc một ngày kia, ta sẽ chết bởi tay Sau-lơ. Ta chẳng làm chi hay hơn bằng trốn trong xứ Phi-li-tin, thì Sau-lơ sẽ chẳng còn kiếm ta trong cả địa phận Y-sơ-ra-ên nữa. Như vậy, ta sẽ thoát khỏi tay người” (I Samuên 27.1).
Trong quá khứ, David đã nói với Gát hay với một trong những mưu sĩ khác của ông. Hoặc hay hơn nữa, ông “đã cầu hỏi Đức Giêhôva” (I Samuên 23.2, 4). Nhưng trong trường hợp nầy, David đã không cầu hỏi Chúa hay ai khác. Ông đã nhìn vào các hoàn cảnh, chỉ còn biết có sợ hãi, rồi trốn vào xứ Philitin. Dưới mọi cảnh ngộ, ông đã tin rằng đấy là việc tốt nhứt mà ông phải làm.
Cụm từ được dịch: “Việc tốt nhứt tôi có thể làm để thoát thân” được đặt trong một phương thức cho thấy vội vã lắm: “Tôi sẽ thoát ngay lập tức, tôi sẽ thoát ngay bây giờ”.
Những quyết định đưa ra khi chúng ta bị đánh té ngã hay cùng quẫn về mặt tình cảm là rất nguy hiểm. Chúng ta yếu đuối trước những sự lựa chọn tồi tệ khi chúng ta ở trong trạng thái đó của lý trí – những sự lựa chọn chúng ta không hề đưa ra nếu chúng ta đang ở trên đỉnh cao của mọi sự. Khi chúng ta bị đánh ngã, chúng ta rơi vào sự xét nét tồi tệ, đây là điều không thể tránh được.
Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người độc thân đã quyết định trong một phút yếu đuối cho rằng họ không thể giữ được tư tưởng về tình trạng cô độc vĩnh viễn, vì vậy họ ổn định với người bạn đời là kẻ làm cho đời sống của họ càng đáng thương hơn? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã lui khỏi những việc làm tốt trong một phút thất bại, giận hờn, rồi giờ đây thấy mình thất nghiệp trong vô vọng sống trong những tình huống chẳng mong muốn bao giờ? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã rút lui ra khỏi cuộc hôn nhân của họ khi họ yếu sức dần rồi sống để tiếc nuối về quyết định đó? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã lui ra khỏi những chức vụ đầy kết quả vì cớ sự yếu đuối và thất vọng?
Ignatius xứ Loyola, một Cơ đốc nhân xứ Basque vào thế kỷ thứ 16, đã viết một quyển sách có đề tựa là Những bài học thuộc linh. Ông chỉ ra rằng có hai tình trạng trong đời sống Cơ đốc. Một là sự yên ủi: “Khi linh hồn thức tỉnh tới một tình yêu dành cho Đấng Tạo Hóa và Chúa của nó. Khi đức tin, sự trông cậy, lòng thương xót, và niềm vui mừng bên trong cảm thúc linh hồn nếm biết sự bình an và yên tỉnh trong Chúa của chúng ta”. Còn tình trạng kia là sự phiền muộn: “Khi có sự tăm tối trong linh hồn, tâm trí rối bời, một xu hướng mạnh mẽ nhắm vào những việc đời nầy, bất an, kết quả từ sự lo âu, và những cám dỗ dẫn đến mất đức tin. Chúng ta thấy mình lãnh đạm, hâm hẩm, buồn rầu, và lui đi xa khỏi Chúa, như vốn thực vậy”.
Ông viết: “Trong lúc ngã lòng, một người đừng nên tạo ra một sự thay đổi, nhưng hãy vững vàng và bền đỗ trong sự kiên định và trong sự quyết định đã dẫn dắt người trong ngày trước khi ngã lòng, hay với quyết định mà người đã có trong sự yên ủi trước đó. Vì như tâm tình sáng láng dẫn dắt và yên ủi chúng ta trong sự yên ủi, cũng vậy trong sự ngã lòng linh tà ác dẫn dắt và mưu luận. Theo những mưu luận của linh ác nầy, một người không thể tìm được phương thức đúng đắn để đưa ra một quyết định đúng đắn”.
Ông nói tiếp: “Mặc dù trong sự ngã lòng, chúng ta không thay đổi những quyết định trước đó của mình, nó sẽ trở nên rất thuận lợi cho chúng ta làm mạnh thêm sinh hoạt chống lại sự ngã lòng. Điều nầy có thể được thực hiện bằng cách khăng khăng nhiều hơn trong sự cầu nguyện, suy gẫm, xem xét, và xưng tội”.
Vì thế, chúng ta nên chờ đợi và cầu nguyện. Hiển nhiên là David đã học biết chờ đợi nơi Đức Chúa Trời (Thi thiên 5.3: 27.14; 33.20; 37.7, 34; 38.15). Ông đã chờ đợi trong cơ hội nầy, nhưng ông đã để cho lý trí ông dậy lên. Được cung ứng cho trong các hoàn cảnh của ông, xứ Philitin trông tốt hơn bóng cánh không thấy được của Đức Chúa Trời.
“Vậy, Đa-vít chổi dậy, cùng sáu trăm người theo mình, sang qua đến A-kích, con trai Ma-óc, vua Gát. Đa-vít và những kẻ theo người ở cùng A-kích tại Gát, mỗi người có gia quyến mình. Đa-vít có hai vợ theo, tức là A-hi-nô-am ở Gít-rê-ên và A-bi-ga-in, trước làm vợ của Na-banh ở Cạt-mên. Sau-lơ hay rằng Đa-vít trốn đến Gát, thì thôi đuổi theo người” (I Samuên 27.2-4).
TÌNH TRẠNG BẤT AN CỦA DAVID
David được an toàn trong xứ Gát, dù bất an có tăng lên. Mọi hoạt động của ông đều bị hạn chế. Ông phải giảm đi phần tự quản và độc lập của mình. Ông cảm thấy nhu cần phải ra khỏi thủ phủ của nhà vua, vì vậy ông đã xin Akích một địa điểm khác để sinh sống. Đây là lời cầu xin đó:
“Đa-vít nói cùng A-kích rằng: Nếu tôi được ơn trước mặt vua, xin hãy nhường cho tôi một nơi nào thuộc về các thành ở ngoài đồng bằng, để tôi ở đó. Vì tôi tớ vua ở trong đế đô với vua mà chi? Vậy, trong ngày đó A-kích ban Xiếc-lác cho người; bởi cớ ấy, Xiếc-lác thuộc về vua Giu-đa cho đến ngày nay. Thì giờ Đa-vít ngụ trong xứ dân Phi-li-tin là một năm bốn tháng” (I Samuên 27.5-7).
Sau cùng, David và đồng đội của ông có thể ổn định được rồi. Vì trong nhiều tháng trời, mạng sống của họ luôn luôn ở trong chỗ báo động đỏ và chiến đấu miệt mài. Giờ đây, họ đã có một góc nhỏ bình an. Con cái của họ có thể chơi đùa trong an toàn. Những người nam và nữ lớn tuổi có thể ngồi dưới ánh mặt trời và trò chuyện. Những người đàn ông có thể làm việc ở ngoài đồng thay vì nơm nớp với những cuộc bố ráp và cướp phá.
David và người của ông đã sống trong Xiếclác chẳng ai quấy nhiễu trong một thời gian, và mọi sự dường như xuông xẻ ở bề ngoài. Thế nhưng, đây là thời điểm cằn cỗi trong sự đồng đi của David với Đức Chúa Trời. Ông không viết một bài thơ và hát một bài ca nào trong xứ Xiếclác. Chàng ca sĩ tuyệt vời của Israel đã bị câm nín. David đã bị cuốn đi xa khỏi Chúa.
Nhưng sự trôi giạt của David không kết quả trong chỉ thất bại riêng tư thôi đâu – ông đã đặt bạn hữu ông trong cảnh hiểm nghèo thuộc linh. Xứ Philitin nằm ở ngoài cơ nghiệp của Đức Giêhôva, nơi ở của Đấng Chí Cao. Xứ ấy đầy dẫy hình tượng (II Samuên 5.21).
Khi David bị cuốn xa khỏi Đức Chúa Trời, ông thấy bất an ngày càng tăng – một trạng thái của lý trí luôn luôn nhận chúng ta chìm vào những rối rắm sâu sắc.
CUỘC BỐ RÁP KINH KHỦNG CỦA DAVID
“Đa-vít và những kẻ theo người đi loán đến đất dân Ghê-su-rít, dân Ghiệt-xít, và dân A-ma-léc, là những dân tộc từ lâu đời ở miền lân cận Su-rơ cho đến xứ Ê-díp-tô. Đa-vít phá hủy xứ nầy, chẳng để một người nam hay nữ còn sống; cướp lấy chiên, bò, lừa, lạc đà, và áo xống; đoạn, trở về cùng A-kích. A-kích hỏi: Ngày nay, ngươi đi xâm đoạt nơi nào? Đa-vít đáp: Trong miền nam đất Giu-đa, miền nam đất dân Ghê-ra-mê-lít, và miền nam đất dân Kê-nít. Đa-vít chẳng chừa một người nam hay nữ còn sống đặng dẫn về Gát; vì nói rằng, e chúng nó sẽ cáo chúng ta mà rằng: Đó là điều Đa-vít đã làm. Trọn lúc Đa-vít ngụ trong xứ dân Phi-li-tin, thường hay làm như vậy. Cho nên A-kích tin Đa-vít, mà rằng: Hắn làm cho hắn bị gớm ghiếc nơi Y-sơ-ra-ên, là dân sự hắn, nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời” (I Samuên 27.8-12).
David đã cướp phá hết làng nầy sang làng khác rồi phân phối chiến lợi phẩm cho bà con mình trong xứ Giuđa (I Samuên 30.26). Nhưng có một chú thích đáng phải để ý đến trong câu chuyện. David đã sử dụng một chính sách tiêu diệt – giết những người nam, người nữ, trẻ con, e chúng báo cáo về ông. Các động từ “phá hủy”, “chẳng để”, và “cướp lấy” là những từ mà các nhà văn phạm gọi là: “các động từ xảy ra nhiều lần” mô tả hành động theo thói quen. Tiêu diệt là “chính sách” của ông, giống như bản Kinh Thánh Hêbơrơ mô tả nó: “bao lâu ông sinh sống trong xứ Philitin”. David đã chạy theo con đường riêng trong một năm bốn tháng.
SỰ GIẢ DỐI CỦA DAVID
Là chư hầu của nhà vua, David có bổn phận phải tường trình về các trận đánh và phân chia một số chiến lợi phẩm lấy được từ những chiến thắng của mình. Akích đã hỏi ông: “Ngày nay, ngươi đi xâm đoạt nơi nào?” David nói dối: “Trong miền nam đất Giu-đa, miền nam đất dân Ghê-ra-mê-lít, và miền nam đất dân Kê-nít”.
David đã dấn thân vào một con đường đòi hỏi phải nói dối liên tục. Ông cứ mãi nói dối với Akích, một sự dối trá hoàn toàn bất xứng với bổn tánh của ông. Akích đã chấp nhận báo cáo của David, xem như đấy là bằng chứng cho thái độ thù hận đối với Israel, ông ta nghĩ rằng David đã tự mình xa lánh với đồng bào của mình và giờ đây đã hoàn toàn chịu phục sự ông ta. Ông ta nói: “Hắn làm cho hắn bị gớm ghiếc nơi Y-sơ-ra-ên, là dân sự hắn, nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời” (I Samuên 27.12).
Đây là một mệnh đề rất thú vị: “nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời”. David, một linh hồn tự do của Đức Chúa Trời, đã bán mình phục vụ cho một vị vua tà giáo. T.S. Eliot nói: “Linh hồn trong trạng thái ức chế đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác, trừ phi nó được phục hồi bởi ngọn lửa luyện lọc”.
PHÚT CHÂN THẬT CỦA DAVID
Người Philitin tập trung các lực lượng của họ tại Aphéc để chiến tranh nghịch cùng dân Israel. Họ vốn biết rõ tình trạng phân rẽ trong vương quốc của Saulơ và đã thỏa lòng lắm khi nhìn thấy số lượng những kẻ mạnh sức ngày càng tăng thêm trong sự lìa bỏ Saulơ và đồng cảm với David và có lẽ cũng đồng cảm với quân đội Philitin.
Người Philitin bèn quyết định đánh một trận sau cùng. Vì vậy, họ đã cho tập trung mọi lực lượng của họ – cùng với David và người của ông – với dự tính tấn công Israel trên khắp đồng bằng Esdraelon. David buộc phải đi theo nhà vua ra chiến trận, mặc dù ông phải đánh trận chống lại đồng bào của mình, chống lại Saulơ Vua mình, và chống lại Giônathan, là bạn thiết của mình.
Có thể là ở điểm nầy tấm lòng của David bắt đầu xây sang Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài gỡ ông ra khỏi tình trạng hỗn độn mà bản thân ông tự dính vào. Nếu thế, thì Đức Giêhôva lắng nghe ông.
F.B. Meyer đã viết: “Nếu bởi lầm lỗi và tội lỗi, bạn tự lui về trong một tình huống giả tạo giống như vầy, đừng thất vọng, vẫn phải hy vọng nơi Đức Chúa Trời. Hãy xưng ra rồi gạt bỏ tội lỗi của mình đi, và hãy hạ mình xuống trước mặt Ngài và Ngài sẽ dấy lên để giải cứu bạn. Bạn đã tự hủy diệt mình, nhưng ở trong Ngài sẽ là sự cứu giúp cho bạn đấy”.
Một cánh cửa hy vọng đã được mở ra. Ngay trong đêm gặp gỡ ấy, Đức Chúa Trời đã can thiệp. Chính người Philitin đã khẳng định rằng David và người của ông chẳng có phần gì trong chiến trận, vì vậy họ quay trở lại nơi cư ngụ của họ tại Xiếclác.
“Khỏi ba ngày, khi Đa-vít với những kẻ theo mình đến Xiếc-lác, thì dân A-ma-léc đã loán đến miền nam cùng Xiếc-lác, xông vào Xiếc-lác và đã phóng hỏa nó. Chúng bắt lấy các người nữ và hết thảy kẻ lớn nhỏ ở tại đó. Chúng nó chẳng giết một ai, song khi đi, có dẫn tù hết thảy. Khi Đa-vít và những kẻ theo người đến thành, thì thành đã bị lửa cháy; vợ, con trai, con gái của chúng đều đã bị dẫn tù. Bấy giờ, Đa-vít và những kẻ theo người đều cất tiếng lên khóc, khóc đến đổi không còn sức khóc nữa” (I Samuên 30.1-4).
David và người của ông đã trên đường đi khoảng 3 ngày và đã kiệt lực, đang mong mỏi gặp lại vợ con mình. Khi họ đến gần Xiếclác, họ nhìn thấy một cột khói trên đường chân trời, khi còn vài dặm nữa đến Xiếclác, thì thấy thành đã bị phóng hỏa, những phụ nữ và con nhỏ của họ đều bị bắt đi làm phu tù. Thay vì gặp gỡ nhau trong hạnh phúc, đã có im lặng và hoang vu thật là đáng sợ. Chỉ còn có vài người lớn tuổi còn ở đó để thuật lại câu chuyện. David và người của ông đã bật khóc cho tới chừng không còn sức khóc nữa.
Các đội quân của David xây lại và nhìn trừng trừng nơi ông với giận dữ im lặng. Có người muốn hành quyết ông. Bản thân David chịu trách nhiệm về sự mất mát của họ, và ông vốn biết rõ như vậy. Lẽ ra ông phải để một số người ở lại để trông chừng thành phố. Ông phải biết như thế. Ông đã làm cho ai nấy đều ngã lòng hết. Bạn có thể tưởng tượng nổi trống vắng khủng khiếp của ông.
Và rồi, đã có sự mất mát của chính cá nhân ông. Chẳng còn có hy vọng, chẳng có một triển vọng giải cứu nào cho tình hình nầy. Ông không thể đuổi kịp người Amaléc. Họ đã cởi trên lưng lạc đà và đã đi xa rồi. Khi chúng ta có hy vọng, chúng ta có thể chịu đựng. Khi hy vọng của chúng ta bị cướp mất, cuộc sống mất mát hết ý nghĩa của nó.
David vốn ý thức về sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời. Lương tâm ông đã tỉnh thức và khởi sự nói. David đã lãnh đạo một sinh hoạt gấp bằng hai – phản bội Akích và đột kích liên quân Philitin. Ông đã tàn sát nhiều làng mạc và rồi đã nói dối. Giờ đây, ngôi làng và gia đình của ông đều tan hoang. Đây là một trong những giờ phút tăm tối nhất trong cuộc đời của David.
SỰ ĂN NĂN CỦA DAVID
David đã bật khóc trong đau thương và thất vọng. Ông đã khóc cho tới chừng không còn sức khóc nữa. Một phản ứng hoàn toàn rất tự nhiên. Châm ngôn 15.13 chép: “Nhưng tại lòng buồn bã trí bèn bị nao sờn”. “Đa-vít bị sự hoạn nạn lớn, vì dân sự toan ném đá người, bởi hết thảy đều có tâm hồn đầy cay đắng, vì cớ mất con trai và con gái mình. Nhưng Đa-vít được sức mạnh nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình” (I Samuên 30.6).
“David bị sự hoạn nạn lớn”, nhưng ông đã “được sức mạnh nơi Giêhôva Đức Chúa Trời mình”. Bản Hêbơrơ đọc: “Ông tự có sức mạnh nơi Đức Giêhôva”. Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong Kinh Thánh.
Một lần nữa, David đã xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của ông! Không nghi ngờ chi nữa, người của David đã nghe ông lặp đi lặp lại: “Đức Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi, hòn đá tôi, sự cứu rỗi của tôi”.
Mặc dù David đã làm tổn thương trầm trọng danh của Đức Chúa Trời bởi sự ông thất bại về đức tin và những sách lược phản bội và gây đau khổ, Đức Giêhôva vẫn là Đức Chúa Trời của ông. Và trong cơn khủng hoảng hiện tại, ông có thể đến nương dưới bóng cánh của Ngài.
Đức Chúa Trời không bao giờ bỏ đi ơn cứu giúp của Ngài, thậm chí khi chúng ta đã đem sự hủy hoại chất trên bản thân mình. Bất chấp điều chi chúng ta đã làm, chúng ta phải chạy đến với Ngài rồi nắm lấy bàn tay mạnh sức của Ngài. Người nào chạy đến với Đức Chúa Trời đem theo gánh nặng thất bại trong trí mình rồi thưa với Ngài: “Ngài là nơi nương náu của con” là người hiểu rõ tấm lòng giàu ơn của Đức Chúa Trời.
David “được sức mạnh nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình”. Ông phải quay trở lại với những lời hứa của Đức Chúa Trời về sự tha thứ và phục hồi, những gì thường làm cho ông được phấn khởi trong những lúc tăm tối của cuộc đời ông. Ông đã nhớ lại những bài thơ mà ông đã viết trong những ngày tối tăm kia giống như những ngày nầy đã phản ảnh sự thành tín của Đức Chúa Trời. Ông đã nhớ lại mình đã từng ở trong những tình huống tồi tệ hơn cả tình huống nầy và Đức Chúa Trời đã cứu giúp ông trong những lúc đó. Mặc dù đức tin ông đã được thử nghiệm rồi, đức tin ấy không rơi vào chỗ thất vọng. Trong phương thức nầy, ông tự khích lệ mình.
Mọi sự ở chung quanh David đều là thất bại và đổ nát. Nhưng Đức Chúa Trời đang ở gần. “Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi thiên 46.1). David đã được sức lực từ Đức Chúa Trời rồi trở thành trung tâm của sự bình an. Hãy nhớ lời lẽ của Phaolô: “Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ” (I Côrinhtô 16.13).
SỰ HỒI PHỤC CỦA DAVID
David, đến cuối cùng, đã thu lại mọi sự mà người Amaléc đã lấy đi, kể cả gia đình ông (I Samuên 30.18-19). Nhưng không phải mọi thất bại của chúng ta sẽ giống như thế đâu! Chẳng có một sự bảo đảm nào trong đời nầy chúng ta sẽ có lại gia đình mình, công ăn việc làm, tiếng tăm mà chúng ta đã đánh mất do sự rồ dại của chúng ta.
Chúng ta có thể đến với tận cùng những năm tháng của chúng ta một con đường dài xa cách mục tiêu của chúng ta. Có thể chúng ta nhìn biết nhiều thất bại hơn là thành công. Có thể chúng ta không có quyền lực hay thịnh vượng. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận sự thất vọng rồi để cho nó kéo chúng ta đến gần với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tìm thấy đúng lúc thất bại của chúng ta đã cung ứng cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc hơn về tình yêu và ân sũng của Đức Chúa Trời. Đấy là một việc rất sâu xa và có cần nhất.
Cần phải có một đức tin lớn để tin rằng mọi thất bại của chúng ta là vì ích lớn lao hơn. Nhưng đấy là sự thực. Chúng ta học biết nhiều từ thất vọng hơn là chúng ta tiếp thu từ thành công. Chúng ta đạt tới mức nhận biết Đức Chúa Trời và các đường lối của Ngài. Người nào chưa bao giờ thất bại chưa bao giờ biết được sự khai phá đó.
DAVID: Thắng hơn thất bại đạo đức
Tôi luôn nhìn thấy nhiều bạn bè mình sa ngã. Tôi lấy làm lạ, không biết sao họ cứ sa ngã luôn!?! Điều chi khiến cho một người đối xử tệ với cuộc hôn nhân của mình và mọi điều mà người ấy đã hết lòng lo liệu, một việc nhất thời chăng? Hãy lấy David làm thí dụ – vị vua lỗi lạc nhất của Israel, là người “vừa lòng Đức Chúa Trời”. Ông đã đem lòng mê đắm Bátsêba, người vợ trẻ, xinh đẹp của Uri.
Chuyện xảy ra lúc “năm mới, khi các vua thường ra tranh chiến” (II Samuên 11.1). Thực vậy, mùa xuân ấy nằm trong tình huống không thể tránh được, mọi năng lực của David đã nhắm vào một chỗ khác: “Một buổi chiều kia, Đa-vít chổi dậy khỏi giường mình, đi dạo chơi trên nóc đền vua” (câu 2).
Từ đó, ông đã có một cái nhìn bao quát thành Jerusalem và có thể nhìn xuống sân của vùng phụ cận. Khi ông quan sát cả thành phố, mắt ông rơi đúng chỗ một phụ nữ trẻ đang tắm. Câu Kinh Thánh cho biết, nàng rất xinh đẹp (câu 2).
Nếu người phụ nữ kia không đoan trang, bạn phải nhớ chẳng có một hệ thống nước máy nào trong thời buổi ấy. Tắm rửa thường diễn ra ngoài trời trong sân có hàng rào bao quanh.
David đã mê đắm! Ông sai người hỏi thăm cho biết người nữ ấy là ai (câu 3), và một trong những bạn hữu của ông đã làm cho ông phải thất vọng. Ông hỏi: Có phải “Ấy là Bát-Sê-ba, con gái của Ê-li-am, vợ của U-ri, người Hê-tít”? (câu 3). Nàng là một thiếu phụ đã có chồng – thực vậy, nàng đã lấy Uri, một trong những tráng sĩ của David, một thành viên trong đội cận vệ của David (II Samuên 23.39).
Tuy nhiên, David đã không chối từ. Ông “sai người đem nàng đến”. Việc sai lầm nầy dẫn đến sai lầm khác và “vua ngủ với nàng… nàng trở về nhà”. Sau đó, Kinh Thánh cho chúng ta biết: “Người nữ nầy … sai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai” (II Samuên 11.4-5).
David biết rõ mình đã gặp rắc rối lớn. Chồng của Bátsêba đã lao vào trận khi bao vây thành Rápba của dân Amôrít và phải kẹt lại trong mấy tháng. Ai cũng có thể đếm đến chín. Ở vùng đất khác, vua là Luật pháp, nhưng không như thế trong Israel. Không một ai cao hơn Lời của Đức Chúa Trời. Tà dâm là tội trọng.
Nhưng David, luôn luôn là một con người của hành động, đã vạch ra một chương trình hầu đẩy lùi mọi hậu quả của vụ việc nầy. Ông gửi lời cho Giôáp, theo lịnh ông triệu Uri về thành Jerusalem, bề ngoài là báo cáo về trận chiến, song trong thực tế là đưa ông ấy về nhà với Bátsêba. Khi người chiến binh nầy về tới, David lắng nghe mọi tường trình vắn tắt của ông ấy rồi truyền lịnh cho Uri phải về nhà: “Hãy đi xuống nhà ngươi và rửa chân đi” (câu 8), ông vừa nói vừa nháy mắt.
Thế nhưng, Uri “không về nhà mình, ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua” (câu 9). Khi David hỏi tại sao ông không về nhà, Uri đã giải thích: “Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!” (câu 11).
David đáp: “Hãy ở lại đây ngày nay, rồi mai ta sẽ sai ngươi đi. Vậy, U-ri ở lại tại Giê-ru-sa-lem ngày ấy và ngày sau. Đoạn, Đa-vít vời người ăn uống tại trước mặt mình, và làm cho người say; nhưng chiều tối, U-ri đi ra ngủ trên giường mình với các tôi tớ của người, chớ không có đi xuống nhà mình” (11. 12-13).
Uri không về nhà trong khi những người khác dưới quyền mình đã bị tẻ tách ra khỏi vợ và gia đình họ. Bất chấp mọi nổ lực lặp đi lặp lại của David khuyên nài Uri, người chiến binh Hêtít nầy đã từ chối. Mỗi tối, Uri đã cuộn mình trong túi ngủ ở ngoài sân của lính gát cung điện rồi ngủ với số lính gát nầy.
Thời gian trôi đi. Trong nổi thất vọng, David ký một hợp đồng cho đời sống mình, ra lịnh cho Giôáp phải “Hãy đặt U-ri tại hàng đầu, nơi hiểm nguy hơn hết của chiến trận, rồi hãy rút ra xa người, để người bị đánh và chết đi” (câu 15).
Giôáp, chẳng dại dột gì nên đã từ chối không làm theo huấn thị của David. Chương trình phản bội rõ ràng đến nỗi ông đã thay đổi như sau: “Vậy, khi Giô-áp vây thành, bèn đặt U-ri tại chỗ đã biết có lính mạnh bạo của thù nghịch gìn giữ. Người trong thành kéo ra đánh Giô-áp, có mấy người trong bọn tôi tớ Đa-vít ngã chết. U-ri, người Hê-tít, cũng chết” (các câu 16-17).
Khi ấy Giôáp sai người đến với David kèm theo báo cáo về trận đánh. Ông ta biết rõ David sẽ chỉ trích chiến thuật của mình và sự mất mát nhiều mạng sống, nhưng ông đã mau mắn báo cáo Uri đã tử trận (các câu 18-22). David không muốn Giôáp phải khó chịu nên ông nói: “gươm, khi giết kẻ nầy, khi giết kẻ khác” (câu 25).
Khi Bátsêba hay được chồng mình đã chết, nàng đã than khóc cho người. Khi thời kỳ than khóc ngắn ấy qua rồi, David “vời nàng vào cung; nàng trở nên vợ người, sanh cho người một con trai” (các câu 26-27).
David đã thực hiện vội vàng, nhưng hôn nhân đặt một dấu chấm sau cùng và hợp pháp cho vụ việc bẩn thỉu – hay David tưởng thế. Còn Đức Chúa Trời thì biết rõ, và “điều Đa-vít đã làm đó không đẹp lòng Đức Giê-hô-va” (câu 27).
Một năm trôi qua, trong suốt thời gian đó David về mặt thể chất và tình cảm đã trở nên xấu đi. Về sau ông mô tả cảm xúc nầy:
“Khi tôi nín lặng, các xương cốt tôi tiêu-tàn, Và tôi rên siếc trọn ngày; Vì ngày và đêm tay Chúa đè nặng trên tôi; Nước bổ thân tôi tiêu hao như bởi khô hạn mùa hè” (Thi thiên 32.3-4).
Lương tâm ray rứt của ông khiến cho ông thấy bất an và sầu muộn. Mỗi phút thức tỉnh đầy dẫy với đau thương. Lúc đêm xuống, ông trằn trọc và trăn trở. Nổi lo sợ đã hủy hoại sức lực của ông. Sự ngã lòng của ông được đào sâu với từng ngày trôi qua.
Hiển nhiên là David đã đối diện với những sự thực. Chính xác hơn, ông phải đối mặt với tiên tri Nathan, là người biết rõ sự thực. Nathan đã gài bẫy nhà vua xuất thân từ nghề chăn chiên nầy với một câu chuyện nói tới một gã nhà giàu kia có nhiều bầy chiên, nhưng lại là người bắt lấy chiên con của người khác để đãi khách (II Samuên 12.4).
David đã nổi giận, và lúc đầu ông đã phản ứng mạnh mẽ như là kẻ bị xúc phạm về đạo đức: “người đã phạm điều ấy thật đáng chết!”
Nhưng việc bắt một con chiên con chẳng phải là một sự xúc phạm chính trong Israel. Theo Xuất Êdíptô ký 22.1, một tên trộm bị buộc phải bồi thường gấp bốn lần cho nạn nhân. Khi ấy David nói: “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con không có lòng thương xót” (câu 5).
Nathan kết án ngay: “Vua là người đó! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Ta đã xức dầu lập ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ta đã giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. Ta cũng ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao vào tay ngươi các vợ của chủ ngươi, lập ngươi làm vua của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và nếu điều đó không đủ, ắt ta sẽ thêm cho ơn khác nữa. Cớ sau ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài?” (12.7-9).
Khi ông bị đưa đến chỗ phải đối mặt với sự đồi bại của mình, những lời biện hộ của David đã bị vỡ nát ra. Lấy hai bàn tay bụm lấy mặt, ông kêu lên: “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va”. Và Nathan đáp: “Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu” (câu 13).
Trước sự công nhận của David, ông không ra sức để tự xưng công bình. Ông đã công nhận tội lỗi mình, và Đức Chúa Trời ngay tức khắc hủy đi cáo trạng nghịch cùng ông. David có thể ngước đầu mình lên. Về sau ông đã viết:
“Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi” (Thi thiên 32.5).
Như sứ đồ Giăng đã hứa: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (I Giăng 1.9). Hạnh phúc là nhìn biết rằng tội lỗi của chúng ta đã được tha.
“Phước thay [hạnh phúc] cho người nào được tha sự vi phạm mình! Được khỏa lấp tội lỗi mình! Phước thay cho người nào Đức Giê-hô-va không kể gian ác cho, Và trong lòng không có sự giả dối!” (Thi thiên 32.1-2).
David đã gánh lấy các hậu quả kinh khủng vì cớ tội lỗi mình. Nathan đã nói trước David sẽ chịu khổ:
“Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, bởi vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ U-ri, người Hê-tít, đặng nàng làm vợ ngươi. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi; ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mắt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhựt. Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt… Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (II Samuên 12.10-12, 14).
David đã trả giá xứng đáng cho vài phút khoái lạc của ông. Sinh hoạt gia đình ông và sự nghiệp chính trị bị xé toạc ngay đường chỉ nối kể từ lúc đó trở đi. Mọi sự mà Nathan nói trước đã trở nên sự thực.
“Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy” (Galati 6.7).
Nhưng David có thể chổi dậy từ chỗ sa ngã để bước đi với Đức Chúa Trời. C.S. Lewis viết: “Không một lượng sa ngã nào có thể thực sự làm cho chúng ta phải hư hỏng, nếu mỗi lần chúng ta biết tự chổi dậy. Tất nhiên chúng ta sẽ trở thành những đứa trẻ lấm lem và rách tả tơi ngay lúc chúng ta về đến nhà … Việc duy nhứt là mất đi tâm tánh của một người và nhượng bộ”.
LUẬT TRÌNH TỰ KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC
Đọc câu chuyện của David và nhìn thấy bạn bè tôi sa ngã khiến tôi phải đến với một kết luận: Sự suy đồi về đạo đức hiếm khi là một lỗ thủng lớn; nó giống như một chỗ rò rĩ thật chậm – kết quả của một ngàn đam mê nhỏ. Rất ít người hoạch định một vụ tà dâm; họ quá độ vào trong vụ việc đó.
Nó bắt đầu với sự hấp dẫn. Nó chẳng phải là tư dục nhiều như sự mê say cuồng dại làm cho chúng ta phải chìm đắm. Chúng ta bị kéo đến với hạng người có ảnh hưởng và hiểu biết, ai đó chịu lắng nghe và dường như biết quan tâm. Chúng ta bị rủ rê bởi sự hấp dẫn đó rồi bị dẫn vào những cấp độ tinh vi hơn.
Sự hấp dẫn trở thành khả năng tưởng tượng: Chúng ta tự tưởng tượng với người ấy và cảm xúc thì rất ấn tượng. Những vụ việc được tưởng tượng luôn dường trông như thật. Đấy là sự lừa dối cơ bản của chúng.
Những sự tưởng tượng xoa dịu chúng ta, và niềm tin của chúng ta bị xói mòn. Khi ấy chúng ta đang ở trong một cái khuôn lý trí hay lắng nghe những khát khao của mình, và khi đã lắng nghe rồi chúng ta chẳng có ý chỉ để kháng cự lại. Chúng ta không thể né tránh việc công nhận những tư tưởng nổi cộm của chúng ta.
Thế rồi có những lần gặp gỡ và chia sẻ sự xung đột ở bên trong, nổi thất vọng vợ chồng, và những tổn thương sâu sắc khác. Và với sự chia sẻ đó, mối quan hệ bắt đầu được nâng lên. Đột nhiên chúng ta hai con người cô độc rơi vào nhu cần tình cảm của nhau.
Thế rồi một sự miễn cưỡng không thể tránh được xảy đến, và với sự miễn cưỡng đó là nhu cần xưng công bình cho sự việc. Chúng ta không thể sống với sự bất hòa. Chúng ta phải hợp lý hóa cách xử sự của mình bằng cách đổ thừa cho ai đó hay việc chi khác – các áp lực công việc của chúng ta hay những hạn chế của bạn đời mình. Việc làm sai trái của người khác trở thành lý do của chúng ta. Mọi sự phải được thực thi trông rất tốt đẹp.
Nhưng tấm lòng của chúng ta biết rõ. Có những giây phút ý chí của chúng ta phải suy yếu đi và chúng ta mong muốn sắp đặt mọi việc sao cho ngay ngắn. Nếu chúng ta không sắp đặt được, khi ấy hãy lắng nghe tấm lòng mình, ở đó có một sự chai cứng y như kim loại vậy, và kế đó là suy sụp. Việc làm sai trái của chúng ta thay đổi, thay đổi hình thái và chất lượng của nó, nhắm vào việc tự yêu mình và tàn nhẫn kinh khủng lắm. Chúng ta không quan tâm ai sẽ bị tổn thương bao lâu chúng ta nhận được những gì mình mong muốn.
Và sau cùng, có sự vạch trần xảy đến không thể tránh được. Trước tiên, chúng ta chối: “chẳng có ai khác”. Kế đó, chúng ta che đậy: “Chỉ là lý thuyết xuông thôi mà”. Và cuối cùng, sự lừa dối của chúng ta được hô lên từ mái nhà. Chẳng có gì giấu được so với ánh sáng.
Khi mọi đường khâu của chúng ta được mở ra và những việc làm xấu xa của mình đã bị bày tỏ, Đức Chúa Trời nhắc chúng ta nhớ tới thập tự giá của Ngài, ơn tha thứ của Ngài, và ân điển không chi sánh được của Ngài. Khi ấy, Ngài khởi sự làm cho chúng ta được nên mới. Nhưng chỉ có một cách để nhìn biết ơn tha thứ đó: công nhận tính ghê khiếp của tội lỗi và từ ngữ bị coi là lỗi thời kia: ăn năn. Chúng ta phải ghét bỏ những gì chúng ta đã làm, rồi xây khỏi nó với sự ghét cay ghét đắng.
Đấy là những gì Phaolô gọi là: “sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn” (II Côrinhtô 7.10). Sự buồn rầu không theo ý Đức Chúa Trời là sự buồn rầu sẽ có, hay sự buồn rầu phải gánh chịu những hậu quả sẽ có. Kết quả càng làm cho lầm lỗi, lo sợ, và tình trạng vô vọng sẽ được tăng nhiều thêm. Mặt khác, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời là sự buồn rầu đối với chính tội lỗi và sự tổn tại mà nó gây ra cho nhiều người khác. Sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời tự nó khẳng định muốn làm cho mọi việc ra ngay thẳng.
Đây là cách thức Phaolô muốn phải có: “Vậy, hãy xem, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự ân cần [muốn vâng lời] trong anh em là dường nào! Lại có sự chữa chối [về việc làm sai trái], buồn giận [nghịch lại với điều ác], răn sợ [sa ngã vào tội lỗi nữa], sốt sắng [muốn được thanh sạch], nông nả [dành cho những kẻ bị tổn hại bởi tội lỗi], trách phạt [công bình] là dường nào!” (II Côrinhtô 7.11).
Giống như bản thân David đã học được: “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi thiên 51.17). Đức Chúa Trời thấy rõ những tiềm năng thậm chí trong tình trạng ô uế của chúng ta, tha thứ tội lỗi của chúng ta, làm cho mọi sai trái của chúng ta mất đi tác dụng, rồi sắp đặt khiến cho chúng ta ra tốt hơn chúng ta từng sống trước đó.
Vì thế, thay vì cứ than khóc cho tình trạng bẽ mặt của mình, chúng ta phải tiến tới. Tội lỗi có thể có những hậu quả mà với chúng chúng ta phải sống cho phần đời còn lại của mình, nhưng tội lỗi đã được ăn năn có thể tác động làm ích cho. Đức Chúa Trời lấy điều tệ hại nhất mà chúng ta có thể làm ra rồi biến nó thành phần ích mà Ngài đã hứa cho. Ngài là Đức Chúa Trời của những sự rồ dại và thất bại và là Đức Chúa Trời của cơ hội khác.













Con Ơi (z28): "Cha của con, Đức Chúa Trời Toàn Năng"



Cha của con, Đức Chúa Trời Toàn Năng
Có nhiều cách để kết thúc một bức thư. Thân ái …Thành thực … Thân mến...v.v… Nhưng có một cách để kết thúc một bức thư yêu thương từ Cha chúng ta ở trên trời! Yêu thương, Cha của con …Đức Chúa Trời Toàn Năng.
Chữ ký nầy tỏ ra cả hai: vẻ oai nghi của một Đức Chúa Trời Thánh và sự dịu dàng của một Cha yêu thương. Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều nhà thần học đã phấn đấu để điều hợp ý niệm về Đức Chúa Trời là Đấng Thánh khiết và yêu thương, đầy quyền năng nhưng cũng rất mật thiết. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là nhắm tới quan niệm nầy hay quan niệm kia về Đức Chúa Trời. Nhưng sự thực cho thấy rằng chúng ta được yêu thương bởi Đấng công bình và toàn năng, mà cũng rất dịu dàng và dư dật trong tình yêu thương.
Đức Chúa Trời Toàn Năng cũng là Cha Thiên Thượng của chúng ta! Ngài là Đấng đã dựng nên trời và đất bằng quyền phép của Lời Ngài, đã dành thời gian để nắn đúc chúng ta trong dạ của mẹ chúng ta. Ngài là Đấng đã dựng trời làm ngôi Ngài và đất làm bệ chơn Ngài, Ngài chào đón mỗi một con cái bé mọn của Ngài đến viếng Ngài trong hiện tại vinh hiển của Ngài bất kể thời điểm nào, ngày hay đêm. Ngài là Đấng đã khiến cho các nước phải run sợ và nắm giữ lòng của các vì vua ở trong tay Ngài, Ngài muốn con cái Ngài phải đến gần Ngài để lắng nghe tiếng đập của con tim Ngài. Đúng là một đặc ân khi chúng ta được gọi là con cái của Đức Chúa Trời!
Nhưng chúng ta đừng quên rằng đặc quyền chúng ta được trở nên con cái Đức Chúa Trời đã đến với một giá rất là cao. Đức Chúa Jêsus Christ, Con độc sanh của Đức Chúa Trời, là Đấng vốn chẳng biết tội lỗi, đã gánh lấy trên chính mình Ngài gánh nặng của tội lỗi chúng ta khi Ngài chịu chết trên một thập tự giá cách đây hai ngàn năm. Việc đổ ra huyết vô tội của Ngài là phương thức duy nhứt để chúng ta được làm hòa lại với Cha của Ngài. Sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus sẽ đứng cho cõi đời đời như giây phút quyết định khả thi để hết thảy chúng ta được hưởng những ơn phước đời đời của việc làm con trai con gái trong Vương quốc của Cha chúng ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Ngài là Đức Chúa Trời Toàn Năng và Ngài là Cha mà con đã trông đợi suốt cuộc đời con! Con cảm tạ Ngài vì Kinh Thánh là bức thư yêu thương của Ngài gửi cho con. Con nhận lãnh ân ban yêu thương của Ngài tỏ ra qua sự chết, sự chôn và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ. Con cầu xin rằng con sẽ không bao giờ rời khỏi chỗ nầy, là nơi đã bắt rễ và lập nền trong sự yêu thương của Ngài. Cảm tạ Ngài vì đã lập con làm kẻ đồng kế tự với Con của Ngài, là Chúa Jêsus trong cơ nghiệp vinh hiển của Ngài. Chính ở trong Chúa Jêsus, qua Chúa Jêsus, và bởi Chúa Jêsus mà con bước vào phòng có ngai của Ngài với sự bảo đảm rằng con được yêu thương và được tiếp nhận như con cái của Ngài. Amen.

Con Ơi (z27): "Ta đang chờ đợi con"



Ta đang chờ đợi con
Luca 15.11-24: “Ngài lại phán rằng: Một người kia có hai con trai. Người em nói với cha rằng: Thưa cha, xin chia cho tôi phần của mà tôi sẽ được. Người cha liền chia của mình cho hai con. Cách ít ngày, người em tóm thâu hết, đi phương xa, ở đó, ăn chơi hoang đàng, tiêu sạch gia tài mình. Khi đã xài hết của rồi, trong xứ xảy có cơn đói lớn; nó mới bị nghèo thiếu, bèn đi làm mướn cho một người bổn xứ, thì họ sai ra đồng chăn heo. Nó muốn lấy vỏ đậu của heo ăn mà ăn cho no, nhưng chẳng ai cho. Vậy nó mới tỉnh ngộ, mà rằng: Tại nhà cha ta, biết bao người làm mướn được bánh ăn dư dật, mà ta đây phải chết đói! Ta sẽ đứng dậy trở về cùng cha, mà rằng: Thưa cha, tôi đã đặng tội với trời và với cha, không đáng gọi là con của cha nữa; xin cha đãi tôi như đứa làm mướn của cha vậy. Nó bèn đứng dậy mà về cùng cha mình. Khi còn ở đàng xa, cha nó thấy thì động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy cổ mà hôn. Con thưa cùng cha rằng: Cha ơi, tôi đã đặng tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con của cha nữa. nhưng người cha bảo đầy tớ rằng: Hãy mau mau lấy áo tốt nhất mặc cho nó; đeo nhẫn vào ngón tay, mang giày vào chân. Hãy bắt bò con mập làm thịt đi. Chúng ta hãy ăn mừng, vì con ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây giờ lại thấy được. Đoạn, họ khởi sự vui mừng”.
Đây là câu chuyện nói tới việc quay trở về nhà của một đứa con bị hư mất với cha yêu thương của nó. Trong xã hội mà câu chuyện nầy diễn ra, lời yêu cầu của đứa con xin hưởng cơ nghiệp trước khi cha qua đời là một sự sĩ nhục không tả được đối với người cha. Giống như người em đó đang mong ước cha mình chết đi vậy. Nhưng, như câu chuyện tiếp diễn, cha nó đã ban cho nó những gì nó yêu cầu rồi để cho nó ra đi. Mãi cho tới khi nói tiêu xài hết mọi thứ nó có rồi kết thúc trong cái chuồng heo, khi ấy nó mới nhận ra mình đã đánh mất điều gì rồi quyết định quay trở về nhà. Khi nó hãy còn ở đàng xa, cha nó đứn đợi nó, ông nhìn thấy nó rồi chạy ra đón nó vào.
Thay vì quở trách nó không vâng lời, người con đã nhận được những cái ôm hôn từ người cha yêu thương của nó. Thay vì bị đối xử như hàng tôi tớ, cha nó đã khẳng định nó là con của ông bằng cách mặc cho nó chiếc áo của gia đình, chiếc nhẫn quyền uy và đôi giày cho hai bàn chân trần trụi của nó. Thay vì buộc một kỳ phạt, cha nó đã nấu thịt bò con nhất hạng trong đồng ruộng rồi dọn một bữa đại tiệc mừng đứa con trở về nhà.
Lúc nầy hay lúc nào khác, hết thảy chúng ta đều sống giống như người con hư mất nầy. Hết thảy chúng ta đã đi đường riêng mình. Còn Đức Chúa Trời, Ngài không tìm cách xét đoán chúng ta, mà còn đứng đợi chúng ta quay trở về với Ngài. Ngài không thể buộc chúng ta quay về vì như thế sẽ vi phạm quyền tự do chọn lựa của chúng ta. Nhưng Ngài đang lo âu đứng đợi đứa con hư mất quay về, nó đang lưu lạc vô mục đích, không có hy vọng và chẳng có tình yêu thương của Cha.
Ngài đã bị bóp méo đối với chúng ta bởi những người đã có cái nhìn cong quẹo về Ngài là ai. Ngài không ở xa và giận dữ đâu, nhưng rất dịu dàng và có lòng thương xót. Và Ngài không giống như những người cha đời nầy, vì Ngài là Cha trọn lành và Ngài yêu chúng ta rất trọn vẹn. Nếu chúng ta về đến nhà, chúng ta không tìm thấy sự chối bỏ và án phạt, thay vì thế là những cái ôm hôn ngọt ngào.
Nếu bạn cứ lạc sai xa khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Cha, Ngài đang đứng đợi bạn với hai cánh tay giang rộng ra. Ngài có một chiếc áo xống đặc biệt với danh xưng của bạn đề trên đó. Ngài muốn đeo chiếc nhẫn uy quyền của Ngài vào ngón tay của bạn và đôi giày vào đôi chân mệt mõi vì đi đường xa của bạn. Cha đang chờ đợi bạn quay về nhà để Ngài có thể dọn cho bạn một bữa tiệc đấy! Vì vậy, đừng phí đi bất cứ thì giờ nào, hãy quay về nhà với tình yêu thương mà bạn hằng trông đợi cho suốt cuộc đời bạn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con công nhận là dù con đã phạm tội và đã xây khỏi tình yêu của Ngài, Ngài tiếp tục kêu gọi con quay về. Con không xứng đáng thậm chí là một tôi tớ nữa là, thế mà Ngài gọi con là con cái yêu dấu của Ngài. Tình yêu của Ngài đã chinh phục trái tim con, vì vậy con quay lại với vòng tay yêu thương của Ngài. Đây là chỗ mà con luôn luôn thuộc về và là chỗ mà con sẽ trụ lại luôn trong phần đời còn lại của con. Cảm tạ Ngài vì đã sai Chúa Jêsus đến, để Ngài có thể giúp con tìm được đường trở về nhà. Con cầu nguyện trong danh Cứu Chúa và anh cả của con là Chúa Jêsus, Amen.

Con Ơi (z26): "Thắc mắc của Ta là … Liệu ngươi có là con của Ta hay không?"



Thắc mắc của Ta là … Liệu ngươi có là con của Ta hay không?
Giăng 1.12-13: “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời vậy”.
Hết thảy chúng ta đều có một quyết định phải đưa ra trong đời nầy. Có phải chúng ta nhận lãnh ân ban Con độc sanh của Đức Chúa Trời hay chúng ta chối bỏ Ngài? Chúng ta phải đưa ra sự lựa chọn. Đức Chúa Cha không bằng lòng người nào sẽ từ chối ân ban quí giá nầy, nhưng Ngài sẽ không vượt quá quyền tự do lựa chọn của chúng ta. Ngài hiến cho mỗi người chúng ta sự bày tỏ tối hậu về tình yêu của Ngài qua ân ban Con của Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ. Tặng phẩm nầy được ban cho rời rộng và nó phải được nhận lãnh cách tự do.
Chúng ta phải đưa ra quyết định. Đức Chúa Cha đã làm mọi sự mà Ngài có thể thực hiện để dời đi từng chướng ngại nào sẽ ngăn trở chúng ta không quay về nhà được. Chúa Jêsus bảo đảm rằng việc chất trên chính mình Ngài toàn bộ gánh nặng & án phạt của tội lỗi chúng ta khi Ngài chịu chết trên thập tự giá ở đồi Gôgôtha. Chẳng có một điều gì hiện nay có thể ngăn trở chúng ta không trở thành con cái của Đức Chúa Trời … trừ ra quyền tự do lựa chọn của chúng ta.
Được sanh ra bởi Đức Chúa Trời là kinh nghiệm tuyệt vời nhất từng xảy ra cho một con người. Chính việc quay về nhà trọn vẹn hết thảy chúng ta đã được dựng nên để kinh nghiệm và thành toàn số phận chúng ta … trở nên con trai con gái trong gia đình vinh hiển của Cha chúng ta.
Về đến nhà trong tình yêu của Đức Chúa Cha không có gì phức tạp và không thể kiếm được bởi mọi việc lành của chúng ta. Con đường duy nhứt về nhà được thấy có chỉ trong duy nhứt Chúa Jêsus mà thôi. Ngài là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta, và là người anh cả của chúng ta, Ngài đã hứa với lấy chúng ta và đưa chúng ta về với Cha của Ngài.
Nếu chúng ta chỉ bằng lòng tin rằng Chúa Jêsus là Con của Đức Chúa Trời, và nhận lãnh ân ban sự sống của Ngài cho đời sống của chúng ta, khi ấy ngay lập tức và thật là lạ lùng, chúng ta được sanh vào trong gia đình lạ lùng của Ngài. Nếu bạn chưa thốt ra một lời cầu nguyện để được sanh vào trong gia đình lạ lùng của Ngài, có lẽ ngày nay là ngày của bạn để quay về nhà đấy. Lời cầu nguyện sau đây có thể giúp cho bạn bày tỏ ra bằng lời nói, tấm lòng bạn kêu xin được yêu thương vô điều kiện hoàn toàn, được Đức Chúa Cha và Con yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ tiếp nhận.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con muốn trở nên con cái của Ngài! Con cảm tạ Ngài vì đã sai Con của Ngài đến để thế chỗ của con trên thập tự giá và gánh lấy tội lỗi của con, để con có thể quay về nhà trong tình yêu thương của Ngài. Con tin rằng Đức Chúa Jêsus Christ đã chịu chết thay cho con và con vui sướng tiếp nhận Ngài là Chúa và Cứu Chúa của con. Cảm tạ Ngài, Chúa Jêsus, vì đã vâng theo ý muốn của Cha Ngài, bằng cách chịu chết trên thập tự giá vì con. Con cảm tạ Ngài vì đã gánh lấy tội lỗi của con và sự xấu hổ của con. Con xây khỏi đường lối riêng khi sống đời sống của con và con tiếp nhận sự sống của Ngài làm sự sống của con. Xin bước vào lòng con Chúa Jêsus ơi, ngày nay con xin quay về nhà đây. AMEN.




Con Ơi (z25): "Ta luôn luôn là Cha, và sẽ luôn luôn là Cha"



Ta luôn luôn là Cha, và sẽ luôn luôn là Cha
Êphêsô 3.14-15: “Ấy là vì cớ đó mà tôi quì gối trước mặt Cha, bởi Cha mà cả nhà trên trời và dưới đất đều được đặt tên”.
Đức Chúa Trời không những là tác giả của mọi loài thọ tạo, mà còn là Cha trong gia đình của Ngài ở trên trời và trên đất. Trong khi danh xưng 'Đấng Tạo Hóa' mô tả những gì đã làm, danh xưng “Cha” mô tả Ngài là ai!?! Và Ngài không muốn được nhìn biết là một Cha vô cảm trên mọi loài thọ tạo, mà muốn được nhìn biết là Cha đầy tình cảm của chúng ta.
Trong Rôma 8.15, chúng ta đọc thấy rằng chúng ta đã nhận được linh của địa vị con bởi đó chúng ta gọi: "Aba, Cha". Từ ngữ "Aba" là một từ Hybálai thông thường mà các em bé Do thái hay gọi cha của chúng. Những từ ngữ tương đương mà chúng ta sử dụng ngày hôm nay là "Bố" hay "Ba".
Một người bạn của tôi mới đây trong xứ Israel thuật lại một câu chuyện nói tới một em bé người Do thái trong nhà hàng kia không được mẹ nó dỗ dành. Nó kêu khóc đòi cha, và kêu: Aba! Aba! Aba! Nó cứ kêu mãi cho tới khi cha nó bước qua phòng ẳm nó lên thì nó mới chịu nín.
Tôi tin rằng đây là cách Đức Chúa Cha muốn chúng ta quan hệ với Ngài … Chỉ để cho những con cái bé mọn (nam hay nữ) nào cần được giúp đỡ và chăm sóc. Tôi cầu xin rằng một tiếng kêu Aba rung động từ chỗ sâu sắc của tấm lòng chúng ta là sự khải thị về địa vị Cha và tấm lòng Cha của Ngài cho mỗi một người chúng ta ngày càng trở nên hiện thực hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì Ngài là Cha của con và Ngài là Đức Chúa Trời của con. Ngài không ban cho con một tâm linh khiến con thành nô lệ để sợ hãi, mà Ngài đã ban cho con một Linh của sự làm con nuôi, ở đó con kêu "Aba, Cha". Vì thế con kêu Aba, Cha! Con cầu xin rằng Thánh Linh của Ngài cứ tiếp tục làm chứng với tâm linh con rằng con là con cái bé mọn của Ngài. Con cầu nguyện trong danh Con độc sanh của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z24): "Hãy quay lại và Ta sẽ dọn một đại tiệc mà thiên đàng sẽ từng nom thấy"



Hãy quay lại và Ta sẽ dọn một đại tiệc mà thiên đàng sẽ từng nom thấy
Luca 15.7: “Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn”.
Trong câu chuyện nói tới đứa con hoang đàng ở Luca 15, đứa con trở về mong đợi sự phán xét thay vì được dự tiệc. …Một bữa tiệc mà anh ta không mong đợi! Ý thức thất bại và tình trạng bất xứng của chính anh ta đã thuyết phục anh ta rằng cha của mình sẽ buộc một loại hình phạt nào đó trước khi ông chấp nhận trọn vẹn mình quay trở về nhà trong vai trò một người con.
Người anh cũng đã phấn đấu với ý tưởng cho rằng cha sẽ đặt một bữa tiệc dành cho đứa em loạn nghịch của mình. Rốt lại, dường như là bất công khi sau hết mọi công việc mà anh ta đã làm vì ích cho cha mình. Anh ta lẽ ra sẽ là đứa con nhận được một bữa tiệc vì anh ta xứng đáng có được bữa tiệc ấy. Thế nhưng, tình yêu của cha không dựa vào những gì là công bằng hay hợp lý, mà dựa vào lòng thương xót và ân sũng.
Khi người cha làm cho cả hai người con mình phải ngạc nhiên trong câu chuyện nầy, cũng một thể ấy, có nhiều lúc nhiều khi, Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta phải kinh ngạc với sự ban hiến của Ngài khi tổ chức tiệc tùng cho sự trở về nhà Ngài của đứa con lạc mất. Tôi cầu xin rằng chúng ta có thể không phản ứng giống như người anh kia trong câu chuyện nầy. Chính tấm lòng của Đức Chúa Cha mong muốn hết thảy chúng ta sẽ cùng dự tiệc để tưởng niệm một đứa con quay trở về với quê hương!
Ở Luca 15.10, Chúa Jêsus phán: "Ta nói cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn năn". Khi chúng ta nhìn biết hàng ngàn người trên khắp thế gian đang đến với Nước Trời mỗi ngày, hãy nghĩ đến việc tổ chức tưởng niệm sẽ diễn ra trên thiên đàng ngay giây phút nầy xem!
Cha yêu thương đặt tiệc cho con cái Ngài, vì mỗi bữa tiệc tiêu biểu cho một đứa con mồ côi hay đứa con hoang đàng nào đã tìm được đường quay trở lại với tấm lòng của Ngài! Hết thảy chúng ta hãy bước vào dự bữa đại tiệc của Cha chúng ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì tình yêu thương tổ chức tiệc tùng khi đứa con hư mất về đến quê hương. Con từng là một trong số con cái hư mất nầy và Ngài đã quan tâm đủ để tổ chức cho con một bữa tiệc khi con quay trở về nhà. Xin giúp con cảm nhận được tấm lòng Ngài dành cho từng đứa con đi hoang trở về nhà để con có thể tham dự đại tiệc nầy! Con cầu nguyện trong danh Con độc sanh của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z23): "Và chẳng có gì có thể phân rẽ con ra khỏi tình yêu của ta nữa"



Và chẳng có gì có thể phân rẽ con ra khỏi tình yêu của ta nữa
Rôma 8.38-39: “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta”.
Phân đoạn Kinh Thánh nầy trong sách Rôma nhắc cho chúng ta nhớ rằng không một điều gì có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã được tỏ ra trong Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta. Sự chết không thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Ngài. Các thiên sứ hau ma quỉ không thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Ngài. Không một điều gì trong hiện tại hay tương lai có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Ngài. Không một thế lực nào ở trên trời hay trên đất có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Ngài. Không một điều gì trong mọi loài thọ tạo có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã được chứng trong Đức Chúa Jêsus Christ Chúa chúng ta.
Chính trong nhiều lúc buồn khổ mất mát nặng nề, chúng ta cần được nhắc nhớ về lẽ thật vinh hiển nầy. Cha yêu thương của chúng ta đã mở ra một con đường ngang qua ân ban Con của Ngài, để cho hết thảy chúng ta kinh nghiệm được sự gần gũi của Ngài trong từng tình huống và trong cõi đời đời. Không một điều gì có thể xen vào giữa chúng ta … không một điều gì hết!
Nguyện tình yêu của Đức Chúa Trời nâng đỡ chúng ta trong từng hoàn cảnh với sự hiểu biết chẳng có điều gì trong thế gian nầy có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Cha chúng ta và Cứu Chúa Jêsus Christ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì chẳng có một điều gì sẽ phân rẽ con ra khỏi tình yêu thương của Ngài cho đến đời đời được. Tình yêu của Ngài dành cho con có quyền lực hơn bất cứ điều chi trong cõi thọ tạo, quá khứ, hiện tại và tương lai. Con cầu xin mọi chướng ngại mà con đã đặt trong đời sống con làm phân cách con đối với tình yêu của Ngài sẽ bị dời đi ngay bây giờ để con kinh nghiệm được sự đầy dẫy của tình yêu Ngài. Con cầu nguyện trong danh Con yêu dấu Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z22): "Nếu con tiếp nhận ân ban Con Ta là Jêsus, con đang tiếp nhận Ta"



Nếu con tiếp nhận ân ban Con Ta là Jêsus, con đang tiếp nhận Ta
1 Giăng 2.23: “Ai chối Con, thì cũng không có Cha: ai xưng Con, thì cũng có Cha nữa”.
Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là một. Mọi sự thuộc về Đức Cha thuộc về Đức Con và mọi sự thuộc về Con cũng thuộc về Cha (Giăng 16.15). Khi chúng ta tiếp nhận ân ban rời rộng hiến cho chúng ta qua mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta đang tiếp nhận mọi sự mà Đức Chúa Cha đã hiến cho.
Trong trường hợp chúng ta thích chúng ta có một mặc khải về tình yêu của Đức Chúa Cha hay không, trong Chúa Jêsus, qua Chúa Jêsus, và bởi Chúa Jêsus, chúng ta có sự tiếp cận hoàn toàn không hạn chế với Đức Chúa Cha. Chúng ta không cần phải cảm thấy chúng ta bỏ sót điều gì nếu chúng ta đã nài xin Chúa Jêsus bước vào đời sống của chúng ta. Khi chúng ta tiếp nhận Đức Chúa Con, chúng ta đã tiếp nhận Cha của Ngài. Trong Giăng 14.23, Chúa Jêsus phán: "Cha ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người".
Nếu Chúa Jêsus hằng sống đang ngự trong chúng ta, thế thì Đức Chúa Cha hằng sống đang ngự trong chúng ta và Ngài đã ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài như một của cầm trước cho cơ nghiệp của chúng ta. Đúng là một sự vui mừng khi có mối quan hệ với ba Thân Vị trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài khi con tiếp nhận ân ban Chúa Jêsus Con của Ngài, con đã tiếp nhận mọi sự mà Ngài đã hiến cho. Cảm tạ Ngài vì đến sống trong con khi con nài xin Chúa Jêsus ngự vào lòng con. Con yêu Ngài và muốn biết tình yêu của Ngài sâu đậm hơn con từng biết trước đây. Con cầu nguyện trong danh Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z21): "Ta đã ban mọi sự Ta ưa thích để ta kiếm được tình yêu của con"



Ta đã ban mọi sự Ta ưa thích để ta kiếm được tình yêu của con
Rôma 8.31-32: “Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta? Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?”
Con ngươi của mắt Đức Chúa Cha là Con một và duy nhứt của Ngài. Chúa Jêsus là Con độc sanh của Đức Chúa Cha và dựa trên ngực Ngài từ buổi sáng thế của muôn vật (Giăng 1.18). Đức Chúa Cha đã sống làm đẹp lòng Đức Chúa Con, và Đức Chúa Con đã sống để làm đẹp lòng Đức Chúa Cha. Không một điều gì có thể phân rẽ họ ra khỏi tình yêu thương mà họ đã có với nhau. Tuy nhiên, đã đến một thời điểm mà họ thực sự phải bị phân rẽ nhau ra.
Con yêu dấu của Đức Chúa Trời đã rời bỏ sự an nhàn của thiên đàng và bên hữu của Cha Ngài để khoác lấy hình hài của một con trẻ bất lực. Trong khi giờ đây đã có một sự phân rẽ về phần thuộc thể đối với Cha của Ngài, họ vẫn giữ sự hiệp một ở trong lòng và trong tâm linh. Thế rồi việc không thể nghĩ được đã xảy ra. Con Đức Chúa Trời thanh sạch vốn chẳng biết về tội lỗi, đã tình nguyện khoác lấy trên chính mình Ngài tội lỗi mà cả thế gian tích lũy lại. Trong giờ phút tăm tối nhất của toàn bộ lịch sử, Chúa Jêsus đã gánh hết sức nặng tình trạng bẩn thỉu của cả nhân loại.
Một khi tội lỗi không thể có mặt trong sự hiện diện của một Đức Chúa Trời thánh khiết, Đức Chúa Cha yêu thương chẳng có một lựa chọn nào khác trừ ra xây mặt đi đối với Con yêu dấu của Ngài. Đáp ứng của Chúa Jêsus với Cha của Ngài là tiếng kêu gào đau thương thống hối “Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” Sự hiệp một của họ đã bị tan vỡ lần đầu tiên và Đức Chúa Cha đã không nhìn đến Con của Ngài một mình chịu chết trên thập tự giá. Đức Chúa Cha đã lìa bỏ mọi sự mà Ngài ưa thích để kiếm được tình cảm của chúng ta. Nếu Ngài không tiếc chính báu vật quí giá nhất của mình để tiếp lấy sự tự do của chúng ta, Ngài còn bằng lòng nhiều hơn nữa khi giàu ơn ban cho chúng ta mọi sự?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì không tiếc chính Con độc sanh của Ngài để con có thể nhận lãnh một cơ nghiệp đời đời. Ngài đã bỏ mọi sự mà Ngài ưa thích để kiếm được tình cảm của con. Ngài đã minh chứng tình yêu không phai của Ngài cho con một lần đủ cả. Làm ơn tha thứ cho con vì dám nghi ngờ rằng Ngài không yêu con. Ngài không lấy lại thứ chi khỏi con, kể cả Con của Ngài, vì vậy con xin dâng cả lòng con cho Ngài. Con cầu nguyện trong danh Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus. AMEN.

Con Ơi (z20): "Sự chết của Jêsus tỏ ra tình yêu tối hậu của Ta dành cho con"



Sự chết của Jêsus tỏ ra tình yêu tối hậu của Ta dành cho con
1 Giăng 4.10: “Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta”.
Nói ra “Anh yêu em” là một việc, rồi minh chứng cho tình yêu ấy là một việc hoàn toàn khác. Đức Chúa Trời không những nói rằng Ngài yêu chúng ta, Ngài còn chứng tỏ rất thực tế bằng cách sai Con độc sanh của Ngài làm của lễ chuộc tội cho chúng ta nữa.
Trong khi hết thảy chúng ta đều cần đến sự hiểu biết đầy đủ về tình yêu của Đức Chúa Trời, nhiều người trong chúng ta đang phấn đấu để cảm nhận tình yêu của Đức Chúa Trời trong lãnh vực tình cảm của chúng ta. Và nếu chúng ta không "cảm" được tình yêu của Ngài, chúng ta có thể tuột dốc xuống tới một chỗ mà tình cảm chúng ta đang thống trị, ở đó chúng ta bắt đầu thắc mắc không biết Ngài có yêu chúng ta không nữa!?!
Chính những lúc như thế nầy chúng ta cần được nhắc nhớ đến Đức Chúa Trời? Sự định nghĩa tình yêu của Đức Chúa Trời được thấy có ở I Giăng 4.10...“Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta”. Đức Chúa Cha đã làm mọi sự mà Ngài có thể khả thi để minh chứng cho tình yêu không phai của Ngài đối cùng chúng ta khi Ngài sai Chúa Jêsus đến cùng chúng ta.
Khi chúng ta phấn đấu để tin rằng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, chúng ta không cần đi đâu xa hơn thập tự giá mới nhìn thấy sự tỏ ra trọn vẹn tình yêu của Ngài. Khi những cảm xúc của bạn thắc mắc tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho bạn, hãy để cho đức tin dấy lên trong lòng bạn và hãy cảm tạ Cha của bạn vì sự tỏ ra trọn vẹn của tình yêu trong công tác thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ là Con của Ngài.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì sự chết của Chúa Jêsus là sự tỏ ra trọn vẹn tình yêu của Ngài dành cho con. Làm ơn tha thứ cho con vì những lúc con dám thắc mắc tình yêu của Ngài dành cho con. Con tin rằng Ngài yêu thương con và đã chứng tỏ tình yêu ấy một lần đủ cả qua thập tự giá của Đấng Christ. Con cầu xin rằng lẽ thật của tình yêu Ngài dành cho con sẽ là nền tảng cho đức tin con dù trong những thời điểm mà con cảm thấy mình chẳng được yêu thương. Con cầu nguyện trong danh Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z19): "Jêsus đã chịu chết để con và Ta được phục hòa lại với nhau"



Jêsus đã chịu chết để con và Ta được phục hòa lại với nhau
II Côrinhtô 5.18-19: “Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi”.
Những tin tức tốt lành mà Đức Chúa Jêsus Christ mang đến cho chúng ta là sứ điệp tối hậu nói tới sự phục hòa. Đây là câu chuyện kể về một Đức Chúa Cha yêu thương, tấm lòng tan vỡ xảy ra trên gia đình mà Ngài đã dựng nên. Đây là câu chuyện kể về Đức Chúa Con yêu thương của Ngài, là Đấng không thể chịu nổi nỗi đau của Cha mình và đã hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.
Sự chết của Chúa Jêsus khiến cho cả thế gian có đủ tư cách quay trở về quê hương với Đức Chúa Trời. Đây là chương trình của Đức Chúa Cha từ lúc sáng thế...làm hòa lại với chúng ta và phục hồi mọi sự đã bị mất mát do kết quả sự sa ngã của con người trong Vườn Êđen.
Qua công tác tại thập tự giá, trong Chúa Jêsus, qua Chúa Jêsus và bởi Chúa Jêsus giờ đây chúng ta có thể đến với Đức Chúa Cha. Chúng ta không phải là nô lệ của Ngài, mà là con cái của Ngài. Bức màn từng phân cách chúng ta với một Đức Chúa Trời thánh khiết đã bị xé rách từ trên chí dưới. Chúng ta không còn là thù nghịch của Ngài nữa, mà có lời mời gọi để trở nên con cái của Ngài!
Nhiều người nghĩ rằng Chúa Jêsus là tầng đệm giữa chúng ta và Đức Chúa Trời. Nhiều người tin rằng Chúa Jêsus là tấm lá chắn che cơn thạnh nộ của Cha Ngài. Sự thực cho thấy rằng Đức Chúa Cha là Đấng đã sai phái Chúa Jêsus đến thế gian trong chỗ thứ nhứt để chúng ta sẽ được hòa lại với lòng Ngài. Và Chúa Jêsus đã bằng lòng đến để Ngài cung ứng con đường cho chúng ta đến tận quê hương với Cha của Ngài (Giăng 14.6).
Nếu chúng ta đã tin theo Đức Chúa Jêsus Christ và đã nhận lãnh ơn cứu rỗi của Ngài, chúng ta dám chắc rằng chúng ta đã được phục hồi trọn vẹn với Cha của chúng ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì Chúa Jêsus đã mở ra con đường cho con để được hòa lại với Ngài cách trọn vẹn. Là một đứa con lạc lối trên hành trình về quê hương, ngày nay con trở lại trong vòng tay yêu thương và sự phục hồi của Ngài. Đây là chỗ mà con thuộc về và đây là chỗ mà con đã quyết định cư trú suốt cuộc đời của con. Con cầu nguyện trong dang Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z18): "Và để nói cho con biết rằng Ta chẳng kể tội lỗi của con"



Và để nói cho con biết rằng Ta chẳng kể tội lỗi của con
II Côrinhtô 5.18-19: Mọi điều đó đến bởi Đức Chúa Trời, Ngài đã làm cho chúng ta nhờ Đấng Christ mà được hòa thuận lại cùng Ngài, và đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng ta. Vì chưng Đức Chúa Trời vốn ở trong Đấng Christ, làm cho thế gian lại hòa với Ngài, chẳng kể tội lỗi cho loài người, và đã phó đạo giảng hòa cho chúng tôi”
Bạn nghĩ Đức Chúa Trời giống với gì nào? Có phải bạn xem Ngài là Cha yêu thương hay một quan án đầy sự giận dữ? Bạn được ôm ấp trong vòng tay của Ngài hay ngồi trong phòng xử án của Ngài? Có phải Ngài thốt ra lời nói đầy sự khích lệ với bạn hay những lời lẽ phán xét? Có phải ánh mắt Ngài phản ảnh tình yêu thương và sự khẳng định của Ngài hay chúng cài sự sợ hãi vào trong tấm lòng của bạn? Có phải Đức Chúa Trời ghi nhớ những lần đắc thắng hay chỉ ra các thất bại của bạn?
Trở nên giống với Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ lạy là khuynh hướng của chúng ta. Nếu chúng ta thờ lạy một Đức Chúa Trời, Ngài là Cha yêu thương, chúng ta sẽ yêu thương và tự chúng ta sẽ phản ảnh tình yêu của Ngài cho tha nhân. Nếu chúng ta xem Ngài là vị quan án đang nổi giận, chúng ta sẽ sống dưới sự tự xét đoán và sự kết án rồi giữ người khác theo những tiêu chuẩn mà với đó chúng ta đang ra sức để sống theo.
Trong khi Đức Chúa Trời là công bình, thánh khiết và tội lỗi không thể ở trong sự hiện diện của Ngài, vấn đề tội lỗi của chúng ta đã được xử lý một lần đủ cả bởi sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ. Vì cớ thập tự giá, khi Đức Chúa Trời nhìn vào chúng ta, Ngài không xem thấy tội lỗi của chúng ta mà chỉ thấy huyết quí báu của Con Ngài. Vì cớ của lễ của Chúa Jêsus, chúng ta đã được hòa lại với Đức Chúa Trời và tội lỗi của chúng ta đã bị đem ra xa khỏi chúng ta như phương đông xa cách phương tây vậy (Thi thiên 103.12). Đúng là một tư tưởng đầy sự vinh hiển! Đức Chúa Trời không kể tội lỗi của chúng ta! Đức Chúa Trời không kể tội lỗi của chúng ta! Hallelujah!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì không kể tội lỗi của con mà nghịch lại con. Con tin rằng Ngài không phải là vị quan án đang sôi giận nhưng Ngài là Cha yêu thương của con! Con cảm tạ Ngài vì đã sai Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ đến chịu chết trên thập tự giá vì con để gánh lấy tội lỗi con trên chính mình Ngài. Con cảm tạ Ngài vì sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài đã mở ra cho con một con đường để được tha thứ hoàn toàn và được hòa lại với Đức Chúa Trời cách trọn vẹn, là con cái bé mọn của Ngài. Con cầu nguyện trong danh Con yêu dấu của Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z17): "Jêsus đã đến để tỏ ra Ta hiện hữu vì con, chớ không phải nghịch cùng con đâu"



Jêsus đã đến để tỏ ra Ta hiện hữu vì con, chớ không phải nghịch cùng con đâu
Rôma 8.31: “Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?”
Nhiều lần khi chúng ta cảm thấy thất vọng, giống như cả thế gian đang nghịch cùng chúng ta vậy. Sự thể giống như chúng ta đang lội ngược dòng, thường xuyên chiến đấu với một dòng nước mạnh muốn đẩy chúng ta lùi lại bất chấp mọi nổ lực của chúng ta. Đây có thể là một kinh nghiệm thất bại, giống như chúng ta đang đi chiều nầy, còn mọi người thì đang đi theo một hướng khác vậy.
Thực tế cho thấy chúng ta đang sống trong thế gian, chúng ta sẽ thấy nhiều người và nhiều trở ngại dường như đang ở trong sự đối nghịch trực tiếp với nơi mà chúng ta đang hướng tới. Điều nầy có thể là một thực tại rất nãn lòng và cô độc trừ phi chúng ta đem Rôma 8.31 vào lòng.
Kỳ thực, Đức Chúa Trời đang sống động vì chúng ta, chớ không phải nghịch cùng chúng ta. Không những Ngài đang ở về cùng phía với chúng ta, mà Ngài còn ngồi bên góc của chúng ta hoan hô chúng ta nhiệt liệt khi Ngài hoạch định những việc lớn lao cho đời sống chúng ta (Giêrêmi 29.11).
Nếu chúng ta có thể nắm bắt được lẽ thật nói tới tấm lòng của Đức Chúa Cha đối cùng chúng ta, ai nghịch cùng chúng ta hoặc điều gì đang cản lối chúng ta sẽ không còn là vấn đề nữa! Vì chúng ta có lòng tin cậy rằng Cha chúng ta là nhân vật lớn lao nhất, mạnh mẽ nhất, yêu thương nhất trong vũ trụ và đã tuyên bố với các từng trời Ngài hằng sống vì chúng ta! Bạn sẽ nói gì khi đáp ứng lại với lời tuyên bố nầy?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài đang hiện hữu vì con mà không nghịch lại con. Con tin rằng tình yêu của Ngài khiến cho mọi sự hiệp lại làm ích cho con. Con đoạn tuyệt với từng lời dối trá cho rằng Ngài đang nghịch lại con chớ không vì con. Chúa Jêsus đã chứng tỏ tình yêu thương của Ngài dành cho con và đã thuyết phục con về sự tiếp nhận và tình cảm không phai của Ngài. Con cảm tạ Ngài vì con sẽ là con cái Ngài cho đến đời đời. Con cầu nguyện trong danh Con độc sanh của Ngài, là Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z16): "Jêsus là hình bóng của bản thể ta"



Jêsus là hình bóng của bản thể ta
Hêbơrơ 1.3: “Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao”.
Nếu chúng ta muốn biết gia đình giống với điều gì, mọi sự chúng ta phải làm là nhìn xem Đức Chúa Jêsus Christ, vì Ngài là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài. Ở Giăng chương 14, Chúa Jêsus công bố: "Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha". Sở thích duy nhứt của Ngài là làm theo ý muốn của Cha Ngài và nói ra những gì Cha Ngài yêu cầu Ngài phải nói.
Khi Chúa Jêsus chữa lành cho kẻ đau, Ngài đang chứng tỏ ước muốn của Cha Ngài là chúng ta phải được lành. Khi Chúa Jêsus cho kẻ nghèo ăn, đây là bàn tay tiếp trợ của Cha Ngài đến với hạng người nghèo khó. Khi Chúa Jêsus tha thứ cho kỵ nữ, đây là tấm lòng của Cha Ngài đã cảm động với sự thương xót. Khi Chúa Jêsus ẳm lấy những đứa trẻ nhỏ trong vòng tay của Ngài để chúc phước cho chúng, đây là tình yêu của Cha Ngài đang ẳm lấy những đứa trẻ nhỏ nầy. Thậm chí khi Chúa Jêsus rửa chơn cho các môn đồ, Ngài đang phác họa ra tình khiêm nhường của Cha Ngài khi bày tỏ ra sự thấp hèn nhất của chức năng tôi tớ.
Khi Chúa Jêsus bước đi trên đất nầy, nhiều người đã có hình ảnh méo mó về bản chất thật của Đức Chúa Trời. Ngày nay, điều đó chẳng khác biệt gì so với cách đây hai ngàn năm. Nhiều người vẫn còn chịu khổ từ những tín điều giả dối về bổn tánh của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus đã đến để xua tan các tín điều giả dối kia và thực sự tỏ ra tấm lòng của Cha Ngài. Nếu bạn tực sự muốn biết Cha của bạn ở trên trời thực giống với điều gì, chỉ hãy nhìn vào đôi mắt của Chúa Jêsus rồi để cho tình yêu của Ngài xua tan mọi suy tưởng sai lầm của bạn đi.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì đã sai Con Một của Ngài là Chúa Jêsus để để chỉ cho con thấy Ngài thực sự giống với điều gì. Con tin rằng Chúa Jêsus là hình bóng của bản thẩ Ngài và là sự chói sáng của sự vinh hiển Ngài. Xin giúp con nhìn thấy tấm lòng của Cha Ngài trong từng hành động thương xót yêu thương mà Chúa Jêsus đã tỏ ra. Con cầu nguyện trong danh con yêu dấu của Ngài al2 Chúa Jêsus, AMEN.

Con Ơi (z15): "Tình yêu của Ta dành cho con đã được tỏ ra nơi Jêsus"



Tình yêu của Ta dành cho con đã được tỏ ra nơi Jêsus
Giăng 17.26: “Con đã tỏ danh Cha ra cho họ, Con lại sẽ tỏ ra nữa, để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ, và chính mình Con cũng ở trong họ nữa”.
Chúa Jêsus đã đến để tỏ Cha Ngài ra cho chúng ta biết. Ao ước của Ngài, ấy là tình yêu thương mà Đức Chúa Cha dùng yêu thương Ngài cũng sẽ ở trong chúng ta nữa. Tình cảm của Ngài, ấy là chúng ta sẽ nhìn biết và kinh nghiệm tấm lòng của Cha Ngài giống như Ngài đã nhận biết và kinh nghiệm tình yêu lạ lùng nầy ngay từ lúc sáng thế. Đúng là một đặc ân khi được kéo đến với tình yêu khôn tả nầy trong Đức Chúa Trời!
Đặc ân quan hệ với Đức Chúa Trời trổi hơn bất cứ điều chi chúng ta biết, và xứng đáng như một vinh dự, thế nhưng ơn ấy đã được hiến cho chúng ta qua Chúa Jêsus. Đúng là chúng ta đang có một Cứu Chúa đáng kính sợ, Ngài bằng lòng rời bỏ sự mật thiết và sự hiện diện vinh hiển của Cha Ngài, để tỏ Đức Chúa Cha ra cho chúng ta biết. Qua thập tự giá, Chúa Jêsus đã dọn đường cho chúng ta để trở thành kẻ đồng kế tự với Ngài trong vai trò con trai con gái của Cha Ngài.
Hết thảy chúng ta đều có lời mời gọi, vào thời điểm nào đó trong vai trò con cái, đến với Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Jêsus Christ và trở thành kẻ dự phần vào tình yêu thương lạ lùng của Ngài. Chúa Jêsus đã đến để tỏ Đức Chúa Cha ra cho chúng ta biết, và Ngài hứa tiếp tục làm cho người ta nhìn biết Cha Ngài để tình yêu của Cha Ngài sẽ ở trong chúng ta và Ngài cũng sống mạnh mẽ trong chúng ta nữa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm tạ Ngài vì đã sai Con độc sanh của Ngài đến tỏ ra tình yêu thương lạ lùng của Ngài cho con biết. Con bị phủ lút trong lẽ thật mà con có thể dự vào trong chính mối quan hệ với Ngài mà Chúa Jêsus đã có với Ngài ngay từ buổi sáng thế. Bởi đức tin con nhận lãnh tình yêu của Ngài qua sự sống của Cứu Chúa và Chúa của con, là Đức Chúa Jêsus Christ. Cảm tạ Ngài vì là Cha của con. Con cầu nguyện trong danh của Con yêu dấu Ngài là Chúa Jêsus, AMEN.