Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Kỳ hạn đã được trọn



Kỳ hạn đã được trọn
Galati 4.1-7

1. Larry Farthing chia sẻ bài thơ ngắn nầy có tên là Giáng Sinh Có Nghĩa là …Giáng Sinh có nghĩa là như thế đó.
+ Ngài hạ xuống để chúng ta được thăng lên (Giăng 6.38, 14.3).
+ Ngài trở nên nghèo để chúng ta được giàu có (II Côrinhtô 8.9, Giacơ 2.5).
+ Ngài giáng sanh để chúng ta được sanh lại (Giăng 1.14, 3.2,7).
+ Ngài trở thành tôi tớ để chúng ta được trở nên con cái (Philíp 2.7; Galati 4.6, 7).
+ Ngài không có nhà cửa để chúng ta có nhà ở trên trời (Mathiơ 8.20; Giăng 14.2).
+ Ngài chịu đói để chúng ta được no đủ (Mathiơ 4.2; Giăng 6.50).
+ Ngài chịu khát để chúng ta được thoả mãn (Giăng 19.26).
+ Ngài bị lột trần để chúng ta được mặc lấy (Mathiơ 27.28; Galati 3.27).
+ Ngài bị quên để chúng ta không bị quên (Mathiơ 27.26; 28.20).
+ Ngài chịu buồn đau để chúng ta được vui sướng (Êsai 53.3; Philíp 4.4).
+ Ngài chịu trói để chúng ta được tự do (Mathiơ 27.2; Giăng 8.32-36).
+ Ngài bị kể là phạm tội để chúng ta được kể là công bình (II Côrinhtô 5.21).
+ Ngài chịu chết để chúng ta được sống (Giăng 5.24, 25).
+ Ngài bị hạ xuống để chúng ta được kéo lên (I Têsalônica 4.16, 17).
2. Giáng Sinh cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời không bao giờ chậm trễ. Ngài không bao giờ quên hạn cuối cùng. Ngài đã sai Con Ngài vào thế gian đúng kỳ. Thời điểm của Đức Chúa Trời luôn luôn là trọn vẹn. Thời điểm của chúng ta và thời diểm của Đức Chúa Trời không luôn luôn giống nhau. Có nhiều lúc, khi chúng ta mong muốn Đức Chúa Trời phải hành động ngay lập tức. Chúng ta cầu nguyện: "Xin Đức Chúa Trời sự nầy tức thì … xin Đức Chúa Trời giúp con thoát ra khỏi nợ nần ngay lập tức… xin Đức Chúa Trời ban cho con sự kiên nhẫn và ban điều đó cho con ngay bây giờ". Chúng ta hiểu rằng trong sự khôn ngoan cả thể của Ngài, Đức Chúa Trời chọn không trả lời những câu cầu nguyện đó. Đấng dựng nên muôn vật từ chỗ không không, Ngài nhìn thấy tận thế từ lúc sáng thế, Ngài là Đấng mặc lấy mọi sự khôn ngoan và tri thức không bao giờ chậm trễ. Ngài luôn đúng giờ. Thì giờ ấy chắc không phải là thì giờ của chúng ta, mà luôn luôn là thì giờ của Ngài.
3. Trong mùa lễ Giáng Sinh, chúng ta thấy một sự nhắc nhớ quan trọng về sự thực Đức Chúa Trời đã hành động đúng kỳ định khi Ngài sai Con Ngài đến thế gian. Câu 4 của phân đoạn Kinh Thánh gốc chép: "Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra". Đây là một câu nói đáng kinh ngạc! Có bao giờ bạn nghĩ rằng có kỳ hạn trọn vẹn để Chúa Jêsus ra đời chưa? Có thể bạn nói: "Thưa Mục sư, nói như vậy phải chăng có một thời kỳ trong lịch sử khi muôn vật tuyệt đối chờ đợi Chúa Jêsus ra đời?" Tôi tin đấy chính xác là những gì câu gốc muốn nói. Chúa Jêsus đã đến thật đúng kỳ. Lễ Giáng Sinh nhắc cho chúng ta nhớ về kỳ hạn trọn vẹn của Đức Chúa Trời.
4. Bây giờ, có thể bạn muốn nói: "Sao chứ? Nói như thế có ý nghĩa gì với tôi?" Giống như kỳ hạn của Đức Chúa Trời được trọn vẹn trong sự đến của Chúa Jêsus, thời điểm của Ngài là trọn vẹn trong đời sống của bạn. Giống như dân sự trong thời của Chúa Jêsus không hiểu được kỳ hạn của Đức Chúa Trời, thì bạn không thể hiểu kỳ hạn ấy bây giờ, tuy nhiên, kỳ hạn ấy là trọn vẹn. Có thể hôm nay là kỳ hạn trọn vẹn trong đời sống của bạn để Đức Chúa Trời vận hành theo một phương thức đặc biệt. Hôm nay có thể là kỳ hạn Đức Chúa Trời phán với tấm lòng của bạn, đáp trả cho một tình thế chẳng đặng đừng, yên ủi, thêm sức cho, hay khích lệ bạn. Hôm nay có thể là kỳ hạn trọn vẹn cho bạn để được sanh lại.
5. Trong phân đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta sẽ xem xét Đức Chúa Trời thể hiện ra chương trình của Ngài trong lịch sử trọn vẹn như thế nào! Phân đoạn Kinh Thánh ấy cũng tỏ ra Ngài thực thi chương trình của Ngài trọn vẹn như thế nào trong đời sống của chúng ta. Chúng ta hãy xem xét sự chuẩn bị, mục đích và đặc ân trong sự đến của Chúa Jêsus.
I. CHUẨN BỊ cho sự đến của Ngài (các câu 1-3).
Chúng ta được Kinh Thánh cho biết rằng sự đến đầu tiên của Đấng Christ đã xảy ra khi "kỳ hạn đã được trọn". Suốt cả Cựu Ước, có vô số lời tiên tri đã được đưa ra về sự đến của Đấng Mêsi. Có những lời tiên tri về tư thế ra đời của Ngài, Ngài sẽ sanh bởi một nữ đồng trinh. Có những lời tiên tri về nơi ra đời của Ngài, Ngài sẽ sanh tại thành Bếtlêhem. Chúng ta thấy những lời tiên tri nầy đã được ứng nghiệm khi Chúa Jêsus ra đời trong cái đêm vinh hiển ấy. Nhưng giống như sẽ có một kỳ hạn trọn vẹn cho sự Đến Lần Thứ Hai của Ngài, có kỳ hạn trọn vẹn cho Lần Đến Thứ Nhứt của Ngài. Đức Chúa Trời đã kết mọi sự lại với nhau để chuẩn bị cho sự đến lần thứ nhứt của Đấng Christ và cho phần mở đầu của sự rao giảng Tin Lành.
A. Có sự chuẩn bị về TÔN GIÁO. Xuyên suốt Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã xử lý với Israel, là tuyển dân của Ngài. Ấy là qua họ mà Đấng Mêsi sẽ ngự đến. Nhưng Israel luôn luôn sai lạc đối với Đức Chúa Trời. Họ đã từ chối không chịu thờ phượng một mình Ngài, và luôn luôn tìm cách chạy theo các thần của những dân tộc ở chung quanh họ. Thật nhiều lần, Đức Chúa Trời đã xét đoán Israel vì tội thờ lạy hình tượng nầy.
Sau cùng, chúng ta thấy cực điểm của sự phán xét trong những gì đã được biết là sự phu tù cho người Babylôn. Sau cùng, Đức Chúa Trời đã cho phép toàn thể dân tộc phải bị Babylôn chinh phục rồi bị đưa ra khỏi quê hương của họ mà vào xứ ấy.
1. Tác động chính đầu tiên trong sự phu tù cho người Babylôn, ấy là sự phu tù đó khiến cho người Do thái quay lại với thuyết độc thần. Suốt cuộc phu tù ấy, người Do thái đã va chạm với người xứ Ba tư. Giờ đây, người Ba tư là những người thờ lạy thần lửa, hay thuyết độc thần. Như sự kiện của vấn đề, có người cảm thấy rằng mấy thầy bác sĩ là thầy tế lễ của thuyết độc thần, nhưng chúng ta chẳng có cách chi để khẳng định điều nầy. Trong bất cứ biến cố nào, dường như là người Do thái đã được giải cứu ra khỏi việc chạy theo những hình tượng của các nước ngoại giáo ở chung quanh họ.
2. Tác động chính thứ hai của sự làm phu tù cho người Babylôn, ấy là kinh Cựu Ước đã được hoàn tất dưới thời E-xơ-ra. Cho nên, lần đầu tiên, toàn bộ văn chương Cựu Ước bây giờ được biết là Kinh Thánh của người Do thái và kinh Cựu Ước Cơ đốc, đã được kết lại với nhau; lót đường cho sự rao giảng Tin lành của Đấng Christ.
3. Tác dụng chính thứ ba trong cuộc phu tù cho người Babylôn, ấy là nhà hội người Do thái đã đi vào hoạt động. Cho tới thời điểm đó, người Do thái đã thờ lạy tại Đền Thờ trong thành Jerusalem. Còn bây giờ, không còn có đền thờ nữa, và vì thế người Do thái đã phát triển một phương pháp nhóm lại bây giờ chúng ta biết là nhà hội. Nhà hội, một cách ngẫu nhiên, là khuôn mẫu mà Hội Thánh đã bắt chước theo. Vì vậy chúng ta có thể nhìn thấy từ tất cả các biến cố nầy, sự chuẩn bị về mặt tôn giáo cho sự đến của Đấng Christ.
B. Có sự chuẩn bị VỀ MẶT VĂN HOÁ.
1. Vào năm 350TC, có một người dấy lên tên là Alexander. Ông là con trai của Philip, vua xứ Ma-xê-đoan. Chúng ta biết ông là Đại đế Alexander. Ông đã chinh phục toàn bộ thế giới được biết thời bấy giờ trong 12 năm.
2. Dưới ảnh hưởng của Alexander, thế giới trở thành Hy lạp về mặt văn hoá, triết lý, thể chế, nghệ thuật, kịch nghệ, văn chương, kiến trúc, tư tưởng và ngôn ngữ. Tiếng Hy lạp lan nhanh đến nỗi hạng người bình thường đã sống rất quen thuộc với kiểu cách Hy lạp được biết là Koine, hay tiếng Hy lạp phổ thông. Tiếng ấy trở thành ngôn ngữ quốc tế .
3. Điều nầy rất quan trọng vì đến năm 280TC, Kinh Thánh tiếng Hy bá lai đã được dịch ra tiếng Hy lạp. Bản Kinh Thánh nầy được gọi là bản 70 [Septuagint]. Bối cảnh đã được đặt ra cho sự rao giảng Tin lành. Về mặt tôn giáo, kinh Cựu Ước đã được thu thập lại; về ngôn ngữ và về văn hoá, những tuyến truyền thông đã được mở ra. Thật đúng kỳ hạn.
C. Có sự chuẩn bị về mặt CHÍNH TRỊ.
1. Đến kỳ Chúa Jêsus ra đời, Rome đã cai trị thế giới. Người La mã đã chinh phục tất cả các nước ở chung quanh họ. Khi làm như vậy, họ đã xây dựng những con đường nối kết toàn bộ Đế quốc La mã. Họ ngăn cấm những hành động tội ác công khai, và dựng nên một hệ thống bưu tín rất tốt.
2. Đức Chúa Trời đã quyết định ai sẽ nhân vật nắm quyền lực ở Đế quốc La mã. Khi Đấng Christ ngự đến, Caesar Augustus là Hoàng Đế. Ông ta biết rất ít khi cho điều tra dân số, thực ra ông ta đang làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời.
3. Vì cớ chiếu chỉ của ông ta đòi hỏi mọi người dân phải trở về quê quán của họ, nộp thuế và kê khai, một người nữ đã có thai và chồng của nàng phải thực hiện chuyến hành trình lịch sử đến thành Bếtlêhem. Mary, người mẹ đồng trinh của Chúa Jêsus, được dẫn dắt bởi sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời đi đến địa điểm đã được nói tiên tri trong Cựu Ước, Đấng Christ sẽ ra đời tại đó.
D. Có sự chuẩn bị về mặt THUỘC LINH.
1. Hãy cùng tôi xem lại 3.23-25. ấy câu nầy cung ứng phần suy luận nói về cách thức Đức Chúa Trời chuẩn bị tấm lòng của dân sự để tiếp nhận Đấng Mêsi.
2. Câu 22 chép: "Kinh Thánh đã nhốt hết thảy mọi sự dưới tội lỗi", nghĩa là bởi đọc Kinh Thánh hết thảy chúng ta đều biết chúng ta là tội nhân. Câu 23 chép rằng "Trước khi đức tin chưa đến, chúng ta bị nhốt dưới sự canh giữ của luật pháp". Trước khi Chúa Jêsus ngự đến, con người đã tìm cách tuân giữ tất cả luật lệ Cựu Ước của Đức Chúa Trời. Hãy đoán xem việc gì xảy ra? Họ không thể tuân giữ được luật lệ ấy. Điều nầy quả là rất khó đấy. Đức Chúa Trời đã ấn định theo phương thức ấy. Câu 24 chép "luật pháp đã như thầy giáo đặng dẫn chúng ta đến Đấng Christ". Nói cách khác, vì chúng ta biết rõ việc tuân giữ luật pháp không thể cứu chúng ta, chúng ta biết chúng ta cần một Cứu Chúa …là Chúa Jêsus!
3. Ở 4.1, Phaolô sử dụng phần loại suy khác nữa. Ông nói tới một kẻ "kế tự", là một "con trẻ". Thực vậy, ông nói rằng một "kẻ kế tự còn thơ ấu thì chẳng khác chi kẻ tôi mọi", mặc dầu người ấy là "chủ của mọi vật". Tại sao chứ? Vì người ấy ở "dưới quyền kẻ bảo hộ và kẻ coi giữ", thầy giáo là kẻ bắt người phải học hỏi, là kẻ chỉ ra những lầm lỗi của người, và sửa phạt những lỗi lầm của người.
4. Tuy nhiên, điều nầy chỉ kéo dài trong một lúc mà thôi, "cho đến kỳ người cha đã định". Trong văn hoá Hy lạp, kẻ "kế tự" trẻ tuổi mà giàu có nầy phải đi học, chịu kỷ luật và chịu đối xử giống như "tôi mọi" cho tới kỳ mà "cha" người ban cho người cơ nghiệp đầy đủ.
5. Câu 3 chép: "chúng ta cũng như vậy … phải phục dưới các lề thói của thế gian". Dân sự của Đức Chúa Trời đã ở dưới luật pháp, là "thầy giáo" hay "kẻ coi giữ". Luật pháp rất khó chịu và sự sửa phạt của nó cũng khó chịu lắm.
6. Bây giờ hãy nhìn vào câu 4. Chúng ta ở "trong vòng tôi mọi" cho tới chừng "kỳ hạn đã được trọn". Hãy gạch dưới từ cụm từ "cho đến kỳ người cha đã định" đến chỗ "Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn". Sự đến của Chúa Jêsus cho thấy rằng kỳ hạn cho một cơ nghiệp thuộc linh giàu có đã đến.
7. Kỳ hạn của Đức Chúa Trời có nghĩa là chúng ta không còn ở dưới luật pháp nữa. "Kỳ hạn đã được trọn" có nghĩa là giờ đây chúng ta đang sống trong cơ nghiệp trọn vẹn các ơn phước thuộc linh của Đức Chúa Trời!
II. MỤC ĐÍCH sự đến của Ngài (các câu 4-5).
A. Chúa Jêsus ngự đến để LÀM PHU PHỈ (câu 4).
1. Chúa Jêsus đã đến trong sự "trọn vẹn" của kỳ hạn để làm phu phỉ công việc của Chúa. Có nhiều việc cho cái đêm đó ở thành Bếtlêhem cách đây hơn 2.000 năm hơn là chỉ có một con trẻ đang nằm trong máng cỏ.
2. Đức Chúa Trời "bèn sai Con Ngài", Chúa Jêsus đã lìa bỏ chỗ nổi bật và đặc ân của Ngài ở trên trời để ngự vào lòng của một thiếu nữ xuất thân từ thành Nazarét. Các thiên sứ đã phải run sợ kinh hãi là dường nào. Đấng Tạo Hoá của Vũ trụ được cưu mang trong lòng của một người nữ.
3. Ngài đã được "một người nữ sanh ra". Điều nầy nói tới nhân tính của Ngài. Vì Ngài là con của Đức Thánh Linh và không có cha theo phần xác, Ngài tuyệt đối thiêng liêng. Tuy nhiên, về mẹ của Ngài, Ngài tuyệt đối là con người. Ngài thường đề cập đến chính mình Ngài là "Con Người". Điều nầy rất quan trọng. Danh xưng ấy có ý nói Chúa Jêsus vốn hiểu rõ là con người là phải như thế nào rồi! Ngài biết tổn thương, sự khó nhọc và nỗi khổ của con người. Ngài biết rõ là con người phải như thế nào rồi.
4. Chúa Jêsus đã "sanh ra dưới luật pháp". Chúa Jêsus đã sanh ra dưới vị "thầy giáo" đó, "kẻ coi giữ" đó. Tuy nhiên, Chúa Jêsus đã sống khác biệt đối với tất cả những con người khác. Luật pháp không chỉ ra tội lỗi cùng những thất bại của Ngài vì Ngài không có tội. Ngược lại, luật pháp chỉ ra sự trọn lành của Ngài! Luật pháp chứng minh rằng Chúa Jêsus xứng đáng làm của lễ trọn vẹn cho tội lỗi của chúng ta. Đức Chúa Trời đã đề cập tới Cứu Chúa hầu đến khoảng 400 lần trong Cựu Ước. Chúa Jêsus đã đến với trần gian với sứ mệnh làm theo ý chỉ của Cha Ngài. Ngài đã phán trong Mathiơ 5.17: "Các ngươi đừng tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn".
5. Chúa Jêsus đã in trong trí nhiều điều về sự Ngài đến với trần gian hơn là ban cho chúng ta một ngày lễ. Đức Chúa Trời vốn có một mục đích lớn lao trong sự đến của Đấng Christ. Đức Chúa Trời đã hoạch định sự cố nầy trước khi thế gian được hình thành. Giờ đây đã đúng kỳ hạn. Và Đấng Christ ngự đến.
B. Chúa Jêsus ngự đến để CỨU CHUỘC (câu 5a).
Không những Chúa Jêsus ngự đến để "làm trọn" luật pháp và các sách tiên tri, Ngài đã đến "để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp".
1. Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận họ trên cơ sở những việc lành của họ. Họ tin rằng không cứ cách nào đó Đức Chúa Trời đánh giá những việc lành nghịch lại với những việc xấu của họ, rồi đến cuối cùng những việc lành của họ sẽ lớn lao hơn các việc xấu kia.
2. Hãy đoán xem có chuyện gì nào? Không một việc gì được coi là lành cả. Êsai 64.6 chép: "mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp". Đấy là mục đích của luật pháp Cựu Ước. Chính "thầy giáo" của chúng ta, thầy của chúng ta tỏ ra cho chúng ta thấy việc tốt nhứt chúng ta có thể làm sẽ không bao giờ là tốt đủ. Nó chỉ cho chúng ta thấy nhu cần của chúng ta về một Cứu Chúa.
3. Chúng ta đã ở dưới luật pháp, nhưng không thể tuân giữ luật pháp. Vì thế, chúng ta phải đứng chịu xét đoán bởi tình trạng bất xứng của chúng ta. Những việc làm của chúng ta cho thấy là chúng ta không thể tự mình sống công nghĩa được. Vì vậy Chúa Jêsus đã ngự đến. Ngài mang lấy nhân tính của chúng ta. Ngài mang lấy tội lỗi của chúng ta. Ngài đã chịu chết trên thập tự giá trong chỗ của chúng ta. Với sự chết của Ngài, Ngài chấp nhận sự đánh giá đầy đủ án phạt của Đức Chúa Trời vì tội lỗi thay cho chúng ta. Khi tôi còn là một đứa trẻ, mẹ tôi thường chọn để dành những con tem ở cửa hàng rau quả. Chúng tôi sẽ dán chúng trong những quyển vở rồi đi đến "trung tâm cứu vản" để mua đồ với những con tem của chúng tôi. "Trung tâm cứu vản" chấp nhận những con tem đó giống như tiền phải trả. Chúa Jêsus chịu chết vì tội lỗi chúng ta và Ngài hiến sự chết của Ngài cho Cha Ngài như số tiền nộp để "chuộc" hoặc mua lại chúng ta để chúng ta không bị án phạt và gánh chịu quyền lực của tội lỗi.
4. Sự ban hiến ấy vẫn còn duy trì cho đến hôm nay. Chúng ta có một hay hai sự lựa chọn. Chúng ta có thể chọn sống đời sống của chúng ta bằng sức riêng của mình, bắt lấy những cơ hội để chúng ta có thể sống cách công nghĩa đủ để kiếm được đường lên thiên đàng. Mặt khác, chúng ta có thể chấp nhận sự ban hiến ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi công tác đã hoàn tất của Con Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ. Đây là tặng phẩm Giáng Sinh tốt đẹp nhất từng có.
C. Chúa Jêsus ngự đến để cho chúng ta được làm CON NUÔI Ngài (câu 5b).
1. Câu nầy dạy rằng mục đích của Chúa Jêsus trong việc ngự đến không những làm phu phỉ và cứu chuộc, mà còn cho chúng ta làm con nuôi trong gia đình đời đời của Ngài nữa, "và cho chúng ta được làm con nuôi".
2. Từ ngữ "làm con nuôi" theo tiếng Hy lạp ra từ hai chữ. Một chữ có nghĩa là "đặt, để" và chữ kia có nghĩa là "con". Cho nên "làm con nuôi" có nghĩa là "đặt một người làm con".
3. Khi bạn đến với Chúa Jêsus, khi bạn đã được cứu, Đức Chúa Trời cho phép bạn làm con nuôi trong gia đình đời đời của Ngài. Không những Ngài đã tha thứ mọi tội lỗi cho bạn, bảo đảm với bạn về một ngôi nhà ở trên trời rồi đặt để Đức Thánh Linh ở trong bạn, mà Ngài còn cho bạn làm con nuôi nữa. Ngài lập bạn làm con trai hay con gái của Ngài. Giờ đây, bạn đang có mọi đặc ân trong địa vị làm con. Còn nhiều điều nữa trong đặc ân ấy.
4. Có một bức tranh đẹp về điều nầy trong Cựu Ước. II Samuên 9 mô tả thể nào khi David trở thành vua, ông đem cháu nội của Sau-lơ kẻ cừu thù mình, một chàng trai trẻ có tên là Mê-phi-bô-sết, vào trong cung điện của mình. Theo thông lệ thì phải giết hết con cái của vị vua trước. Thay vì thế, David đã đem chàng trai nghèo khốn, cô độc, què quặt nầy vào cung điện, cho anh ta ngồi chung bàn với mình. Chiếc bàn kia che đậy đôi chân què quặt của anh ta và ân sũng của Đức Chúa Trời che đậy quá khứ tội lỗi của anh ta.
5. Quí bạn ơi, Lễ Giáng Sinh có ý nói tôi đã được làm con nuôi! Như bài hát xưa chép: "Tôi là con cái của Nhà Vua". Chúa Jêsus ra đời nằm trong chiếc máng cỏ không những để trả nợ tội của tôi, mà Ngài còn cho tôi làm con nuôi trong gia đình đời đời của Ngài nữa kìa!
III. ĐẶC ÂN củs sự Ngài ngự đến (các câu 6-7).
A. Chúng ta không còn là TÔI MỌI nữa, mà là CON CÁI.
1. Trong phần loại suy của các câu 1-3, chúng ta thấy rằng một kẻ "kế tự" dầu kẻ ấy là con "thì chẳng khác chi kẻ tôi mọi". Câu 7 chép: "Dường ấy, ngươi không phải là tôi mọi nữa, bèn là con".
2. Câu 6 chép: "Lại vì anh em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta”. Câu 4 chép: "Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài". Ở đây chép: "Đức Chúa Trời đã sai Thánh Linh của Con Ngài". Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến để ban cho chúng ta được tiếp cận Ngài. Ngài sai Thánh Linh Ngài đến để ban cho chúng ta sự mật thiết với Ngài.
3. Vì chúng ta không phải là tôi mọi, vì chúng ta có Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang ngự ở trong lòng chúng ta, chúng ta kêu "Aba Cha!" Đây là Đức Thánh Linh, là Đấng đang "kêu". Tuy nhiên, nhờ Đức Thánh Linh, chúng ta cũng kêu "Aba".
4. "Aba" có nghĩa gì? Chữ nầy là một từ ngữ dịu dàng nói tới Đức Chúa Cha. Về từ ngữ gần gũi nhất chúng ta đang có trong Anh ngữ là "daddy" [cha]. Đức Chúa Trời khiến cho chúng ta ra con cái và đem chúng ta lại gần, trong sự mật thiết với Ngài. Ngài đặt Thánh Linh Ngài trong chúng ta, đặt chúng ta trên hông Ngài và chúng ta gọi Ngài là "Aba", Cha.
B. Không những chúng ta là CON CÁI, mà còn là KẺ KẾ TỰ nữa.
1. Câu 7 tiếp tục nói theo cách luận lẽ: "nếu [ngươi là] con, thì [ngươi] cũng là kẻ kế tự bởi ơn của Đức Chúa Trời". Nếu "nhờ Đấng Christ" bạn trở thành "con", thì khi là “con” bạn cũng là "kẻ kế tự" nữa.
2. Một kẻ "kế tự" thừa hưởng sự giàu có của cha mình. Là tín đồ, chúng ta có và chúng ta sẽ thừa hưởng "đầy đủ" sự giàu có của Cha chúng ta. Lễ Giáng Sinh có nghĩa là không những chúng ta có ân ban cứu rỗi, mà còn có mọi sự giàu có của Cha chúng ta ở trên trời nữa.
3. Rôma 8.16-17 chép: "Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự: kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ, miễn chúng ta đều chịu đau đớn với Ngài, hầu cho cũng được vinh hiển với Ngài". Cách đây hơn 2.000 năm, đã có một đêm khi "kỳ hạn đã được trọn". Các thiên sứ đã hiện ra trên những cánh cổng thiên đàng trong tình trạng ngóng chờ. Kế hoạch của Đức Chúa Trời qua các thời đại sẽ bắt đầu mở ra. Đấy sẽ là những giây phút duy nhứt trước khi họ loan báo cho mấy gã chăn chiên: "ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu thế, là Christ, là Chúa. Nầy là dấu cho các ngươi nhìn nhận Ngài: Các ngươi sẽ gặp một con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ" (Luca 2.11-12). Vì thế, khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con của Ngài, do người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp. Không thể cất chứa niềm vui của thiên đàng lâu hơn được nữa, các thiên sứ đã bung ra với tiếng kêu la vui sướng hớn hở: "Vinh hiển trên các từng trời rất cao. Bình anh, ân trạch cho loài người". Kỳ hạn đã được trọn. Nguyện kỳ hạn ấy đến trong đời sống của bạn hôm nay.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét