Bài 17
Những tình tiết sau cùng trong đời sống của Êlisê
(II Các Vua 6.24 -7.20)
Samari dưới sự bao vây của quân Syri
Samari dưới sự bao vây của quân Syri
(6.24 - 7.2)
“Sau các điều đó, Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, nhóm cả đạo binh mình, đi lên vây thành Sa-ma-ri. Trong Sa-ma-ri đang có sự đói kém lớn lắm, thành bị vây hãm lâu ngày, đến đỗi một cái đầu lừa bán tám mươi siếc lơ bạc, và một góc tư ô phân bò câu bán năm siếc lơ bạc. Khi vua Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên tường thành, có một người đàn bà kêu người rằng. Ôi vua chúa tôi, xin cứu tôi! Vua nói. Nếu Đức Giê-hô-va không cứu ngươi, thì ta lấy đâu đặng cứu ngươi? Bởi sân đạp lúa hay là bởi nơi ép rượu sao? Vua lại rằng. Ngươi có chi? Nàng thưa rằng. Đàn bà này nói với tôi rằng. Hãy cho con trai chị, hầu ngày nay chúng ta ăn thịt nó; ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai ta. Vậy, chúng tôi có nấu thịt con trai tôi và ăn. Ngày mai tôi có nói với người rằng. Hãy cho con trai chị, hầu chúng ta ăn nó. Nhưng người có giấu con trai mình. Khi vua nghe lời của người đàn bà này, thì xé quần áo mình. Bấy giờ, người đang đi ngang qua trên tường thành, dân sự xem thấy người phía trong mặc cái bao sát vào thịt mình. Vua la lên rằng. Nếu ngày nay đầu của Ê-li-sê, con trai của Sa-phát, hãy còn ở trên vai nó, nguyện Đức Chúa Trời xử ta cách nặng nề! Ê-li-sê đang ngồi trong nhà mình, và các trưởng lão ngồi chung quanh người, thì vua sai một sứ giả đi trước mình đến cùng tiên tri. Nhưng khi sứ giả chưa đến, Ê-li-sê nói với các trưởng lão rằng. Kìa, hãy xem, con kẻ sát nhân kia sai người đến đặng cắt đầu ta. Khá coi chừng. vừa khi sứ giả đến, hãy đóng cửa lại, dùng cửa xô đuổi nó đi. Các ngươi há chẳng nghe tiếng bước của chủ nó sau lưng nó sao? Người còn đang nói, chúng thấy sứ giả đến. Vua cũng đến, nói với Ê-li-sê rằng. Tai nạn này đến bởi Đức Giê-hô-va. Vậy, ta còn trông cậy nơi Đức Giê-hô-va làm chi?”
“Ê-li-sê bèn nói rằng. Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán như vầy. Ngày mai, tại giờ này, nơi cửa thành Sa-ma-ri, một đấu bột lọc sẽ bán một siếc lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc lơ. Quan cai nâng đỡ vua, đáp với người Đức Chúa Trời rằng. Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê đáp. Chính mắt ngươi sẽ thấy, nhưng ngươi không đặng ăn đến”.
Sự nhắc tới việc vây thành Samari trong câu 24 đứng đối chiếu mạnh mẽ với tình trạng bình an đã kết quả từ chức vụ của Êlisê. Bao lâu sau đó thì chúng ta không được biết, nhưng khi Bên Ha-đát đến vây thành Samari thì Kinh thánh nói tới. Một trong những sứ điệp của các vị tiên tri, và điều nầy không nghi ngờ chi nữa là sự thực của cả hai: Êli và Êlisê, là để nhắc cho Israel nhớ rằng Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước cho sự vâng theo giao ước của Ngài với họ, nhưng rủa sả cho sự bất tuân. Chắc chắn là cơn lắng dịu tạm thời do chức vụ của Êlisê mang lại đã được ấn định một cách thiêng liêng để nhắc cho Israel nhớ tới tình yêu không phai và sự dính dáng của Đức Chúa Trời trong hiện tại đối với dân sự của Ngài. Đức Chúa Trời đã sai phái và xác định uy quyền những người như Êli và Êlisê bằng những phép lạ mà Ngài đã làm ra qua những con người nầy thuộc về Đức Chúa Trời, nhưng điển hình (đặc biệt ở vương quốc phía Bắc) chẳng có một bằng chứng nào cho thấy Israel hay các vua của nó chịu ăn năn. Vì vậy khi giữ lời cảnh cáo của Ngài trong Phục truyền luật lệ ký 28-30, Đức Chúa Trời đã rút lại bàn tay bảo hộ của Ngài. Kết quả là, Israel đã đối mặt với một cuộc xâm lược đủ mọi cấp độ của người Aram (Syri). Quân Aram đã rất thành công, họ có thể xâm nhập vào đất của Israel và đặt thành phố Samari dưới sự vây hãm.
Khoảng thời gian và tính nghiệt ngã của cuộc vây hãm đã được thấy trong nạn đói cực kỳ dẫn tới tình trạng khan hiếm thậm chí một cái đầu lừa, có ít thịt trên cái đầu lừa đó, đã được rao bán 80 siếc lơ bạc (khoảng hai cân bạc) và một phần tư ô phân bồ câu (chất lượng không bảo đảm) đã được bán với giá 5 siếc lơ bạc (khoảng hai lượng bạc). Theo luật pháp Cựu Ước, con lừa là con vật không sạch và người ta không được ăn thịt nó dù là trường hợp nào đi nữa (xem Lêvi ký 11.2-7; Phục truyền luật lệ ký 14.4-8), nhưng nạn đói tồi tệ đến nỗi không những họ bất chấp những điều luật về sự ô uế, mà phần đầu không có bao nhiêu thịt lại rất đắt giá như thế. Phân của chim bồ câu có lẽ đề cập tới loại gạo hạt nhỏ, bản Kinh thánh NIV chép: “một góc tư ô hạt đậu giống đã được bán với giá 5 siếc lơ”, mặc dù bản gốc đọc câu nầy là “phân bồ câu”.
Nhưng có nhiều vấn đề đã phát sinh tồi tệ đến nỗi khi nhà vua đang đi trên bức tường thành, có lẽ thị sát tình hình, ông gặp phải một trường hợp ăn thịt đồng loại mình. Sự việc nầy hiển nhiên đã làm cho lòng ông phải đau đớn, nhưng thay vì ăn năn về sự bất tuân và thất bại của chính mình không bước theo Chúa và chấp nhận sự thực nạn đói là một sự phán xét đến từ Đức Chúa Trời dành cho sự bất tuân của Israel, ông nhìn vào cái đầu lừa rồi không những đổ thừa cho Êlisê, mà còn thề phải thấy ông ta bị đặt vào án tử hình nữa (câu 31).
Thay vì thề đánh hạ mấy con bò ở Đan và Bê-tên, hay để cho luật pháp có hiệu lực của nó nghịch lại các tiên tri Ba-anh và các lùm cây, ông ta lại thề sự chết của Êlisê, câu 31.
Tại sao ông ta đổ thừa cho Êlisê không thấy nói tới. Có lẽ ông ta nghĩ Êlisê đã cầu nguyện xin một phép lạ như ông đã làm trong quá khứ. Hoặc có lẽ ông ta nghĩ lại và tưởng Êlisê sẽ ra lịnh cho quân Syri chết hết khi họ nắm quân Syri trong tay, trong các bức tường thành của họ. Quyển Chú giải Kinh thánh NIV đã nói tới sự việc nầy trong các câu 31-33.
Giận dữ và đổ thừa cho Êlisê về toàn bộ sự việc, ông ta đã phái một sứ giả đến bắt và chặt đầu Êlisê. Tuy nhiên, khi ông ta đích thân đến, ông đã chạy theo sứ giả của mình, hy vọng giữ tay sứ giả lại. Bởi sự soi sáng thiêng liêng, Êlisê biết rõ các chi tiết của toàn bộ tình tiết và đã diễn giải cho các trưởng lão nào có mặt với ông chận cánh cửa nhà lại, cho tới khi Giô-ram vượt qua mặt những kẻ hành quyết do ông ta sai đến. Khi nhà vua đến, ông ta đã được cho vào trong nhà. Bị thuyết phục rằng Đức Giêhôva đã công bố số phận của thành phố, Giô-ram đã có mọi sự nhưng không chấp nhận bất cứ hy vọng nào về sự giải cứu của Đức Giêhôva. Tuy nhiên, có lẽ sự nhận biết của ông ta rõ rằng mọi sự đã diễn ra là đến từ Đức Giêhôva, kèm theo với nó là hy vọng Đức Chúa Trời sẽ can thiệp cách lạ lùng. Sự kềm chế của sứ giả và lời lẽ của nhà vua cho thấy niềm hy vọng của sự giải cứu thiêng liêng. Sự yên ủi ấy Êlisê sẽ ban bố ra.
Vậy, Êlisê biết rõ nhà vua đã thay đổi tâm ý về lịnh lạc của mình đối với cái chết của Êlisê, điều nầy rõ ra là bởi sự kiện Êlisê nhờ các trưởng lão chống cánh cửa nghịch lại sứ giả cho tới chừng nhà vua đến để thu hồi lịnh lại.
Khi nhà vua đến, không những ông ta nhìn nhận nạn đói là một sự phán xét đến từ Đức Giêhôva, mà ông còn tin những việc vô vọng đến nỗi không còn có giải pháp nào khác hơn là đầu hàng quân Syri. Êlisê không nghi ngờ chi nữa đã bảo nhà vua phải ăn năn và chờ đợi nơi Đức Giêhôva để được giải cứu, nhưng nhà vua trong sự vô tín của mình đã sẵn sàng đầu hàng.
Bất chấp, Đức Giêhôva đã bước ra trong ân điển và sự thương xót của Ngài đã tỏ ra qua Êlisê sự giải cứu ấy (cứu cánh của nạn đói và sự cường điệu) sẽ đến một cách lạ lùng trong ngày hôm sau (7.1). Nhưng một sự giải cứu thình lình như thế làm sao xảy ra cho được chứ? Nhà vua không nghi ngờ chi nữa đã tin theo, vì chẳng có một lời bình nào ra từ ông và chắc chắn ông không còn tìm cách lấy mạng của Êlisê nữa, nhưng viên quan nhất phẩm của ông đã xem thường lời hứa của Êlisê giống như nhiều người ngày nay xem thường mọi lời hứa của Ngôi Lời vậy.
Lời lẽ của viên quan kia đầy dẫy với chế nhạo và cả lố lời mai mỉa, châm chọc, như thể muốn nói: “Ôi chao, Đức Giêhôva giờ đây đang làm mấy cánh cửa sổ ở trên trời kìa! Làm gì có được? Chẳng lẽ lời nói của ông có hiệu lực ghê như vậy ư?” Dù viên quan ấy có tưởng đến câu Kinh thánh (Sáng thế ký 7.11) hay những cánh cửa sổ ở trên trời của hệ thống thờ lạy Ba-anh trù phú là không chắc chắn. Trong bất cứ trường hợp nào ông ta đang chỉ trích, phê phán toàn bộ sự việc.
Vị tiên tri quyết chắc với vị quan kia của Giô-ram rằng không những lời tiên tri sẽ biến thành hiện thực, mà viên quan nầy còn nhìn thấy sự ấy với chính mắt của mình. Tuy nhiên, ông ta sẽ không ăn được bất kỳ thứ gì trong số đó! Tính hoài nghi không có đức tin của ông ta đã khiến cho ông ta mất đi ơn phước của Đức Chúa Trời giáng trên dân sự.
Trong bối cảnh nầy, nhà vua đã thất vọng còn quan nhất phẩm của ông ta thì chế giễu. Mọi việc dường như hoàn toàn khó. Nhưng mức độ cùng cực của chúng ta là cơ hội của Đức Chúa Trời để chứng tỏ quyền phép của Ngài vì những mục đích riêng của Ngài, để chúng ta có thể học biết Ngài có quyền làm trổi hơn mọi việc chúng ta cầu xin và suy tưởng (Êphêsô 3.20). Nhưng thực vậy, Đức Giêhôva hành động vì dân sự của Ngài khi họ đến với tận cùng của bản thân họ và thấy sức lực của họ không còn nữa (Phục truyền luật lệ ký 32.36; II Cô-rinh-tô 12.9-10).
Sau cùng, lời lẽ của Êlisê nói với viên quan của triều đình đưa ra một lời cảnh cáo cho hết thảy chúng ta. Ông nói với viên quan ấy rằng mặc dù ông ta sẽ chứng kiến sự tiếp trợ lạ lùng kia, ông ta sẽ không thể ăn được nó (xem 7.17-18). Khi chúng ta thất bại không tin theo các lời hứa của Đức Chúa Trời, chúng ta thất bại không kinh nghiệm được những ơn phước của Đức Chúa Trời dù là ơn cứu rỗi hay trong sự nên thánh.
Hê-bơ-rơ 3.16-19: “Vả, ai là kẻ nghe tiếng Ngài rồi nổi loạn, há chẳng phải những người nhờ Môi-se dẫn ra khỏi xứ Ê-díp-tô sao? Đức Chúa Trời đã giận ai trong bốn mươi năm? Há chẳng phải giận những kẻ phạm tội, mà thây họ đã ngã trong đồng vắng sao? Ngài lại thề với ai rằng không được vào sự yên nghỉ của Ngài? Há chẳng phải với những người không vâng lời sao? Vả, chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin”.
Trả lại đất cho người đờn bà Su-nem (8.1-6)
“Ê-li-sê bèn nói với người đàn bà, là mẹ của đứa trai mà người đã khiến sống lại, rằng. Hãy chổi dậy, đi với người nhà ngươi, ở ngụ nơi nào ngươi ở được vì Đức Giê-hô-va đã định dẫn cơn đói đến; kìa nó sẽ đến trong xứ bảy năm. Vậy, người đàn bà ấy đứng dậy, vâng theo lời của người Đức Chúa Trời, cùng người nhà mình đi kiều ngụ bảy năm trong xứ Phi-li-tin. Cuối bảy năm, người đàn bà ấy ở xứ Phi-li-tin trở về, đi đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Vả, vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, mà rằng. Ngươi hãy thuật cho ta hết các công việc lớn mà Ê-li-sê đã làm xong. Ghê-ha-xi đang thuật cho vua hay thế nào Ê-li-sê đã khiến một kẻ chết sống lại, kìa có người đàn bà là mẹ của đứa con trai mà Ê-li-sê đã khiến cho sống lại, đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Ghê-ha-xi tâu rằng. Ôi vua chúa tôi! kìa là người đàn bà ấy, và này là con trai nàng mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại. Vua bèn hỏi nàng, thì nàng thuật công việc cho người. Đoạn, vua cắt một quan hoạn theo nàng, mà rằng. Hãy bắt trả lại cho nàng mọi món nào thuộc về nàng, và hết thảy huê lợi của đồng ruộng nàng từ ngày nàng lìa khỏi xứ cho đến ngày nay”.
Ở chương trước, vương quốc phía Bắc đã kinh nghiệm một sự giải cứu kỳ diệu cũng như tình yêu thương và quyền phép của Đức Chúa Trời, nhưng giờ đây họ đã mau quên và quay trở lại với những đường lối thờ lạy hình tượng của họ. Ở đây Êlisê nói trước nạn đói kém khác nữa, nó đến với Israel như một điều khoản của sự phán xét thiêng liêng vì sự họ từ chối không chịu xây lại với Đức Giêhôva và đồng đi với Ngài tùy theo Lời của Ngài. Và chắc chắn, nhiều người tin điều nầy cũng rất thực với sự phát sinh nhiều biến cố bi thảm mà xứ sở chúng ta đã hứng chịu hơn 20 năm qua. Khoảng 15 năm qua J. Vernon McGee đã viết:
Nói thẳng ra, tôi tin rằng những thảm hoạ khác nhau đã đánh vào xứ của chúng ta trong nhiều năm gần đây là một lời cảnh cáo cho quốc gia chúng ta. Những trận động đất, bão táp, giông tố, cùng các thảm hoạ khác nữa đã quét qua xứ sở chúng ta, tôi nghĩ, đấy lành lời cảnh cáo đến từ Đức Chúa Trời phải chấm dứt, suy gẫm lại và thay đổi đường hướng của chúng ta.
Mọi việc chẳng thấy có điều chi tốt hơn. Những thảm hoạ dường như phát sinh trên khắp cả xứ sở của chúng ta. Những có phải chúng ta đang lắng nghe không? Không! Chúng ta chỉ muốn đổ thừa các tai vạ nầy cho những việc giống như sự nóng lên toàn cầu (có lẽ là đây là một vụ chơi khăm được lèo lái bởi những nhóm hay một số người đặc biệt với các chương trình nghị sự chính trị nào đó) và những dòng đối lưu đang nóng lên trong biển Thái Bình Dương như El Nino.
Với sự mặc khải tiên tri nầy được cung ứng cho người đờn bà Su-nem về nạn đói, chúng ta có phần đối chiếu khác trong truyện tích nói tới chức vụ của Êlisê. Viên quan triều đình đã xem khinh lời báo trước của vị tiên tri và thất bại không kinh nghiệm được ơn phước của lời tiên tri ấy. Nhưng người đờn bà có đức tin và tin kính nầy, tiêu biểu cho số dân sót có lòng tin trong Israel, đã tin theo lời báo trước đó của vị tiên tri và vì bà ta đã làm theo đức tin của mình và vâng lời mà lìa bỏ xứ, bà ta đã được phước tránh thoát được nạn đói.
Giống như Êlisê đã nói trước, ở cuối 7 năm đói kém nạn đói kết thúc và người đờn bà trở về lại quê hương mình từ xứ Philitin. Tuy nhiên, khi bà ta về đến nhà, thì thấy có nhiều người khác đang sinh sống trên đất của mình, vì vậy bà ta đã kêu nài đến vua về việc nhà cửa và đồng ruộng của mình (câu 3).
Như một minh hoạ kỳ diệu nói tới sự quan phòng đầy khôn ngoan của Đức Chúa Trời, nhà vua đang trao đổi với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, về những việc lớn mà Êlisê đã làm. Và khi Đức Chúa Trời có cuộc trao đổi nầy trong sự quan tâm của Ngài, đúng khi “Ghê-ha-xi đang thuật cho vua hay thế nào Ê-li-sê đã khiến một kẻ chết sống lại, kìa có người đàn bà là mẹ của đứa con trai mà Ê-li-sê đã khiến cho sống lại, đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Ghê-ha-xi tâu rằng. Ôi vua chúa tôi! kìa là người đàn bà ấy, và này là con trai nàng mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại” (câu 5). Chúng ta có thể thấy rõ phần nhấn mạnh ở đây về sự quan phòng của Đức Chúa Trời, câu Kinh thánh có từ ngữ “kìa”, một tiểu từ chỉ về sự đột ngột ngắt ngang (tiếng Hy bá lai là henneh) buộc phải chú ý: “kìa, hãy nhìn đi, hãy xem đi”.
Với truyện tích kỳ diệu nói tới quyền phép phục sinh của Đức Chúa Trời và sự quan phòng đầy tình thương của Ngài và sự xuất hiện thình lình của người đờn bà nầy cùng đứa con trai, nhà vua, lắng nghe nhu cầu của bà ta, ngay tức khắc đã phục hồi lại “mọi món nào thuộc về nàng, và hết thảy huê lợi của đồng ruộng nàng từ ngày nàng lìa khỏi xứ cho đến ngày nay” (câu 6).
Câu chuyện nầy rõ ràng đã minh hoạ tình yêu và sự quan phòng chắc chắn của Đức Chúa Trời dành cho dân sự của Ngài, đặc biệt người nào bởi đức tin đồng đi với Ngài. Tuy nhiên, chúng ta đừng kết luận ở chỗ nầy rằng Đức Giêhôva luôn luôn cảnh cáo chúng ta về nạn đói và phục hồi những gì chúng ta đã bị mất. Nó chỉ công bố tình yêu thương, mối quan tâm, quyền phép, và khả năng của Đức Chúa Trời làm trổi hơn mọi điều chúng ta có thể cầu xin hoặc suy tưởng. Đôi khi nó xảy ra ở thời điểm khác và theo những đường lối khác. Không một chỗ nào nói ra những vấn đề ở đây hay cho bằng tác giả thơ Hê-bơ-rơ trong chương 11. Trước khi kể ra một danh sách dài những kẻ đồng đi bởi đức tin, có nhiều người trong số ấy đã bị hành hình hoặc đã chết vì cớ đức tin của họ (11.35-40), ông viết:
“Hết thảy những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều hứa cho mình; chỉn trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là kẻ khách và bộ hành trên đất. Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đang đi tìm nơi quê hương. Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành”.
Ở cuối bảng danh sách dài nầy, chúng ta đọc các dòng chữ nầy:
“Hết thảy những người đó dầu nhân đức tin đã được chứng tốt, song chưa hề nhận lãnh điều đã được hứa cho mình. Vì Đức Chúa Trời có sắm sẵn điều tốt hơn cho chúng ta, hầu cho ngoại chúng ta ra họ không đạt đến sự trọn vẹn được”.
Hãy suy nghĩ điều chi sẽ xảy ra nếu Đức Chúa Cha đến cứu Con Ngài ra khỏi thập tự giá khi Ngài kêu lên: “Đức Chúa Trời tôi tôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi”. Thay vì thế, Ngài đã giải cứu Con Ngài ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài sau khi Ngài chịu chết thành công vì tội lỗi chúng ta trên thập tự giá. Kết quả:
Rôma 5.1-5: “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Đấng đã làm cho chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đang đứng vững; và chúng ta khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời. Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta”.
Quí vị có nhớ câu chuyện nói tới Anh quốc thể nào đã tiếp nhận các tin tức nói tới kết quả cũa Trận Waterloo từ bài học trước đây không? Có nhiều người trụ lại tại bờ biển châu Âu để chớp đèn thông tin trong khi nhiều người ở phía bên nước Anh đã nhìn thấy, vì vậy họ có thể chuyển lời đi. Nếu Napoleon thắng sẽ có hai lần nhá đèn; nếu Wellington thắng sẽ có 3 lần nhá đèn. Sau cùng, suốt cả đêm những dấu hiệu đã đến – trước tiên là một lần nhá đèn, kế đó là lần thứ hai, nhưng trước khi lần nhá đèn thứ ba được đưa ra, làn sương mù nổi tiếng đã chắn ngang qua eo biển. Người Anh đã tưởng Wellington bị đánh bại, thế nhưng rạng sáng hôm sau sự thực của vấn đề đã nhận được – Napoleon đã bị đánh bại.
Cuộc sống là như thế đấy. Trong đời nầy chúng ta dường như thường bị đánh bại, những lời cầu nguyện của chúng ta dường như không được nhậm, việc làm của chúng ta dường như chẳng được ban thưởng, nhưng Đức Chúa Trời đang quan phòng và Ngài dính dáng vào trong tất cả các chi tiết của đời sống chúng ta. Trong lúc bây giờ, chúng ta có thể không được dời ra khỏi nạn đói, tài sản của chúng ta chưa được phục hồi lại, hay người bạn đời hoặc con cái của chúng ta, nhưng khi Sao Mai mọc lên, nghĩa là, khi Chúa Jêsus tái lâm, Ngài mới là Đấng kết thúc bóng đêm và đem lại ánh sáng ban ngày, nó sẽ tỏ ra cho chúng ta Ngài là giải đáp ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn. Chính khi ấy câu trả lời cho những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được thấy rõ và công việc của chúng ta sẽ được ban thưởng, nhưng ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn.
Êlisê nói trước sự phản bội của Ha-xa-ên (8.7-15)
“Ê-li-sê đi đến Đa-mách. Bấy giờ, Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, đau. Có người nói với vua rằng. Người của Đức Chúa Trời mới đến đây. Vua bảo Ha-xa-ên rằng. Hãy lấy đem theo một lễ vật, đi đón người của Đức Chúa Trời, cậy người cầu vấn Đức Giê-hô-va rằng. Ta sẽ được lành bịnh này chăng? Vậy, Ha-xa-ên đi đón người của Đức Chúa Trời, dẫn theo mình bốn mươi lạc đà, chở mọi món tốt nhất có tại Đa-mách, đặng làm của lễ cho người của Đức Chúa Trời. Người đến ra mắt Ê-li-sê, mà thưa rằng. Con trai ông là Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, đã sai tôi đến ông đặng hỏi rằng. Tôi sẽ được lành bịnh này chăng? Ê-li-sê đáp rằng. Hãy đi nói với người rằng. Vua sẽ được lành bịnh. Dầu vậy, Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cho ta biết người hẳn sẽ chết. Người của Đức Chúa Trời ngó chăm Ha-xa-ên lâu đến đỗi người phải hổ thẹn, rồi cất tiếng lên khóc. Ha-xa-ên hỏi rằng. Cớ sao chúa tôi khóc? Ê-li-sê đáp rằng. Bởi ta biết ngươi sẽ làm thiệt hại cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ châm lửa các thành kiên cố của chúng nó, giết các kẻ trai trẻ bằng gươm, chà nát con nhỏ, và mổ bụng đàn bà có nghén của chúng nó. Ha-xa-ên tiếp. Nhưng kẻ tôi tớ ông là ai, chẳng qua là một con chó đó thôi; sao làm nổi công sự lớn dường ấy? Ê-li-sê đáp rằng. Đức Giê-hô-va đã tỏ cho ta biết rằng ngươi sẽ làm vua Sy-ri. Ha-xa-ên bèn lìa khỏi Ê-li-sê, và trở về cùng chủ mình; chủ hỏi rằng. Ê-li-sê nói với ngươi sao? Ngươi thưa. Ê-li-sê nói với tôi rằng chúa chắc sẽ lành mạnh. Ngày mai, Ha-xa-ên lấy cái mền nhúng nước, đắp trên mặt Bên-Ha-đát, thì người chết. Rồi Ha-xa-ên làm vua thế cho người”.
Trong câu chuyện nầy, chúng ta thấy không những phương thức đáng nhớ mà Đức Chúa Trời đã sử dụng vị tiên tri, mà chúng ta còn có được cái nhìn thoáng vào tấm lòng của vị tiên tri cùng tình cảm của ông dành cho dân sự mà với họ Đức Chúa Trời đã phái ông đến đặng phục vụ, vương quốc phía bắc Israel. Chúng ta cũng thấy trong câu chuyện nầy cái chạm mà Êlisê đã thực thi trên kẻ thù của ông. Bên-Ha-đát, vua xứ Syri, đã nổ lực bắt và giết Êlisê, nhưng giờ đây nhà vua đã già và bịnh tật. Ông ta hay tin Êlisê đã có mặt tại thành Đa-mách, vì vậy ông ta phái Ha-xa-ên, tôi tớ tin cậy của ông ta, đem của lễ dâng cho Êlisê (là kẻ mà ông ta thích gọi là “người của Đức Chúa Trời”) và cầu hỏi về tình trạng hồi phục của mình.
Giờ đây, hãy suy nghĩ về điều nầy một phút xem. Điều nầy nói cho chúng ta biết điều gì về tấm lòng của con người? Nhà vua nầy đã có sự kính trọng đối với Êlisê. Ông ta biết rõ vị tiên tri vốn thực là một người của Đức Chúa Trời và biết mọi sự mà những con người bình thường không sao biết được. Ông ta đã nghe nói tới các phép lạ mà Đức Chúa Trời đã làm qua vị tiên tri và rõ ràng đã tin chúng đến từ Đức Chúa Trời vì ông ta đã gọi Êlisê là: “người của Đức Chúa Trời”. Bất kể, ông ta từ chối không chịu ăn năn và xây lại với Đức Chúa Trời của Israel. Ông ta cứ tiếp tục theo đuổi một con đường vô tín và thờ lạy hình tượng. Tại sao vậy? Phải chăng vì sự vặn cong đạo đức phổ biến trong con người đến nỗi ngay cả khi đối mặt với lẽ thật con người đã từ chối nó vì họ muốn theo đuổi lối sống riêng của họ không?
Lòng sợ hãi sự chết và hy vọng vị tiên tri đến là một sự gặp gỡ tình cờ, nhà vua tưởng ông ta có thể mua lấy những sự phục vụ của Êlisê. Ông ta không những hy vọng Êlisê sẽ nói cho ông ta biết mình được phục hồi, mà có lẽ Êlisê sẽ làm cho ông ta được lành mạnh nữa. Nhưng cái điều ông ta không biết, ấy là sự hiện diện của vị tiên tri không cứ cách nào đó có liên quan tới những huấn thị của Đức Giêhôva khi sai phái Êli, cần phải có một sự thay đổi cho cả hai: ở Đa-mách và ở Samari. Trong I Các Vua 19.15-17, Đức Chúa Trời đã phái Êli đến xức dầu cho Ha-xa-ên lên làm vua xứ Syria. Ha-xa-ên đã được xức dầu làm vua nhiều năm trước đó. Như McGee nói, khi nói về Ha-xa-ên:
. . . ông ta chỉ muốn chờ cho cụ Bên Ha-đát qua đời mà thôi. Quí vị có thể hiểu cho rằng thật khó cho kẻ kế nghiệp của nhà vua – dầu là con trai, tướng lãnh, hay ai khác – phải đổ ra nhiều nước mắt trong tang lễ của người, vì chính tang lễ của người sẽ đưa người kế tục lên nắm quyền hành. Vì vậy Ha-xa-ên đã đi ra đón Êlisê, nhưng tôi không nghĩ ông đã đi ra với một cách xử sự sốt sắng đâu”.
Khi Êlisê và Ha-xa-ên gặp nhau, Ha-xa-ên đã đưa ra lời thỉnh cầu của nhà vua: “Tôi sẽ được lành bịnh này chăng?” Nhưng câu trả lời của Êlisê nghe như một câu đố hay một điều thần bí vậy. Ông đáp: “Hãy đi nói với người rằng. Vua sẽ được lành bịnh. Dầu vậy, Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cho ta biết người hẳn sẽ chết”. Nói cách khác: “chắc chắn ngươi sẽ hồi phục, nhưng ngươi sẽ không sống đâu”. Êlisê đang nói gì vậy? Êlisê vốn biết rõ cá tánh của Ha-xa-ên. Ông biết rõ hắn ta chỉ chờ dưới trướng, đợi nhà vua qua đời và hắn ta sẽ sử dụng điều nầy như một cơ hội để đóng vai ‘Bác Sĩ Tử Thần’ cho dù nhà vua có hồi phục. Vì vậy Êlisê nói trước sự phản bội của Ha-xa-ên.
Mặc dù Israel, vương quốc phía Bắc đã sống khăng khăng loạn nghịch và thờ lạy hình tượng, không có thì giờ để ăn năn khi ngó thấy hết phép lạ nầy tới phép lạ khác, Êlisê không hề thôi không yêu thương dân tộc mình. Chúng ta không thề thấy ông tỏ ra sự cay đắng và mất kiên nhẫn hoặc thối lui. Ông than khóc với viễn cảnh những gì ông biết Ha-xa-ên sẽ làm với Israel (câu 12). Giống như Chúa chúng ta đã than khóc về thành Jerusalem vậy, Êlisê đã than khóc về Israel.
Phải chăng chúng ta không cần một tấm lòng như thế hôm nay trong chức vụ của chúng ta cho những cá nhân hay cho các Hội thánh? Làm sao Êlisê có thể giữ được một tấm lòng như thế chứ? Hãy nhớ, Êli muốn ngã lòng và trở nên ai bi về các tình trạng của Israel, nhưng Êlisê thì không phải như vậy. Tôi không có cách nào để chứng minh điều nầy, nhưng tôi e rằng là thầy của ông, Êli đã chia sẻ với Êlisê, ông tiếp thu từ kinh nghiệm của Êli cứ giữ sự tập trung của mình vào Đức Giêhôva thay vì vào những kỳ vọng của mình hay các hành động của dân sự. Ông muốn yên nghỉ trên giọng nói êm dịu nhỏ nhẹ của Lời Đức Chúa Trời và chương trình toàn tri của Ngài.
Các câu 11-15 kết thúc câu chuyện nói tới sự phản bội nầy như vị tiên tri đã thấy trước. Câu 11 cho chúng ta biết Êlisê đã nhìn trừng trừng vào mắt của Ha-xa-ên cho tới khi hắn ta phải xấu hổ. Ha-xa-ên có thể nói cho Êlisê biêt những tư tưởng ích kỷ và quỉ quyệt mà hắn ta đã suy nghĩ khi từng bước hắn ta sẽ nắm lấy địa vị vua chúa kia. Nhưng cái nhìn của Êlisê không bao lâu sau đó đã trở thành than khóc. Điều nầy làm cho Ha-xa-ên phải kinh ngạc, hắn đã hỏi han về lý do cho sự khóc than nầy.
Trong câu trả lời cho thắc mắc của Ha-xa-ên, Êlisê đã chỉ ra rằng ông đã khóc vì tính cách tàn bạo rất ghê khiếp mà Ha-xa-ên, là vị vua kế tiếp của dân Aram, sẽ giáng trên Israel. Mặc dù có những phản kháng của Ha-xa-ên, quả thực đấy sẽ là trường hợp (đối chiếu 10.32-33; 13.3).
Không nghi ngờ chi nữa, những lời bảo đảm của Êlisê cho Ha-xa-ên rằng hắn ta sẽ là vị vua kế tiếp của Đa-mách đã cung ứng lý do cho hắn ta rằng hắn ta đã có một lịch trình phải thực thi. Khi hắn trở về cung điện, hắn nói với chủ mình những tin tức tốt lành, nhà vua chắc chắn sẽ hồi phục. Tuy nhiên, qua ngày sau, cơ hội đã đến cho việc thực thi mục đích đã được chờ đợi lâu nay. Sau khi làm cho nhà vua phải ngạt thở, hắn ta đã lên ngôi vua.
Sự chết của Êlisê (13.14-21)
Ngay trong những ngày sau cùng và trong sự chết của ông, Đức Chúa Trời đã sử dụng vị tiên tri để chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời của Israel, Yahweh [Đức Giêhôva] , là Đức Chúa Trời chơn thật và các tiên tri của Đức Chúa Trời, những người lo công bố lẽ thật của Đức Chúa Trời là những nguồn sức lực và sự sống của dân tộc. Một lần nữa chúng ta phải nhấn mạnh các phép lạ của Êlisê (như với Êli) đã được ấn định để chứng tỏ sự thực nầy và để kêu gọi Israel phải ăn năn và có đức tin. Họ là những sứ giả chuyên xác quyết sứ điệp của Đức Chúa Trời.
Sự thực nầy có mặt ở đây bởi văn mạch nhấn mạnh ngay cả trong sự chết của vị tiên tri. Trong các câu 10-13, chúng ta có phần tham khảo đến sự trị vì của vua Giô-ách xứ Giu-đa và về 16 năm trị vì của Giô-ách là người lên làm vua Israel tại thành Samari. Nhưng hãy chú ý phần tường trình tỏ ra về Giô-ách: “Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, mà cứ làm theo”.
Chính trong văn mạch nầy, chúng ta đọc thấy hai hành động kỳ diệu sau cùng của vị tiên tri. Lời tiên tri về những chiến thắng của Giô-ách và sự chết của Êlisê cùng phép lạ nơi nấm mồ của ông. Hãy chú ý chữ “Joash” trong bản dịch Kinh thánh NASB và KJV là một hình thái khác của từ “Jehoash” [Giô-ách] và không bị lẫn lộn với từ “Joash” [Giô-ách] xứ Giu-đa được nhắc tới trong câu 1.
Những lời tiên tri về sự đắc thắng của Giô-ách (các câu 14-19)
“Ê-li-sê đau bịnh, tại bịnh ấy người phải chết. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, đến thăm người, khóc trước mặt người, mà nói rằng: Hỡi cha tôi! cha tôi! Xe và lính kỵ của Y-sơ-ra-ên! Ê-li-sê bèn nói với người rằng: Hãy lấy cung và tên. Giô-ách lấy cung và tên. Ê-li-sê lại nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Hãy lấy tay ngươi giương cung. Vua bèn giương cung. Rồi Ê-li-sê đặt tay mình trên tay vua, mà nói rằng: Hãy mở cửa sổ về phía đông. Giô-ách bèn mở cửa ra. Ê-li-sê lại nói: Hãy bắn. Người bèn bắn. Bấy giờ Ê-li-sê tiếp rằng: Ấy là cây tên thắng hơn của Đức Giê-hô-va, tức là cây tên thắng hơn dân Sy-ri vì ngươi sẽ hãm đánh dân Sy-ri tại A-phéc, đến đỗi tuyệt diệt chúng nó. Ê-li-sê tiếp rằng: Hãy lấy tên. Giô-ách bèn lấy tên. Ê-li-sê lại nói rằng: hãy đập xuống đất. Giô-ách đập ba lần, rồi ngừng. Người của Đức Chúa Trời nổi giận, nói với vua rằng: Nếu vua đã đập năm sáu lần, thì mới đánh dân Sy-ri cho đến tận tuyệt; nhưng rày vua sẽ đánh dân Sy-ri ba lần mà thôi”.
Trong câu 14 chúng ta đọc thấy lần thăm viếng mà Giô-ách đã thực hiện để gặp vị tiên tri khi ông lâm bịnh.
Tiên tri Êlisê giờ đây tái bước vào câu chuyện. Ông đang chịu khổ từ một chứng bịnh ở vào giai đoạn cuối. Với lòng kính trọng dành cho người của Đức Chúa Trời, Vua Giô-ách đã thực hiện một chuyến thăm viếng. Sự thực cho thấy rằng nhà vua đã bật khóc, tỏ ra rằng mặc dù Giô-ách đã đi theo các đường lối của Giê-rô-bô-am (câu 11), ông cũng tôn kính Đức Giêhôva. Ông đã lường trước sự mất mát to lớn mà cái chết của tôi tớ nầy của Đức Chúa Trời sẽ có đối với Israel. Ông đã xem Êlisê là siêu đẳng đối với chính mình ông, đã gọi Êlisê là cha ông với sự hạ mình chơn thật. Bởi cụm từ “xe và lính kỵ của Israel”, ông tỏ ra rằng ông đã công nhận Êlisê, và đàng sau Êlisê là Đức Giêhôva, sự bảo hộ và quyền phép thực của Israel chống lại mọi kẻ nghịch thù nó. Êlisê đã sử dụng chính những sự tỏ ra đó khi chức vụ của Êli đã được Đức Chúa Trời kết thúc (2.12).
Êlisê vốn là một cái tháp sức lực cho cả dân tộc và ông được mọi người rất tôn trọng. Nhà vua vốn biết rõ không thể thiếu vắng ông, nhưng một lần nữa, chúng ta thấy thể nào con người ở những địa vị cao tột lại thường bị khống chế bởi tình cảm của họ dành cho quyền lực, địa vị và của cải đến nỗi họ từ chối không để cho sự làm chứng của người Đức Chúa Trời chạm đến đời sống của họ ở cấp độ họ sẽ xây lại với Chúa hoàn toàn và nhơn đức tin mà bước theo Ngài. Nhiều nhà lãnh đạo của chúng ta đã chịu ảnh hưởng bởi hạng người ai cũng biết là thuộc về Đức Chúa Trời giống như Billy Graham, nhưng không ở cấp độ nó làm biến đổi họ từ những nhà chính trị hay thay đổi thất thường thành những chính khách giống như nhiều người nằm trong số những nhà sáng lập xứ sở nầy [nước Mỹ[.
Nhưng chúng ta không những chỉ ra vũ đài chính trị của chúng ta. Những nhà lãnh đạo chính trị nầy xuất thân từ đâu vậy? Họ xuất thân từ những ngôi nhà của quần chúng – từ những con người giống như quí vị và tôi. Nói cách khác, chúng ta đã gặt lấy những gì chúng ta gieo ra. Vì vậy điều thắc mắc là, chúng ta đáp ứng thể nào trước sự làm chứng và chức vụ của những người nam người nữ tin kính trong xứ sở nầy, họ đã phục vụ chúng ta qua đời sống, các tác phẩm, và sự dạy của họ? Tất nhiên, điều nầy bao gồm bậc cha mẹ và giáo viên tin kính ở nơi chúng ta có đặc ân của loại ảnh hưởng đó trong gia đình và trong lớp học.
Với câu 15, Êlisê đưa ra lời tiên tri cuối cùng của ông. Quyển chú giải Kinh thánh NIV nói:
15-20a Êlisê đã dạy Vua Israel phải nhặt lấy cây cung của mình lên. Khi vua đã làm xong, vị tiên tri đã đặt chính tay mình lên tay vua, bởi đó ám chỉ rằng ông sắp sửa thể hiện ra đầy đủ một biểu tượng thuộc linh. Hành động ấy là bắn một mũi tên ra cửa sổ hướng Đông – hướng về xứ Aram. Êlisê đã giải thích việc làm đó. Giô-ách sẽ đoạt được một chiến thắng hoàn toàn tại A-phéc chống lại người Aram. Nhưng lời hứa thiêng liêng sẽ được tăng lên bởi sự dự phần của cá nhân. Khi ấy, Giô-ách được truyền cho phải bắn nhiều mũi tên xuống đất; rõ ràng chiến thắng tại A-phéc sẽ được nối theo sau bằng nhiều chiến thắng nữa đối với quân A-ram thù nghịch. Giô-ách đã vâng lời tuân theo, nhưng với cách lý luận của chính ông. Ông đã đập xuống đất ba lần với các mũi tên của mình thay vì sử dụng năm hay sáu mũi tên mà ông đã có trong tay. Êlisê bèn giận dữ với nhà vua. Nếu Giô-ách sử dụng tất cả các mũi tên của mình, người A-ram đã bị đánh bại hoàn toàn rồi. Giờ đây Giô-ách chỉ kiếm được có ba lần chiến thắng mà thôi. Với lời công bố nầy vị tiên tri cao niên kia đã hoàn tất cuộc chạy của mình ở trên đất.
Nói cách khác, mặc dầu ông đã nhìn thấy quyền phép của Đức Chúa Trời trong đời sống và chức vụ của Êlisê và đã tán thưởng vị tiên tri, Giô-ách đã thất bại không tin cậy trọn vẹn Đức Chúa Trời dù ông biết rõ những điều Đức Chúa Trời đã hứa.
Sự chết của Êlisê và phép lạ nơi mộ của ông (các câu 20-21)
“Ê-li-sê qua đời, và người ta chôn người. Đầu năm sau có đoàn quân Mô-áp toan vào xứ. Vả, xảy ra có kẻ chôn một người, thấy đoàn quân ấy đến, liền liệng thây vào mồ Ê-li-sê. Kẻ chết vừa đụng hài cốt Ê-li-sê, thì sống lại và đứng dậy”.
Sau đó không lâu thì Êlisê qua đời. Chức vụ của ông trải ít nhất 56 năm, đã bắt đầu là một tôi tớ của tiên tri Êli trong suốt đời trị vì của Aháp (kết thúc vào năm 853 TC) và qua đời trong sự trị vì của Giô-ách (bắt đầu từ năm 798 TC). Sau khi thi hài của ông được quấn bằng vải gai mịn, vị tiên tri có lẽ đã được chôn cất trong một hang động hay một ngôi mộ được đào trong tảng đá giống như hầu hết những người Do thái xưa kia (câu 21).
Một thời gian sau, có một số người đem đặt thi thể của người khác đặt nằm cạnh mộ của Êlisê. Họ rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một tốp dân Mô-áp đột kích loán vào xứ. Mau mau chạy trốn, những người khiêng kẻ chết dời tảng đá trước mộ của Êlisê ra, họ ném thi thể của bạn họ vào trong mộ, rồi rút đi. Khi thi thể mới chạm đến thi thể của Êlisê, ông ta bèn sống lại rồi đứng dậy trên chân của mình. Rõ ràng mấy người đem đặt thi thể vào trong mộ của Êlisê đã trông thấy điều nầy. Không nghi ngờ chi nữa, họ đã thuật lại câu chuyện của họ rộng khắp, và có lẽ nó đã đến tận tai của Giô-ách vì ông rất chú ý tới các phép lạ nầy. Một dấu hiệu về quyền phép của Đức Chúa Trời như thế đã tác động ngay cả chính thi thể của vị tiên tri Ngài, nó đã khích lệ nhà vua khi ông tham dự trận đánh với quân Aram và đã quở trách ông vì thiếu đức tin (đối chiếu lời bình ở các câu 18-19).
Trong sự chết của Êlisê, chúng ta thấy không những phép lạ phục sinh trong sự tán thưởng với đời sống và chức vụ của Đấng Christ, mà chúng ta còn thấy nguyên tắc quan trọng khác nữa. Sự nhắc tới những lần đột kích xâm lược của quân Mô-áp ngay lập tức nhắc tới sự chết của Êlisê có tính cách dạy dỗ. Tôi tin điều nầy đang cho chúng ta thấy một dân tộc có thể mong đợi sự phán xét thiêng liêng trong hình thức thoái hoá thuộc linh và đạo đức, cũng như các hình thái phán xét khác nữa, khi có sự di dời các vị giáo sư dạy Ngôi Lời trung tín, hoặc khi có một nạn đói kém mang sự dạy dỗ về mặt thần học, sự dạy ấy dạy người ta về Đức Chúa Trời và bằng cách nào nhận biết và tríu mến Ngài.
Nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại làm điều nầy? Vì cùng một lý do bậc làm cha làm mẹ nào yêu thương con cái của họ sẽ kỷ luật chúng – chỉnh sửa cách cư xử của chúng. Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta để kéo chúng ta về cùng chính mình Ngài, đấy luôn luôn là chốn phước hạnh và bình an.
PHẦN KẾT LUẬN.
Trong việc đưa phần nghiên cứu về đời sống của Êlisê đến chỗ kết thúc, có lẽ chúng ta sẽ đồng ý nhìn vào phần nhấn mạnh chính được thấy xuyên suốt đời sống và việc làm của ông. Phần nhấn mạnh chính suốt chức vụ của ông, ấy là sự sống lại và hy vọng về đời mới. J. Sidlow Baxter có một tóm tắt rất hay về điều nầy. Ông viết:
Giờ đây cả dân tộc bị chìm đắm trong một tình trạng có thể bị cất bỏ đi, nếu như không có một việc giống như sự phục sinh. Vì lẽ đó, qua chức vụ của Êlisê, người ta được cung ứng cho để nhìn thấy, trong một chuổi các phép lạ, quyền phép phục sinh đang hành động, và sự trông cậy vào đời mới sẽ thuộc về họ trong Đức Giêhôva, nếu họ chịu quay trở lại với Ngài.
Hãy để lý trí nếm trải qua các phép lạ của Êlisê. Hãy xem coi sự sống ra từ sự chết nầy có những phẩm chất nào, (1): Phép lạ đầu tiên của ông là sự chữa lành cho dòng nước gây chết chóc ở Giê-ri-cô, những gì gây ra sự chết giờ đây cung ứng sự sống. (2): Tiếp đến, sự giải cứu quân đội ra khỏi sự chết bằng phép lạ cung cấp nước. (3): Và trong chương kế đó, chúng ta thấy sự sống lại của con trai người đờn bà Su-nem ra khỏi sự chết đến với đời mới. (4): Phép lạ nầy được nối theo sau bằng cách chữa lành nồi canh độc. “Sự chết trong nồi canh” được đổi thành sự sống và nguyên lành. (4): Và trong cùng chương ấy, chúng ta có sự nhân rộng lạ lùng mấy ổ bánh. Tiếp đến là sự chữa lành cho Na-a-man, bằng phép báptêm có tính biểu tượng ở sông Giô-đanh, với việc tắm ở đó đã tẩy sạch sự chết, và đời mới nối theo sau. (5): Phép lạ làm cho lưỡi rìu nổi lên, nối theo sau, nói tới cùng một việc bằng một phương thức khác: “Sắt nổi lên” – một sự đắc thắng bằng quyền phép của sự sống mới xua tan cái thúc đẩy của bóng chết. Sau cùng, không nhắc tới các phép lạ khác, chúng ta có phép lạ thật lạ lùng, trong đó người kia được sống lại tại mồ mả của vị tiên tri, do cái chạm tình cờ với xương cốt của vị tiên tri. Phần nhấn mạnh về sự phục sinh và niềm hy vọng mới xuyên suốt các phép lạ nầy chắc chắn phải được nhìn thấy rõ ràng.
Chúng ta cũng phải thắc mắc, khi chúng ta suy gẫm về đời sống và chức vụ cả hai tiên tri: Êli và Êlisê – tại sao có nhiều phép lạ như vậy chứ? Một lần nữa chúng ta trưng dẫn Baxter.
Chính sự thực các chức vụ của Êli và Êlisê đầy dẫy những điều lạ lùng siêu nhiên như thế, bản thân nó có đầy ý nghĩa. Đức Chúa Trời đang gặp gỡ một tình trạng bằng những đánh giá nửa phàm nửa tục. Bội đạo và đồi bại như dân tộc đang rơi vào, một mãng sau cùng đã được lập ra, bởi những sứ giả đặc biệt cùng các dấu lạ làm giật mình, kêu gọi dân phạm tội đến với Đức Giêhôva và đến với đức tin thật của Israel. Ngay cả khi đến với sự cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ tìm cách xây dân sự đang phạm tội thờ lạy hình tượng của Ngài ra khỏi sự đồi bại của họ, và vì thế ngăn chặn tai vạ của Sự Tản Lạc phải giáng ra trên họ.
Than ôi, lời cảnh cáo càng lớn tiếng và dấu hiệu càng rõ ràng, dân không sẵn sàng sẽ giống như kẻ điếc và mù! “Tấm lòng của dân nầy rất là nặng nề chai lì”.
Dù các phép lạ đã được ghi lại xuyên suốt cả Kinh thánh, chúng là ngoại lệ, chớ không phải là chuẩn mực đâu. Một số các phép lạ được xem là giống nhau, như với Môise, với Êli và Êlisê, trong chức vụ của Đấng Christ, và với các Sứ Đồ và Hội thánh đầu tiên đã được ấn định là các phương tiện đặc biệt của Đức Chúa Trời để xác quyết sứ giả và sứ điệp của Ngài. Nhưng như Baxter chỉ ra, thường như sau: “lời cảnh cáo càng lớn tiếng và dấu hiệu càng rõ ràng, dân không sẵn sàng sẽ giống như kẻ điếc và mù!”
Trong Luca 16, Chúa chúng ta đã làm cho vấn đề nầy ra rõ ràng trong câu chuyện nói tới người giàu và người nghèo có tên là La-xa-rơ. Khi người giàu thấy mình đang chịu khổ trong âm phủ, ông ta đã xin có ai đó đến gặp các anh em của ông ta để cảnh cáo họ. Ápraham đã đáp như sau:
“Chúng nó đã có Môi-se và các đấng tiên tri; chúng nó phải nghe lời các đấng ấy!” Người giàu nói rằng: Thưa Áp-ra-ham tổ tôi, không phải vậy đâu; nhưng nếu có kẻ chết sống lại đến cùng họ, thì họ sẽ ăn năn. Song Áp-ra-ham rằng: Nếu không nghe Môi-se và các đấng tiên tri, thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy”.
Người đó tưởng một phép lạ như vầy chắc chắn sẽ thuyết phục họ. Nhưng câu trả lời được đưa ra cho ông ta là, không phải như vậy đâu. Vấn đề chính là sự bằng lòng của tấm lòng chịu lắng nghe và tin theo sứ điệp của Kinh thánh. Các phép lạ đã được ấn định để xác quyết sứ điệp, nhưng nếu người ta không chịu sứ điệp nài khuyên, khi ấy đời sống của họ sẽ không thay đổi. Những phép lạ không phải là những đại biểu làm thay đổi; chính sứ điệp của Kinh thánh nói tới tình yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời trong Thân Vị và việc làm của Đấng Christ như đã được tỏ ra bởi Đức Thánh Linh mới làm thay đổi nhiều đời sống.
***
“Sau các điều đó, Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, nhóm cả đạo binh mình, đi lên vây thành Sa-ma-ri. Trong Sa-ma-ri đang có sự đói kém lớn lắm, thành bị vây hãm lâu ngày, đến đỗi một cái đầu lừa bán tám mươi siếc lơ bạc, và một góc tư ô phân bò câu bán năm siếc lơ bạc. Khi vua Y-sơ-ra-ên đi ngang qua trên tường thành, có một người đàn bà kêu người rằng. Ôi vua chúa tôi, xin cứu tôi! Vua nói. Nếu Đức Giê-hô-va không cứu ngươi, thì ta lấy đâu đặng cứu ngươi? Bởi sân đạp lúa hay là bởi nơi ép rượu sao? Vua lại rằng. Ngươi có chi? Nàng thưa rằng. Đàn bà này nói với tôi rằng. Hãy cho con trai chị, hầu ngày nay chúng ta ăn thịt nó; ngày mai chúng ta sẽ ăn thịt con trai ta. Vậy, chúng tôi có nấu thịt con trai tôi và ăn. Ngày mai tôi có nói với người rằng. Hãy cho con trai chị, hầu chúng ta ăn nó. Nhưng người có giấu con trai mình. Khi vua nghe lời của người đàn bà này, thì xé quần áo mình. Bấy giờ, người đang đi ngang qua trên tường thành, dân sự xem thấy người phía trong mặc cái bao sát vào thịt mình. Vua la lên rằng. Nếu ngày nay đầu của Ê-li-sê, con trai của Sa-phát, hãy còn ở trên vai nó, nguyện Đức Chúa Trời xử ta cách nặng nề! Ê-li-sê đang ngồi trong nhà mình, và các trưởng lão ngồi chung quanh người, thì vua sai một sứ giả đi trước mình đến cùng tiên tri. Nhưng khi sứ giả chưa đến, Ê-li-sê nói với các trưởng lão rằng. Kìa, hãy xem, con kẻ sát nhân kia sai người đến đặng cắt đầu ta. Khá coi chừng. vừa khi sứ giả đến, hãy đóng cửa lại, dùng cửa xô đuổi nó đi. Các ngươi há chẳng nghe tiếng bước của chủ nó sau lưng nó sao? Người còn đang nói, chúng thấy sứ giả đến. Vua cũng đến, nói với Ê-li-sê rằng. Tai nạn này đến bởi Đức Giê-hô-va. Vậy, ta còn trông cậy nơi Đức Giê-hô-va làm chi?”
“Ê-li-sê bèn nói rằng. Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán như vầy. Ngày mai, tại giờ này, nơi cửa thành Sa-ma-ri, một đấu bột lọc sẽ bán một siếc lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc lơ. Quan cai nâng đỡ vua, đáp với người Đức Chúa Trời rằng. Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê đáp. Chính mắt ngươi sẽ thấy, nhưng ngươi không đặng ăn đến”.
Sự nhắc tới việc vây thành Samari trong câu 24 đứng đối chiếu mạnh mẽ với tình trạng bình an đã kết quả từ chức vụ của Êlisê. Bao lâu sau đó thì chúng ta không được biết, nhưng khi Bên Ha-đát đến vây thành Samari thì Kinh thánh nói tới. Một trong những sứ điệp của các vị tiên tri, và điều nầy không nghi ngờ chi nữa là sự thực của cả hai: Êli và Êlisê, là để nhắc cho Israel nhớ rằng Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước cho sự vâng theo giao ước của Ngài với họ, nhưng rủa sả cho sự bất tuân. Chắc chắn là cơn lắng dịu tạm thời do chức vụ của Êlisê mang lại đã được ấn định một cách thiêng liêng để nhắc cho Israel nhớ tới tình yêu không phai và sự dính dáng của Đức Chúa Trời trong hiện tại đối với dân sự của Ngài. Đức Chúa Trời đã sai phái và xác định uy quyền những người như Êli và Êlisê bằng những phép lạ mà Ngài đã làm ra qua những con người nầy thuộc về Đức Chúa Trời, nhưng điển hình (đặc biệt ở vương quốc phía Bắc) chẳng có một bằng chứng nào cho thấy Israel hay các vua của nó chịu ăn năn. Vì vậy khi giữ lời cảnh cáo của Ngài trong Phục truyền luật lệ ký 28-30, Đức Chúa Trời đã rút lại bàn tay bảo hộ của Ngài. Kết quả là, Israel đã đối mặt với một cuộc xâm lược đủ mọi cấp độ của người Aram (Syri). Quân Aram đã rất thành công, họ có thể xâm nhập vào đất của Israel và đặt thành phố Samari dưới sự vây hãm.
Khoảng thời gian và tính nghiệt ngã của cuộc vây hãm đã được thấy trong nạn đói cực kỳ dẫn tới tình trạng khan hiếm thậm chí một cái đầu lừa, có ít thịt trên cái đầu lừa đó, đã được rao bán 80 siếc lơ bạc (khoảng hai cân bạc) và một phần tư ô phân bồ câu (chất lượng không bảo đảm) đã được bán với giá 5 siếc lơ bạc (khoảng hai lượng bạc). Theo luật pháp Cựu Ước, con lừa là con vật không sạch và người ta không được ăn thịt nó dù là trường hợp nào đi nữa (xem Lêvi ký 11.2-7; Phục truyền luật lệ ký 14.4-8), nhưng nạn đói tồi tệ đến nỗi không những họ bất chấp những điều luật về sự ô uế, mà phần đầu không có bao nhiêu thịt lại rất đắt giá như thế. Phân của chim bồ câu có lẽ đề cập tới loại gạo hạt nhỏ, bản Kinh thánh NIV chép: “một góc tư ô hạt đậu giống đã được bán với giá 5 siếc lơ”, mặc dù bản gốc đọc câu nầy là “phân bồ câu”.
Nhưng có nhiều vấn đề đã phát sinh tồi tệ đến nỗi khi nhà vua đang đi trên bức tường thành, có lẽ thị sát tình hình, ông gặp phải một trường hợp ăn thịt đồng loại mình. Sự việc nầy hiển nhiên đã làm cho lòng ông phải đau đớn, nhưng thay vì ăn năn về sự bất tuân và thất bại của chính mình không bước theo Chúa và chấp nhận sự thực nạn đói là một sự phán xét đến từ Đức Chúa Trời dành cho sự bất tuân của Israel, ông nhìn vào cái đầu lừa rồi không những đổ thừa cho Êlisê, mà còn thề phải thấy ông ta bị đặt vào án tử hình nữa (câu 31).
Thay vì thề đánh hạ mấy con bò ở Đan và Bê-tên, hay để cho luật pháp có hiệu lực của nó nghịch lại các tiên tri Ba-anh và các lùm cây, ông ta lại thề sự chết của Êlisê, câu 31.
Tại sao ông ta đổ thừa cho Êlisê không thấy nói tới. Có lẽ ông ta nghĩ Êlisê đã cầu nguyện xin một phép lạ như ông đã làm trong quá khứ. Hoặc có lẽ ông ta nghĩ lại và tưởng Êlisê sẽ ra lịnh cho quân Syri chết hết khi họ nắm quân Syri trong tay, trong các bức tường thành của họ. Quyển Chú giải Kinh thánh NIV đã nói tới sự việc nầy trong các câu 31-33.
Giận dữ và đổ thừa cho Êlisê về toàn bộ sự việc, ông ta đã phái một sứ giả đến bắt và chặt đầu Êlisê. Tuy nhiên, khi ông ta đích thân đến, ông đã chạy theo sứ giả của mình, hy vọng giữ tay sứ giả lại. Bởi sự soi sáng thiêng liêng, Êlisê biết rõ các chi tiết của toàn bộ tình tiết và đã diễn giải cho các trưởng lão nào có mặt với ông chận cánh cửa nhà lại, cho tới khi Giô-ram vượt qua mặt những kẻ hành quyết do ông ta sai đến. Khi nhà vua đến, ông ta đã được cho vào trong nhà. Bị thuyết phục rằng Đức Giêhôva đã công bố số phận của thành phố, Giô-ram đã có mọi sự nhưng không chấp nhận bất cứ hy vọng nào về sự giải cứu của Đức Giêhôva. Tuy nhiên, có lẽ sự nhận biết của ông ta rõ rằng mọi sự đã diễn ra là đến từ Đức Giêhôva, kèm theo với nó là hy vọng Đức Chúa Trời sẽ can thiệp cách lạ lùng. Sự kềm chế của sứ giả và lời lẽ của nhà vua cho thấy niềm hy vọng của sự giải cứu thiêng liêng. Sự yên ủi ấy Êlisê sẽ ban bố ra.
Vậy, Êlisê biết rõ nhà vua đã thay đổi tâm ý về lịnh lạc của mình đối với cái chết của Êlisê, điều nầy rõ ra là bởi sự kiện Êlisê nhờ các trưởng lão chống cánh cửa nghịch lại sứ giả cho tới chừng nhà vua đến để thu hồi lịnh lại.
Khi nhà vua đến, không những ông ta nhìn nhận nạn đói là một sự phán xét đến từ Đức Giêhôva, mà ông còn tin những việc vô vọng đến nỗi không còn có giải pháp nào khác hơn là đầu hàng quân Syri. Êlisê không nghi ngờ chi nữa đã bảo nhà vua phải ăn năn và chờ đợi nơi Đức Giêhôva để được giải cứu, nhưng nhà vua trong sự vô tín của mình đã sẵn sàng đầu hàng.
Bất chấp, Đức Giêhôva đã bước ra trong ân điển và sự thương xót của Ngài đã tỏ ra qua Êlisê sự giải cứu ấy (cứu cánh của nạn đói và sự cường điệu) sẽ đến một cách lạ lùng trong ngày hôm sau (7.1). Nhưng một sự giải cứu thình lình như thế làm sao xảy ra cho được chứ? Nhà vua không nghi ngờ chi nữa đã tin theo, vì chẳng có một lời bình nào ra từ ông và chắc chắn ông không còn tìm cách lấy mạng của Êlisê nữa, nhưng viên quan nhất phẩm của ông đã xem thường lời hứa của Êlisê giống như nhiều người ngày nay xem thường mọi lời hứa của Ngôi Lời vậy.
Lời lẽ của viên quan kia đầy dẫy với chế nhạo và cả lố lời mai mỉa, châm chọc, như thể muốn nói: “Ôi chao, Đức Giêhôva giờ đây đang làm mấy cánh cửa sổ ở trên trời kìa! Làm gì có được? Chẳng lẽ lời nói của ông có hiệu lực ghê như vậy ư?” Dù viên quan ấy có tưởng đến câu Kinh thánh (Sáng thế ký 7.11) hay những cánh cửa sổ ở trên trời của hệ thống thờ lạy Ba-anh trù phú là không chắc chắn. Trong bất cứ trường hợp nào ông ta đang chỉ trích, phê phán toàn bộ sự việc.
Vị tiên tri quyết chắc với vị quan kia của Giô-ram rằng không những lời tiên tri sẽ biến thành hiện thực, mà viên quan nầy còn nhìn thấy sự ấy với chính mắt của mình. Tuy nhiên, ông ta sẽ không ăn được bất kỳ thứ gì trong số đó! Tính hoài nghi không có đức tin của ông ta đã khiến cho ông ta mất đi ơn phước của Đức Chúa Trời giáng trên dân sự.
Trong bối cảnh nầy, nhà vua đã thất vọng còn quan nhất phẩm của ông ta thì chế giễu. Mọi việc dường như hoàn toàn khó. Nhưng mức độ cùng cực của chúng ta là cơ hội của Đức Chúa Trời để chứng tỏ quyền phép của Ngài vì những mục đích riêng của Ngài, để chúng ta có thể học biết Ngài có quyền làm trổi hơn mọi việc chúng ta cầu xin và suy tưởng (Êphêsô 3.20). Nhưng thực vậy, Đức Giêhôva hành động vì dân sự của Ngài khi họ đến với tận cùng của bản thân họ và thấy sức lực của họ không còn nữa (Phục truyền luật lệ ký 32.36; II Cô-rinh-tô 12.9-10).
Sau cùng, lời lẽ của Êlisê nói với viên quan của triều đình đưa ra một lời cảnh cáo cho hết thảy chúng ta. Ông nói với viên quan ấy rằng mặc dù ông ta sẽ chứng kiến sự tiếp trợ lạ lùng kia, ông ta sẽ không thể ăn được nó (xem 7.17-18). Khi chúng ta thất bại không tin theo các lời hứa của Đức Chúa Trời, chúng ta thất bại không kinh nghiệm được những ơn phước của Đức Chúa Trời dù là ơn cứu rỗi hay trong sự nên thánh.
Hê-bơ-rơ 3.16-19: “Vả, ai là kẻ nghe tiếng Ngài rồi nổi loạn, há chẳng phải những người nhờ Môi-se dẫn ra khỏi xứ Ê-díp-tô sao? Đức Chúa Trời đã giận ai trong bốn mươi năm? Há chẳng phải giận những kẻ phạm tội, mà thây họ đã ngã trong đồng vắng sao? Ngài lại thề với ai rằng không được vào sự yên nghỉ của Ngài? Há chẳng phải với những người không vâng lời sao? Vả, chúng ta thấy những người ấy không thể vào đó được vì cớ không tin”.
Trả lại đất cho người đờn bà Su-nem (8.1-6)
“Ê-li-sê bèn nói với người đàn bà, là mẹ của đứa trai mà người đã khiến sống lại, rằng. Hãy chổi dậy, đi với người nhà ngươi, ở ngụ nơi nào ngươi ở được vì Đức Giê-hô-va đã định dẫn cơn đói đến; kìa nó sẽ đến trong xứ bảy năm. Vậy, người đàn bà ấy đứng dậy, vâng theo lời của người Đức Chúa Trời, cùng người nhà mình đi kiều ngụ bảy năm trong xứ Phi-li-tin. Cuối bảy năm, người đàn bà ấy ở xứ Phi-li-tin trở về, đi đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Vả, vua đang nói chuyện với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, mà rằng. Ngươi hãy thuật cho ta hết các công việc lớn mà Ê-li-sê đã làm xong. Ghê-ha-xi đang thuật cho vua hay thế nào Ê-li-sê đã khiến một kẻ chết sống lại, kìa có người đàn bà là mẹ của đứa con trai mà Ê-li-sê đã khiến cho sống lại, đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Ghê-ha-xi tâu rằng. Ôi vua chúa tôi! kìa là người đàn bà ấy, và này là con trai nàng mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại. Vua bèn hỏi nàng, thì nàng thuật công việc cho người. Đoạn, vua cắt một quan hoạn theo nàng, mà rằng. Hãy bắt trả lại cho nàng mọi món nào thuộc về nàng, và hết thảy huê lợi của đồng ruộng nàng từ ngày nàng lìa khỏi xứ cho đến ngày nay”.
Ở chương trước, vương quốc phía Bắc đã kinh nghiệm một sự giải cứu kỳ diệu cũng như tình yêu thương và quyền phép của Đức Chúa Trời, nhưng giờ đây họ đã mau quên và quay trở lại với những đường lối thờ lạy hình tượng của họ. Ở đây Êlisê nói trước nạn đói kém khác nữa, nó đến với Israel như một điều khoản của sự phán xét thiêng liêng vì sự họ từ chối không chịu xây lại với Đức Giêhôva và đồng đi với Ngài tùy theo Lời của Ngài. Và chắc chắn, nhiều người tin điều nầy cũng rất thực với sự phát sinh nhiều biến cố bi thảm mà xứ sở chúng ta đã hứng chịu hơn 20 năm qua. Khoảng 15 năm qua J. Vernon McGee đã viết:
Nói thẳng ra, tôi tin rằng những thảm hoạ khác nhau đã đánh vào xứ của chúng ta trong nhiều năm gần đây là một lời cảnh cáo cho quốc gia chúng ta. Những trận động đất, bão táp, giông tố, cùng các thảm hoạ khác nữa đã quét qua xứ sở chúng ta, tôi nghĩ, đấy lành lời cảnh cáo đến từ Đức Chúa Trời phải chấm dứt, suy gẫm lại và thay đổi đường hướng của chúng ta.
Mọi việc chẳng thấy có điều chi tốt hơn. Những thảm hoạ dường như phát sinh trên khắp cả xứ sở của chúng ta. Những có phải chúng ta đang lắng nghe không? Không! Chúng ta chỉ muốn đổ thừa các tai vạ nầy cho những việc giống như sự nóng lên toàn cầu (có lẽ là đây là một vụ chơi khăm được lèo lái bởi những nhóm hay một số người đặc biệt với các chương trình nghị sự chính trị nào đó) và những dòng đối lưu đang nóng lên trong biển Thái Bình Dương như El Nino.
Với sự mặc khải tiên tri nầy được cung ứng cho người đờn bà Su-nem về nạn đói, chúng ta có phần đối chiếu khác trong truyện tích nói tới chức vụ của Êlisê. Viên quan triều đình đã xem khinh lời báo trước của vị tiên tri và thất bại không kinh nghiệm được ơn phước của lời tiên tri ấy. Nhưng người đờn bà có đức tin và tin kính nầy, tiêu biểu cho số dân sót có lòng tin trong Israel, đã tin theo lời báo trước đó của vị tiên tri và vì bà ta đã làm theo đức tin của mình và vâng lời mà lìa bỏ xứ, bà ta đã được phước tránh thoát được nạn đói.
Giống như Êlisê đã nói trước, ở cuối 7 năm đói kém nạn đói kết thúc và người đờn bà trở về lại quê hương mình từ xứ Philitin. Tuy nhiên, khi bà ta về đến nhà, thì thấy có nhiều người khác đang sinh sống trên đất của mình, vì vậy bà ta đã kêu nài đến vua về việc nhà cửa và đồng ruộng của mình (câu 3).
Như một minh hoạ kỳ diệu nói tới sự quan phòng đầy khôn ngoan của Đức Chúa Trời, nhà vua đang trao đổi với Ghê-ha-xi, tôi tớ của người Đức Chúa Trời, về những việc lớn mà Êlisê đã làm. Và khi Đức Chúa Trời có cuộc trao đổi nầy trong sự quan tâm của Ngài, đúng khi “Ghê-ha-xi đang thuật cho vua hay thế nào Ê-li-sê đã khiến một kẻ chết sống lại, kìa có người đàn bà là mẹ của đứa con trai mà Ê-li-sê đã khiến cho sống lại, đến kêu nài vua về việc nhà và đồng ruộng mình. Ghê-ha-xi tâu rằng. Ôi vua chúa tôi! kìa là người đàn bà ấy, và này là con trai nàng mà Ê-li-sê đã làm cho sống lại” (câu 5). Chúng ta có thể thấy rõ phần nhấn mạnh ở đây về sự quan phòng của Đức Chúa Trời, câu Kinh thánh có từ ngữ “kìa”, một tiểu từ chỉ về sự đột ngột ngắt ngang (tiếng Hy bá lai là henneh) buộc phải chú ý: “kìa, hãy nhìn đi, hãy xem đi”.
Với truyện tích kỳ diệu nói tới quyền phép phục sinh của Đức Chúa Trời và sự quan phòng đầy tình thương của Ngài và sự xuất hiện thình lình của người đờn bà nầy cùng đứa con trai, nhà vua, lắng nghe nhu cầu của bà ta, ngay tức khắc đã phục hồi lại “mọi món nào thuộc về nàng, và hết thảy huê lợi của đồng ruộng nàng từ ngày nàng lìa khỏi xứ cho đến ngày nay” (câu 6).
Câu chuyện nầy rõ ràng đã minh hoạ tình yêu và sự quan phòng chắc chắn của Đức Chúa Trời dành cho dân sự của Ngài, đặc biệt người nào bởi đức tin đồng đi với Ngài. Tuy nhiên, chúng ta đừng kết luận ở chỗ nầy rằng Đức Giêhôva luôn luôn cảnh cáo chúng ta về nạn đói và phục hồi những gì chúng ta đã bị mất. Nó chỉ công bố tình yêu thương, mối quan tâm, quyền phép, và khả năng của Đức Chúa Trời làm trổi hơn mọi điều chúng ta có thể cầu xin hoặc suy tưởng. Đôi khi nó xảy ra ở thời điểm khác và theo những đường lối khác. Không một chỗ nào nói ra những vấn đề ở đây hay cho bằng tác giả thơ Hê-bơ-rơ trong chương 11. Trước khi kể ra một danh sách dài những kẻ đồng đi bởi đức tin, có nhiều người trong số ấy đã bị hành hình hoặc đã chết vì cớ đức tin của họ (11.35-40), ông viết:
“Hết thảy những người đó đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều hứa cho mình; chỉn trông thấy và chào mừng những điều đó từ đằng xa, xưng mình là kẻ khách và bộ hành trên đất. Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đang đi tìm nơi quê hương. Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Đức Chúa Trời của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành”.
Ở cuối bảng danh sách dài nầy, chúng ta đọc các dòng chữ nầy:
“Hết thảy những người đó dầu nhân đức tin đã được chứng tốt, song chưa hề nhận lãnh điều đã được hứa cho mình. Vì Đức Chúa Trời có sắm sẵn điều tốt hơn cho chúng ta, hầu cho ngoại chúng ta ra họ không đạt đến sự trọn vẹn được”.
Hãy suy nghĩ điều chi sẽ xảy ra nếu Đức Chúa Cha đến cứu Con Ngài ra khỏi thập tự giá khi Ngài kêu lên: “Đức Chúa Trời tôi tôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi”. Thay vì thế, Ngài đã giải cứu Con Ngài ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn qua sự phục sinh vinh hiển của Ngài sau khi Ngài chịu chết thành công vì tội lỗi chúng ta trên thập tự giá. Kết quả:
Rôma 5.1-5: “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời, bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Đấng đã làm cho chúng ta cậy đức tin vào trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đang đứng vững; và chúng ta khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời. Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta”.
Quí vị có nhớ câu chuyện nói tới Anh quốc thể nào đã tiếp nhận các tin tức nói tới kết quả cũa Trận Waterloo từ bài học trước đây không? Có nhiều người trụ lại tại bờ biển châu Âu để chớp đèn thông tin trong khi nhiều người ở phía bên nước Anh đã nhìn thấy, vì vậy họ có thể chuyển lời đi. Nếu Napoleon thắng sẽ có hai lần nhá đèn; nếu Wellington thắng sẽ có 3 lần nhá đèn. Sau cùng, suốt cả đêm những dấu hiệu đã đến – trước tiên là một lần nhá đèn, kế đó là lần thứ hai, nhưng trước khi lần nhá đèn thứ ba được đưa ra, làn sương mù nổi tiếng đã chắn ngang qua eo biển. Người Anh đã tưởng Wellington bị đánh bại, thế nhưng rạng sáng hôm sau sự thực của vấn đề đã nhận được – Napoleon đã bị đánh bại.
Cuộc sống là như thế đấy. Trong đời nầy chúng ta dường như thường bị đánh bại, những lời cầu nguyện của chúng ta dường như không được nhậm, việc làm của chúng ta dường như chẳng được ban thưởng, nhưng Đức Chúa Trời đang quan phòng và Ngài dính dáng vào trong tất cả các chi tiết của đời sống chúng ta. Trong lúc bây giờ, chúng ta có thể không được dời ra khỏi nạn đói, tài sản của chúng ta chưa được phục hồi lại, hay người bạn đời hoặc con cái của chúng ta, nhưng khi Sao Mai mọc lên, nghĩa là, khi Chúa Jêsus tái lâm, Ngài mới là Đấng kết thúc bóng đêm và đem lại ánh sáng ban ngày, nó sẽ tỏ ra cho chúng ta Ngài là giải đáp ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn. Chính khi ấy câu trả lời cho những lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được thấy rõ và công việc của chúng ta sẽ được ban thưởng, nhưng ở một thời điểm tốt hơn và trong một đường hướng tốt hơn.
Êlisê nói trước sự phản bội của Ha-xa-ên (8.7-15)
“Ê-li-sê đi đến Đa-mách. Bấy giờ, Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, đau. Có người nói với vua rằng. Người của Đức Chúa Trời mới đến đây. Vua bảo Ha-xa-ên rằng. Hãy lấy đem theo một lễ vật, đi đón người của Đức Chúa Trời, cậy người cầu vấn Đức Giê-hô-va rằng. Ta sẽ được lành bịnh này chăng? Vậy, Ha-xa-ên đi đón người của Đức Chúa Trời, dẫn theo mình bốn mươi lạc đà, chở mọi món tốt nhất có tại Đa-mách, đặng làm của lễ cho người của Đức Chúa Trời. Người đến ra mắt Ê-li-sê, mà thưa rằng. Con trai ông là Bên-Ha-đát, vua Sy-ri, đã sai tôi đến ông đặng hỏi rằng. Tôi sẽ được lành bịnh này chăng? Ê-li-sê đáp rằng. Hãy đi nói với người rằng. Vua sẽ được lành bịnh. Dầu vậy, Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cho ta biết người hẳn sẽ chết. Người của Đức Chúa Trời ngó chăm Ha-xa-ên lâu đến đỗi người phải hổ thẹn, rồi cất tiếng lên khóc. Ha-xa-ên hỏi rằng. Cớ sao chúa tôi khóc? Ê-li-sê đáp rằng. Bởi ta biết ngươi sẽ làm thiệt hại cho dân Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ châm lửa các thành kiên cố của chúng nó, giết các kẻ trai trẻ bằng gươm, chà nát con nhỏ, và mổ bụng đàn bà có nghén của chúng nó. Ha-xa-ên tiếp. Nhưng kẻ tôi tớ ông là ai, chẳng qua là một con chó đó thôi; sao làm nổi công sự lớn dường ấy? Ê-li-sê đáp rằng. Đức Giê-hô-va đã tỏ cho ta biết rằng ngươi sẽ làm vua Sy-ri. Ha-xa-ên bèn lìa khỏi Ê-li-sê, và trở về cùng chủ mình; chủ hỏi rằng. Ê-li-sê nói với ngươi sao? Ngươi thưa. Ê-li-sê nói với tôi rằng chúa chắc sẽ lành mạnh. Ngày mai, Ha-xa-ên lấy cái mền nhúng nước, đắp trên mặt Bên-Ha-đát, thì người chết. Rồi Ha-xa-ên làm vua thế cho người”.
Trong câu chuyện nầy, chúng ta thấy không những phương thức đáng nhớ mà Đức Chúa Trời đã sử dụng vị tiên tri, mà chúng ta còn có được cái nhìn thoáng vào tấm lòng của vị tiên tri cùng tình cảm của ông dành cho dân sự mà với họ Đức Chúa Trời đã phái ông đến đặng phục vụ, vương quốc phía bắc Israel. Chúng ta cũng thấy trong câu chuyện nầy cái chạm mà Êlisê đã thực thi trên kẻ thù của ông. Bên-Ha-đát, vua xứ Syri, đã nổ lực bắt và giết Êlisê, nhưng giờ đây nhà vua đã già và bịnh tật. Ông ta hay tin Êlisê đã có mặt tại thành Đa-mách, vì vậy ông ta phái Ha-xa-ên, tôi tớ tin cậy của ông ta, đem của lễ dâng cho Êlisê (là kẻ mà ông ta thích gọi là “người của Đức Chúa Trời”) và cầu hỏi về tình trạng hồi phục của mình.
Giờ đây, hãy suy nghĩ về điều nầy một phút xem. Điều nầy nói cho chúng ta biết điều gì về tấm lòng của con người? Nhà vua nầy đã có sự kính trọng đối với Êlisê. Ông ta biết rõ vị tiên tri vốn thực là một người của Đức Chúa Trời và biết mọi sự mà những con người bình thường không sao biết được. Ông ta đã nghe nói tới các phép lạ mà Đức Chúa Trời đã làm qua vị tiên tri và rõ ràng đã tin chúng đến từ Đức Chúa Trời vì ông ta đã gọi Êlisê là: “người của Đức Chúa Trời”. Bất kể, ông ta từ chối không chịu ăn năn và xây lại với Đức Chúa Trời của Israel. Ông ta cứ tiếp tục theo đuổi một con đường vô tín và thờ lạy hình tượng. Tại sao vậy? Phải chăng vì sự vặn cong đạo đức phổ biến trong con người đến nỗi ngay cả khi đối mặt với lẽ thật con người đã từ chối nó vì họ muốn theo đuổi lối sống riêng của họ không?
Lòng sợ hãi sự chết và hy vọng vị tiên tri đến là một sự gặp gỡ tình cờ, nhà vua tưởng ông ta có thể mua lấy những sự phục vụ của Êlisê. Ông ta không những hy vọng Êlisê sẽ nói cho ông ta biết mình được phục hồi, mà có lẽ Êlisê sẽ làm cho ông ta được lành mạnh nữa. Nhưng cái điều ông ta không biết, ấy là sự hiện diện của vị tiên tri không cứ cách nào đó có liên quan tới những huấn thị của Đức Giêhôva khi sai phái Êli, cần phải có một sự thay đổi cho cả hai: ở Đa-mách và ở Samari. Trong I Các Vua 19.15-17, Đức Chúa Trời đã phái Êli đến xức dầu cho Ha-xa-ên lên làm vua xứ Syria. Ha-xa-ên đã được xức dầu làm vua nhiều năm trước đó. Như McGee nói, khi nói về Ha-xa-ên:
. . . ông ta chỉ muốn chờ cho cụ Bên Ha-đát qua đời mà thôi. Quí vị có thể hiểu cho rằng thật khó cho kẻ kế nghiệp của nhà vua – dầu là con trai, tướng lãnh, hay ai khác – phải đổ ra nhiều nước mắt trong tang lễ của người, vì chính tang lễ của người sẽ đưa người kế tục lên nắm quyền hành. Vì vậy Ha-xa-ên đã đi ra đón Êlisê, nhưng tôi không nghĩ ông đã đi ra với một cách xử sự sốt sắng đâu”.
Khi Êlisê và Ha-xa-ên gặp nhau, Ha-xa-ên đã đưa ra lời thỉnh cầu của nhà vua: “Tôi sẽ được lành bịnh này chăng?” Nhưng câu trả lời của Êlisê nghe như một câu đố hay một điều thần bí vậy. Ông đáp: “Hãy đi nói với người rằng. Vua sẽ được lành bịnh. Dầu vậy, Đức Giê-hô-va đã tỏ ra cho ta biết người hẳn sẽ chết”. Nói cách khác: “chắc chắn ngươi sẽ hồi phục, nhưng ngươi sẽ không sống đâu”. Êlisê đang nói gì vậy? Êlisê vốn biết rõ cá tánh của Ha-xa-ên. Ông biết rõ hắn ta chỉ chờ dưới trướng, đợi nhà vua qua đời và hắn ta sẽ sử dụng điều nầy như một cơ hội để đóng vai ‘Bác Sĩ Tử Thần’ cho dù nhà vua có hồi phục. Vì vậy Êlisê nói trước sự phản bội của Ha-xa-ên.
Mặc dù Israel, vương quốc phía Bắc đã sống khăng khăng loạn nghịch và thờ lạy hình tượng, không có thì giờ để ăn năn khi ngó thấy hết phép lạ nầy tới phép lạ khác, Êlisê không hề thôi không yêu thương dân tộc mình. Chúng ta không thề thấy ông tỏ ra sự cay đắng và mất kiên nhẫn hoặc thối lui. Ông than khóc với viễn cảnh những gì ông biết Ha-xa-ên sẽ làm với Israel (câu 12). Giống như Chúa chúng ta đã than khóc về thành Jerusalem vậy, Êlisê đã than khóc về Israel.
Phải chăng chúng ta không cần một tấm lòng như thế hôm nay trong chức vụ của chúng ta cho những cá nhân hay cho các Hội thánh? Làm sao Êlisê có thể giữ được một tấm lòng như thế chứ? Hãy nhớ, Êli muốn ngã lòng và trở nên ai bi về các tình trạng của Israel, nhưng Êlisê thì không phải như vậy. Tôi không có cách nào để chứng minh điều nầy, nhưng tôi e rằng là thầy của ông, Êli đã chia sẻ với Êlisê, ông tiếp thu từ kinh nghiệm của Êli cứ giữ sự tập trung của mình vào Đức Giêhôva thay vì vào những kỳ vọng của mình hay các hành động của dân sự. Ông muốn yên nghỉ trên giọng nói êm dịu nhỏ nhẹ của Lời Đức Chúa Trời và chương trình toàn tri của Ngài.
Các câu 11-15 kết thúc câu chuyện nói tới sự phản bội nầy như vị tiên tri đã thấy trước. Câu 11 cho chúng ta biết Êlisê đã nhìn trừng trừng vào mắt của Ha-xa-ên cho tới khi hắn ta phải xấu hổ. Ha-xa-ên có thể nói cho Êlisê biêt những tư tưởng ích kỷ và quỉ quyệt mà hắn ta đã suy nghĩ khi từng bước hắn ta sẽ nắm lấy địa vị vua chúa kia. Nhưng cái nhìn của Êlisê không bao lâu sau đó đã trở thành than khóc. Điều nầy làm cho Ha-xa-ên phải kinh ngạc, hắn đã hỏi han về lý do cho sự khóc than nầy.
Trong câu trả lời cho thắc mắc của Ha-xa-ên, Êlisê đã chỉ ra rằng ông đã khóc vì tính cách tàn bạo rất ghê khiếp mà Ha-xa-ên, là vị vua kế tiếp của dân Aram, sẽ giáng trên Israel. Mặc dù có những phản kháng của Ha-xa-ên, quả thực đấy sẽ là trường hợp (đối chiếu 10.32-33; 13.3).
Không nghi ngờ chi nữa, những lời bảo đảm của Êlisê cho Ha-xa-ên rằng hắn ta sẽ là vị vua kế tiếp của Đa-mách đã cung ứng lý do cho hắn ta rằng hắn ta đã có một lịch trình phải thực thi. Khi hắn trở về cung điện, hắn nói với chủ mình những tin tức tốt lành, nhà vua chắc chắn sẽ hồi phục. Tuy nhiên, qua ngày sau, cơ hội đã đến cho việc thực thi mục đích đã được chờ đợi lâu nay. Sau khi làm cho nhà vua phải ngạt thở, hắn ta đã lên ngôi vua.
Sự chết của Êlisê (13.14-21)
Ngay trong những ngày sau cùng và trong sự chết của ông, Đức Chúa Trời đã sử dụng vị tiên tri để chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời của Israel, Yahweh [Đức Giêhôva] , là Đức Chúa Trời chơn thật và các tiên tri của Đức Chúa Trời, những người lo công bố lẽ thật của Đức Chúa Trời là những nguồn sức lực và sự sống của dân tộc. Một lần nữa chúng ta phải nhấn mạnh các phép lạ của Êlisê (như với Êli) đã được ấn định để chứng tỏ sự thực nầy và để kêu gọi Israel phải ăn năn và có đức tin. Họ là những sứ giả chuyên xác quyết sứ điệp của Đức Chúa Trời.
Sự thực nầy có mặt ở đây bởi văn mạch nhấn mạnh ngay cả trong sự chết của vị tiên tri. Trong các câu 10-13, chúng ta có phần tham khảo đến sự trị vì của vua Giô-ách xứ Giu-đa và về 16 năm trị vì của Giô-ách là người lên làm vua Israel tại thành Samari. Nhưng hãy chú ý phần tường trình tỏ ra về Giô-ách: “Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, không từ bỏ tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, mà cứ làm theo”.
Chính trong văn mạch nầy, chúng ta đọc thấy hai hành động kỳ diệu sau cùng của vị tiên tri. Lời tiên tri về những chiến thắng của Giô-ách và sự chết của Êlisê cùng phép lạ nơi nấm mồ của ông. Hãy chú ý chữ “Joash” trong bản dịch Kinh thánh NASB và KJV là một hình thái khác của từ “Jehoash” [Giô-ách] và không bị lẫn lộn với từ “Joash” [Giô-ách] xứ Giu-đa được nhắc tới trong câu 1.
Những lời tiên tri về sự đắc thắng của Giô-ách (các câu 14-19)
“Ê-li-sê đau bịnh, tại bịnh ấy người phải chết. Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên, đến thăm người, khóc trước mặt người, mà nói rằng: Hỡi cha tôi! cha tôi! Xe và lính kỵ của Y-sơ-ra-ên! Ê-li-sê bèn nói với người rằng: Hãy lấy cung và tên. Giô-ách lấy cung và tên. Ê-li-sê lại nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng: Hãy lấy tay ngươi giương cung. Vua bèn giương cung. Rồi Ê-li-sê đặt tay mình trên tay vua, mà nói rằng: Hãy mở cửa sổ về phía đông. Giô-ách bèn mở cửa ra. Ê-li-sê lại nói: Hãy bắn. Người bèn bắn. Bấy giờ Ê-li-sê tiếp rằng: Ấy là cây tên thắng hơn của Đức Giê-hô-va, tức là cây tên thắng hơn dân Sy-ri vì ngươi sẽ hãm đánh dân Sy-ri tại A-phéc, đến đỗi tuyệt diệt chúng nó. Ê-li-sê tiếp rằng: Hãy lấy tên. Giô-ách bèn lấy tên. Ê-li-sê lại nói rằng: hãy đập xuống đất. Giô-ách đập ba lần, rồi ngừng. Người của Đức Chúa Trời nổi giận, nói với vua rằng: Nếu vua đã đập năm sáu lần, thì mới đánh dân Sy-ri cho đến tận tuyệt; nhưng rày vua sẽ đánh dân Sy-ri ba lần mà thôi”.
Trong câu 14 chúng ta đọc thấy lần thăm viếng mà Giô-ách đã thực hiện để gặp vị tiên tri khi ông lâm bịnh.
Tiên tri Êlisê giờ đây tái bước vào câu chuyện. Ông đang chịu khổ từ một chứng bịnh ở vào giai đoạn cuối. Với lòng kính trọng dành cho người của Đức Chúa Trời, Vua Giô-ách đã thực hiện một chuyến thăm viếng. Sự thực cho thấy rằng nhà vua đã bật khóc, tỏ ra rằng mặc dù Giô-ách đã đi theo các đường lối của Giê-rô-bô-am (câu 11), ông cũng tôn kính Đức Giêhôva. Ông đã lường trước sự mất mát to lớn mà cái chết của tôi tớ nầy của Đức Chúa Trời sẽ có đối với Israel. Ông đã xem Êlisê là siêu đẳng đối với chính mình ông, đã gọi Êlisê là cha ông với sự hạ mình chơn thật. Bởi cụm từ “xe và lính kỵ của Israel”, ông tỏ ra rằng ông đã công nhận Êlisê, và đàng sau Êlisê là Đức Giêhôva, sự bảo hộ và quyền phép thực của Israel chống lại mọi kẻ nghịch thù nó. Êlisê đã sử dụng chính những sự tỏ ra đó khi chức vụ của Êli đã được Đức Chúa Trời kết thúc (2.12).
Êlisê vốn là một cái tháp sức lực cho cả dân tộc và ông được mọi người rất tôn trọng. Nhà vua vốn biết rõ không thể thiếu vắng ông, nhưng một lần nữa, chúng ta thấy thể nào con người ở những địa vị cao tột lại thường bị khống chế bởi tình cảm của họ dành cho quyền lực, địa vị và của cải đến nỗi họ từ chối không để cho sự làm chứng của người Đức Chúa Trời chạm đến đời sống của họ ở cấp độ họ sẽ xây lại với Chúa hoàn toàn và nhơn đức tin mà bước theo Ngài. Nhiều nhà lãnh đạo của chúng ta đã chịu ảnh hưởng bởi hạng người ai cũng biết là thuộc về Đức Chúa Trời giống như Billy Graham, nhưng không ở cấp độ nó làm biến đổi họ từ những nhà chính trị hay thay đổi thất thường thành những chính khách giống như nhiều người nằm trong số những nhà sáng lập xứ sở nầy [nước Mỹ[.
Nhưng chúng ta không những chỉ ra vũ đài chính trị của chúng ta. Những nhà lãnh đạo chính trị nầy xuất thân từ đâu vậy? Họ xuất thân từ những ngôi nhà của quần chúng – từ những con người giống như quí vị và tôi. Nói cách khác, chúng ta đã gặt lấy những gì chúng ta gieo ra. Vì vậy điều thắc mắc là, chúng ta đáp ứng thể nào trước sự làm chứng và chức vụ của những người nam người nữ tin kính trong xứ sở nầy, họ đã phục vụ chúng ta qua đời sống, các tác phẩm, và sự dạy của họ? Tất nhiên, điều nầy bao gồm bậc cha mẹ và giáo viên tin kính ở nơi chúng ta có đặc ân của loại ảnh hưởng đó trong gia đình và trong lớp học.
Với câu 15, Êlisê đưa ra lời tiên tri cuối cùng của ông. Quyển chú giải Kinh thánh NIV nói:
15-20a Êlisê đã dạy Vua Israel phải nhặt lấy cây cung của mình lên. Khi vua đã làm xong, vị tiên tri đã đặt chính tay mình lên tay vua, bởi đó ám chỉ rằng ông sắp sửa thể hiện ra đầy đủ một biểu tượng thuộc linh. Hành động ấy là bắn một mũi tên ra cửa sổ hướng Đông – hướng về xứ Aram. Êlisê đã giải thích việc làm đó. Giô-ách sẽ đoạt được một chiến thắng hoàn toàn tại A-phéc chống lại người Aram. Nhưng lời hứa thiêng liêng sẽ được tăng lên bởi sự dự phần của cá nhân. Khi ấy, Giô-ách được truyền cho phải bắn nhiều mũi tên xuống đất; rõ ràng chiến thắng tại A-phéc sẽ được nối theo sau bằng nhiều chiến thắng nữa đối với quân A-ram thù nghịch. Giô-ách đã vâng lời tuân theo, nhưng với cách lý luận của chính ông. Ông đã đập xuống đất ba lần với các mũi tên của mình thay vì sử dụng năm hay sáu mũi tên mà ông đã có trong tay. Êlisê bèn giận dữ với nhà vua. Nếu Giô-ách sử dụng tất cả các mũi tên của mình, người A-ram đã bị đánh bại hoàn toàn rồi. Giờ đây Giô-ách chỉ kiếm được có ba lần chiến thắng mà thôi. Với lời công bố nầy vị tiên tri cao niên kia đã hoàn tất cuộc chạy của mình ở trên đất.
Nói cách khác, mặc dầu ông đã nhìn thấy quyền phép của Đức Chúa Trời trong đời sống và chức vụ của Êlisê và đã tán thưởng vị tiên tri, Giô-ách đã thất bại không tin cậy trọn vẹn Đức Chúa Trời dù ông biết rõ những điều Đức Chúa Trời đã hứa.
Sự chết của Êlisê và phép lạ nơi mộ của ông (các câu 20-21)
“Ê-li-sê qua đời, và người ta chôn người. Đầu năm sau có đoàn quân Mô-áp toan vào xứ. Vả, xảy ra có kẻ chôn một người, thấy đoàn quân ấy đến, liền liệng thây vào mồ Ê-li-sê. Kẻ chết vừa đụng hài cốt Ê-li-sê, thì sống lại và đứng dậy”.
Sau đó không lâu thì Êlisê qua đời. Chức vụ của ông trải ít nhất 56 năm, đã bắt đầu là một tôi tớ của tiên tri Êli trong suốt đời trị vì của Aháp (kết thúc vào năm 853 TC) và qua đời trong sự trị vì của Giô-ách (bắt đầu từ năm 798 TC). Sau khi thi hài của ông được quấn bằng vải gai mịn, vị tiên tri có lẽ đã được chôn cất trong một hang động hay một ngôi mộ được đào trong tảng đá giống như hầu hết những người Do thái xưa kia (câu 21).
Một thời gian sau, có một số người đem đặt thi thể của người khác đặt nằm cạnh mộ của Êlisê. Họ rất đỗi ngạc nhiên khi thấy một tốp dân Mô-áp đột kích loán vào xứ. Mau mau chạy trốn, những người khiêng kẻ chết dời tảng đá trước mộ của Êlisê ra, họ ném thi thể của bạn họ vào trong mộ, rồi rút đi. Khi thi thể mới chạm đến thi thể của Êlisê, ông ta bèn sống lại rồi đứng dậy trên chân của mình. Rõ ràng mấy người đem đặt thi thể vào trong mộ của Êlisê đã trông thấy điều nầy. Không nghi ngờ chi nữa, họ đã thuật lại câu chuyện của họ rộng khắp, và có lẽ nó đã đến tận tai của Giô-ách vì ông rất chú ý tới các phép lạ nầy. Một dấu hiệu về quyền phép của Đức Chúa Trời như thế đã tác động ngay cả chính thi thể của vị tiên tri Ngài, nó đã khích lệ nhà vua khi ông tham dự trận đánh với quân Aram và đã quở trách ông vì thiếu đức tin (đối chiếu lời bình ở các câu 18-19).
Trong sự chết của Êlisê, chúng ta thấy không những phép lạ phục sinh trong sự tán thưởng với đời sống và chức vụ của Đấng Christ, mà chúng ta còn thấy nguyên tắc quan trọng khác nữa. Sự nhắc tới những lần đột kích xâm lược của quân Mô-áp ngay lập tức nhắc tới sự chết của Êlisê có tính cách dạy dỗ. Tôi tin điều nầy đang cho chúng ta thấy một dân tộc có thể mong đợi sự phán xét thiêng liêng trong hình thức thoái hoá thuộc linh và đạo đức, cũng như các hình thái phán xét khác nữa, khi có sự di dời các vị giáo sư dạy Ngôi Lời trung tín, hoặc khi có một nạn đói kém mang sự dạy dỗ về mặt thần học, sự dạy ấy dạy người ta về Đức Chúa Trời và bằng cách nào nhận biết và tríu mến Ngài.
Nhưng tại sao Đức Chúa Trời lại làm điều nầy? Vì cùng một lý do bậc làm cha làm mẹ nào yêu thương con cái của họ sẽ kỷ luật chúng – chỉnh sửa cách cư xử của chúng. Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta để kéo chúng ta về cùng chính mình Ngài, đấy luôn luôn là chốn phước hạnh và bình an.
PHẦN KẾT LUẬN.
Trong việc đưa phần nghiên cứu về đời sống của Êlisê đến chỗ kết thúc, có lẽ chúng ta sẽ đồng ý nhìn vào phần nhấn mạnh chính được thấy xuyên suốt đời sống và việc làm của ông. Phần nhấn mạnh chính suốt chức vụ của ông, ấy là sự sống lại và hy vọng về đời mới. J. Sidlow Baxter có một tóm tắt rất hay về điều nầy. Ông viết:
Giờ đây cả dân tộc bị chìm đắm trong một tình trạng có thể bị cất bỏ đi, nếu như không có một việc giống như sự phục sinh. Vì lẽ đó, qua chức vụ của Êlisê, người ta được cung ứng cho để nhìn thấy, trong một chuổi các phép lạ, quyền phép phục sinh đang hành động, và sự trông cậy vào đời mới sẽ thuộc về họ trong Đức Giêhôva, nếu họ chịu quay trở lại với Ngài.
Hãy để lý trí nếm trải qua các phép lạ của Êlisê. Hãy xem coi sự sống ra từ sự chết nầy có những phẩm chất nào, (1): Phép lạ đầu tiên của ông là sự chữa lành cho dòng nước gây chết chóc ở Giê-ri-cô, những gì gây ra sự chết giờ đây cung ứng sự sống. (2): Tiếp đến, sự giải cứu quân đội ra khỏi sự chết bằng phép lạ cung cấp nước. (3): Và trong chương kế đó, chúng ta thấy sự sống lại của con trai người đờn bà Su-nem ra khỏi sự chết đến với đời mới. (4): Phép lạ nầy được nối theo sau bằng cách chữa lành nồi canh độc. “Sự chết trong nồi canh” được đổi thành sự sống và nguyên lành. (4): Và trong cùng chương ấy, chúng ta có sự nhân rộng lạ lùng mấy ổ bánh. Tiếp đến là sự chữa lành cho Na-a-man, bằng phép báptêm có tính biểu tượng ở sông Giô-đanh, với việc tắm ở đó đã tẩy sạch sự chết, và đời mới nối theo sau. (5): Phép lạ làm cho lưỡi rìu nổi lên, nối theo sau, nói tới cùng một việc bằng một phương thức khác: “Sắt nổi lên” – một sự đắc thắng bằng quyền phép của sự sống mới xua tan cái thúc đẩy của bóng chết. Sau cùng, không nhắc tới các phép lạ khác, chúng ta có phép lạ thật lạ lùng, trong đó người kia được sống lại tại mồ mả của vị tiên tri, do cái chạm tình cờ với xương cốt của vị tiên tri. Phần nhấn mạnh về sự phục sinh và niềm hy vọng mới xuyên suốt các phép lạ nầy chắc chắn phải được nhìn thấy rõ ràng.
Chúng ta cũng phải thắc mắc, khi chúng ta suy gẫm về đời sống và chức vụ cả hai tiên tri: Êli và Êlisê – tại sao có nhiều phép lạ như vậy chứ? Một lần nữa chúng ta trưng dẫn Baxter.
Chính sự thực các chức vụ của Êli và Êlisê đầy dẫy những điều lạ lùng siêu nhiên như thế, bản thân nó có đầy ý nghĩa. Đức Chúa Trời đang gặp gỡ một tình trạng bằng những đánh giá nửa phàm nửa tục. Bội đạo và đồi bại như dân tộc đang rơi vào, một mãng sau cùng đã được lập ra, bởi những sứ giả đặc biệt cùng các dấu lạ làm giật mình, kêu gọi dân phạm tội đến với Đức Giêhôva và đến với đức tin thật của Israel. Ngay cả khi đến với sự cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ tìm cách xây dân sự đang phạm tội thờ lạy hình tượng của Ngài ra khỏi sự đồi bại của họ, và vì thế ngăn chặn tai vạ của Sự Tản Lạc phải giáng ra trên họ.
Than ôi, lời cảnh cáo càng lớn tiếng và dấu hiệu càng rõ ràng, dân không sẵn sàng sẽ giống như kẻ điếc và mù! “Tấm lòng của dân nầy rất là nặng nề chai lì”.
Dù các phép lạ đã được ghi lại xuyên suốt cả Kinh thánh, chúng là ngoại lệ, chớ không phải là chuẩn mực đâu. Một số các phép lạ được xem là giống nhau, như với Môise, với Êli và Êlisê, trong chức vụ của Đấng Christ, và với các Sứ Đồ và Hội thánh đầu tiên đã được ấn định là các phương tiện đặc biệt của Đức Chúa Trời để xác quyết sứ giả và sứ điệp của Ngài. Nhưng như Baxter chỉ ra, thường như sau: “lời cảnh cáo càng lớn tiếng và dấu hiệu càng rõ ràng, dân không sẵn sàng sẽ giống như kẻ điếc và mù!”
Trong Luca 16, Chúa chúng ta đã làm cho vấn đề nầy ra rõ ràng trong câu chuyện nói tới người giàu và người nghèo có tên là La-xa-rơ. Khi người giàu thấy mình đang chịu khổ trong âm phủ, ông ta đã xin có ai đó đến gặp các anh em của ông ta để cảnh cáo họ. Ápraham đã đáp như sau:
“Chúng nó đã có Môi-se và các đấng tiên tri; chúng nó phải nghe lời các đấng ấy!” Người giàu nói rằng: Thưa Áp-ra-ham tổ tôi, không phải vậy đâu; nhưng nếu có kẻ chết sống lại đến cùng họ, thì họ sẽ ăn năn. Song Áp-ra-ham rằng: Nếu không nghe Môi-se và các đấng tiên tri, thì dầu có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy”.
Người đó tưởng một phép lạ như vầy chắc chắn sẽ thuyết phục họ. Nhưng câu trả lời được đưa ra cho ông ta là, không phải như vậy đâu. Vấn đề chính là sự bằng lòng của tấm lòng chịu lắng nghe và tin theo sứ điệp của Kinh thánh. Các phép lạ đã được ấn định để xác quyết sứ điệp, nhưng nếu người ta không chịu sứ điệp nài khuyên, khi ấy đời sống của họ sẽ không thay đổi. Những phép lạ không phải là những đại biểu làm thay đổi; chính sứ điệp của Kinh thánh nói tới tình yêu thương và ân điển của Đức Chúa Trời trong Thân Vị và việc làm của Đấng Christ như đã được tỏ ra bởi Đức Thánh Linh mới làm thay đổi nhiều đời sống.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét