Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

PHƯỚC CHO NHÂN LOẠI



PHƯỚC CHO NHÂN LOẠI
Sanh bởi nữ đồng trinh

PHẦN GIỚI THIỆU.
Luca 2.1-20
A. Nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta trong dịp Lễ Giáng Sinh.
Nếu nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta là thông tin, Đức Chúa Trời sẽ phái đến cùng chúng ta một nhà giáo dục; nếu nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta là kỹ thuật, Đức Chúa Trời sẽ phái đến cùng chúng ta một khoa học gia; nếu nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta là tiền bạc, Đức Chúa Trời sẽ phái đến cùng chúng ta một nhà kinh tế; nếu nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta là khoái lạc, Đức Chúa Trời sẽ phái đến cùng chúng ta một tay chuyên giúp vui; nhưng nhu cầu lớn lao nhất của chúng ta là sự tha thứ, thì Đức Chúa Trời sẽ phái đến cùng chúng ta một Đấng Cứu Thế.
B. Hiểu được một nữ đồng trinh mang thai một đứa trẻ là điều mà nhiều người đã rơi vào chỗ khó nắm bắt được. Đây là lý do tại sao nhiều người đã rơi vào chỗ hoài nghi hoặc dứt khoát chối bỏ thần tính của Đức Chúa Jêsus Christ.
1. Một nữ đồng trinh không thể có con được. Kinh thánh đã bị người ta hiểu lầm hoặc Kinh thánh không đúng hay chẳng phải là Lời của Đức Chúa Trời.
2. Sẽ chẳng có một phép lạ nào hết, sự thai dựng của Đức Thánh Linh. Điều nầy đúng là càn dở.
C. Đối với những ai tin bởi đức tin, sự ra đời bởi nữ đồng trinh là một sự chính xác theo Kinh thánh. Kinh thánh đã đúng trong phần công bố về sự thai dựng lạ lùng Đức Chúa Jêsus Christ và sự ra đời bởi nữ đồng trinh của Ngài. Bài giảng nầy không phải là một sự tiếp cận với hình thái hoài nghi chủ nghĩa hay sự chối bỏ mà là tiếp cận với thái độ cảm tạ về món quà khôn tả xiết của Đức Chúa Trời cho nhân loại.
1. Êsai 7.14, 9.6
2. Mathiơ 1.18-25
D. Sự giáng sinh bởi nữ đồng trinh, nói theo khoa học, thì rất là khó tin, nhưng phép lạ thai dựng của Đức Thánh Linh và phép lạ ra đời bởi nữ đồng trinh không được giải thích bằng những sự kiện và con số của khoa học được. Sự nầy phải được giải thích bởi đức tin.
1. II Côrinhtô 5.7
2. Cách lý luận của con người (điều thấy được) không thể lý giải được sự kiện thuộc linh về sự thai dựng bằng phép lạ và sự ra đời bởi người nữ đồng trinh, rồi vì thế mà chối bỏ sự giáng sinh ấy.
3. Cách lý luận thuộc linh (một việc theo đức tin) có thể lý giải sự ra đời bởi người nữ đồng trinh, rồi nhơn đó mà tiếp nhận sự giáng sinh ấy.
E. Trong sứ điệp nầy, chúng ta sẽ nhìn vào các sự kiện xoay chung quanh sự giáng sinh bởi người nữ đồng trinh của Chúa Jêsus.
_________________________________
GIÔ-SÉP ĐẾN BẾTLÊHEM — 2.1-5
A. Nộp thuế – các câu 1-5
1. Nhà cầm quyền La mã đã ra lịnh thâu thuế.
2. Mỗi gia đình phải dời về chính bản xứ của họ để nộp thuế.
B. Chuyến đi – các câu 4-5
1. Giô-sép phải về thành Bếtlêhem để đăng ký, vì ông thuộc về nhà và dòng dõi của David.
2. Mary, đã chuẩn bị sanh con, cũng thuộc về dòng dõi nầy và cùng đi với Giô-sép.
C. Thị trấn.
1. Bếtlêhem có nghĩa là "nhà đầy bánh".
2. Chẳng phải là ngẫu nhiên khi Con Đức Chúa Trời ở trong lòng của nữ đồng trinh Mary lại chào đời tại thành Bếtlêhem, vì Giăng 6.35 cho chúng ta biết Ngài là Bánh Hằng Sống.
3. Bài học: Chúa Jêsus bước vào một đời sống thấp hèn tại thành Bếtlêhem với sứ mệnh đem đến một sự sống thuộc linh – Êphêsô 2.1-6
MARY ĐÃ SẴN SÀNG SINH CON — 2.6
A. Sự tể trị của Đức Chúa Trời.
1. "Đang khi"
2. Thực vậy, vì Đức Chúa Trời đã ấn định sự việc phải như thế.
B. Sự hiện diện tại thành Bêtlêhem.
1. "Đang khi hai người ở nơi đó"
2. Đã có đúng chính xác địa điểm và thì giờ. Đức Chúa Trời đã thực hiện mọi sự theo mọi chương trình của Ngài.
a. Rôma ra chiếu chỉ thâu thuế đúng vào thời điểm mà Mary sẽ viếng qua Bếtlêhem, nàng sẽ sinh con ở đó. Điều nầy chẳng phải là tình cờ đâu, mà nằm trong chương trình đã hoạch định của Đức Chúa Trời.
b. Điều nầy sẽ làm ứng nghiệm Lời tiên tri Michê 5.2.
3. Bài học: Nếu bạn đang ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ đưa bạn đến đúng nơi mà Ngài cần bạn phải đến.
CHÚA JÊSUS RA ĐỜI — 2.7
A. Sự ra đời của Ngài.
1. Galati 4.4-5: "Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài".
2. Đức Chúa Trời có bàn tay của Ngài trên mọi sự đang xảy ra quanh sự ra đời của Chúa Jêsus, và đúng kỳ định (thì thuận tiện của Ngài) cho Đấng Christ bước vào thế gian nầy, Mary sinh nở.
3. Bài học: Nếu Đức Chúa Trời có thể tể trị các biến cố của thời gian để đưa điều tốt nhất đến cho nhân loại, há chẳng khôn ngoan sao khi để cho Ngài tể trị đời sống của chúng ta? Người khôn ngoan sẽ lo làm điều đó.
B. Chiếc giường của Ngài.
1. Ngài được quấn bằng khăn.
a. Tả lót – một mảnh vải
b. Khăn là những mảnh vải hay băng thường quấn phần tứ chi của một em bé để được ấm.
c. Tự điển bách khoa toàn thư Kinh thánh:
"Khăn" đã trở thành một thuật ngữ nói tới việc quấn một em bé trong Đông phương hay bất cứ đâu khác. Khăn làm tả trong Đông phương gồm một miếng vải hình vuông và hai hay ba cuộn băng. Đứa trẻ được chiếc khăn ấy quấn chéo và các góc được gấp lại ở phần chân, cả thân thể lẫn phần đầu, mấy cuộn băng khi ấy được buộc lại để giữ chặt cho cái khăn đó. Cách làm nầy tạo ra áo quần cho đứa trẻ cho tới khi nó được một tuổi, khi nó đã bò được (Êxêchiên 16.4) sẽ là một dấu hiệu không cần đến khăn ấy nữa.
2. Ngài được đặt nằm trong chiếc máng cỏ (cái máng cho thú vật ăn).
a. Tại sao Ngài lại ra đời trong chuồng chiên và được đặt nằm trong cái máng cho thú vật ăn?
b. Chẳng còn phòng nào trong nhà quán nữa.
— Ngài đã bước vào trong thế gian không phải với nét oai nghi của các vua đời nầy.
— Ngài đã tự hạ mình xuống chịu chết trên thập tự giá – Philíp 2.7-8
THIÊN SỨ BÁO CHO MẤY GÃ CHĂN CHIÊN BIẾT VỀ SỰ GIÁNG SINH CỦA CHÚA JÊSUS — 2.8-14
A. Sự công bố của thiên sứ.
1. Mấy gã chăn đang trông chừng bầy chiên khi thiên sứ của Đức Giêhôva hiện ra cùng họ – các câu 8-9
2. Đừng sợ chi – câu 10
3. Ta đem các tin tức tốt lành đến cho muôn dân – câu 10
4. Cho các ngươi (vì nhu cầu của các ngươi) một Cứu Chúa thuộc dòng dõi Vua David. Ngài là Đấng Christ là Chúa - câu 11
B. Những tiếng Ha-lê-lu-gia của các thiên sứ trên trời.
1. Đạo binh của thiên đàng (được giả định ở đây còn có nhiều thiên sứ khác nữa) đã bật ra giai điệu ha-lê-lu-gia nức lòng ngợi khen và thờ lạy Đức Chúa Trời.
2. Vinh hiển cho Đức Chúa Trời; bình an trên đất; nhơn trạch cho loài người – các câu 13-14
MẤY GÃ CHĂN CHIÊN ĐẾN NHÌN THẤY NỮ ĐỒNG TRINH SANH CON ĐỨC CHÚA TRỜI — 2.15-17
A. Tính tò mò của họ.
1. Họ đã vội vàng đến. Đây là sự cố quan trọng cho họ và cho thế gian.
a. Tại sao việc nầy quan trọng chứ?
b. Vì họ đang thưởng thức sự đến của Cứu Chúa mà Đức Chúa Trời đã ấn định. Chắc chắn họ biết rõ những lời tiên tri như Êsai 7.14; 9.6 và Michê 5.1.
2. Họ tìm gặp Giôsép, Mary, cùng với con trẻ.
B. Sự làm chứng của họ.
1. Họ thuật lại rằng thiên sứ đã báo cho họ biết về con trẻ.
a. Ngài ra đời trong thành David hôm ấy.
b. Ngài là Cứu Chúa.
c. Ngài là Đấng Christ là Chúa.
2. Những điểm thú vị về danh xưng của Ngài.
a. Giôsép và Mary đã được truyền cho phải gọi Ngài là Jesus (Cứu Chúa) Mathiơ 1.21; Luca 1.31
b. Thiên sứ công bố Ngài là Đấng Christ (Đấng chịu xức dầu, Đấng Mêsi) và là Chúa (Thầy) Luke 2.10
c. Êsai đã ghi lại danh của Ngài là Em-ma-nu-ên (Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta) Êsai 7.14, đối chiếu Mathiơ 1.23
PHẦN KẾT LUẬN:
A. Luca 1.18-20 cung ứng cho chúng ta phần đáp ứng của kẻ nghe những việc nầy.
1. Một số lấy làm ngạc nhiên– câu 18
2. Mary phải suy nghĩ – câu 19
3. Mấy gã chăn chiên vui mừng – câu 20
B. Bạn nghĩ sao về vấn đề sự ra đời bởi nữ đồng trinh của Đức Chúa Jêsus Christ, Đấng Cứu Thế vào trong thế gian để cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi của họ?
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét