Thứ Tư, 13 tháng 1, 2010

ELISHA: Bị kẻ thù bao vây



Bài 16

Bị kẻ thù bao vây

(II Các Vua 6.8-23)
PHẦN GIỚI THIỆU.
Tiểu đoạn Kinh thánh nầy yêu cầu chúng ta chú ý vào những sự thù nghịch mà Israel đã kinh nghiệm với vua xứ Aram (Syri). Nguyên nhân chính của những sự thù nghịch nầy cứ tiếp tục trong hình thức những toán xâm lược hoặc các đội cướp phá tạo ra những cuộc đột kích chống lại người Do thái (đối chiếu 6.23) thay vì một cuộc xâm lược của một đạo binh có tổ chức của người Syri như đã được nhắc tới trong 6.24.
Êlisê làm cho mọi chương trình của quân Syri phải thất bại (6.8-14)
“Vả, vua Sy-ri giao chiến với Y-sơ-ra-ên; người thương nghị với các tôi tớ mình, mà rằng. Ta sẽ đóng trại ta tại nơi nọ nơi kia. Người của Đức Chúa Trời bèn sai nói với vua Y-sơ-ra-ên rằng; Khá giữ lấy, chớ đi ngang qua chỗ kia, vì dân Sy-ri phục tại đó. Vậy, vua Y-sơ-ra-ên sai người đến nơi mà người Đức Chúa Trời đã chỉ cho mình và bảo trước; người giữ lấy mình tại đó, chẳng những một hai lần. Lòng vua Sy-ri bối rối về sự ấy, bèn gọi các tôi tớ mình, mà nói rằng; Các ngươi há không tỏ cho ta, ai trong chúng ta là người giúp đỡ vua Y-sơ-ra-ên? Một người trong những tôi tớ thưa rằng. Ôi vua chúa tôi! chẳng ai trong chúng tôi hết; nhưng Ê-li-sê, tiên tri trong Y-sơ-ra-ên, tỏ cho vua Y-sơ-ra-ên biết các lời vua nói trong phòng ngủ mình. Vua bèn bảo rằng. Hãy đi xem người ở đâu, để ta sai bắt người. Có người đến thuật cho vua rằng. Kìa, người ở tại Đô-than. Vì vậy, vua sai ngựa, xe, và một đạo binh rất đông đến Đô-than; họ tới nơi lúc ban đêm, và vây thành”.
Mỗi lần quân Syri sắp mở một cuộc đột kích vào trong Israel, mọi chương trình của họ đều bị lộ tẩy qua sự khải thị mà Đức Chúa Trời đã ban cho Êlisê. Êlisê thông báo cho vua Israel biết, khi ấy vua sẽ dè chừng chống lại những cuộc xâm lược đó. Điều nầy tự nhiên làm cho vua Aram (Syri) phải thắc mắc, trước tiên ông cho rằng ông đã có một người thông tin giữa vòng các đạo binh của ông (câu 11). Khi ấy người ta mới nói cho ông biết về khả năng của Êlisê là một tiên tri của Israel vốn biết rõ mọi dự định của vua, thậm chí khi vua nói ra những điều đó trong chỗ kín nhiệm (câu 12).
Rõ ràng, vua xứ Aram vốn biết rằng nếu mọi dự định của ông muốn được thành công, ông sẽ phải thanh toán Êlisê. Điều nầy có nghĩa là vị tiên tri sẽ trở thành mục tiêu tấn công của ông ta. Nhà vua cần biết rõ nơi ở của Êlisê, khi ấy ông đang ở tại Đô-than. Khi hay được điều nầy, ngay lập tức ông điều cả một đội quân đến vây thành phố và bắt lấy vị tiên tri với dự tính rõ ràng là buộc tiên tri phải chịu chết.
Chúng ta học được điều gì từ điều nầy bởi cách ứng dụng?
(1) Trong bối cảnh nầy, chúng ta có một hình ảnh về Satan, qua những đường hướng và chiến lược khác nhau, thể nào đang tìm cách tấn công dân sự của Đức Chúa Trời như một tổng thể, nhưng đặc biệt các vị giáo sư của Ngài lo dạy dỗ Ngôi Lời, bởi đó họ có thể cảnh cáo và nhìn xem dân sự (cả tin và không tin) đều thoát khỏi những cuộc tấn công và dự định của Satan (Êphêsô 2.1…; 6.10…; II Cô-rinh-tô 2.11; II Ti-mô-thê 2.23-26; I Phierơ 5.8).
(2) Câu chuyện nầy cũng cung ứng cho chúng ta một minh hoạ rất hay về sự toàn tri của Đức Chúa Trời, là Đấng biết rõ mọi dự định của kẻ thù và là Đấng đã cung ứng sự khải thị đặc biệt cho chúng ta để chúng ta hay tin hầu tự bảo vệ mình tránh khỏi những cuộc công kích của Satan qua mọi khí giới Đức Chúa Trời cung cấp cho chúng ta trong Đấng Christ (Êphêsô 6.10-18).
(3) Nếu, khi chúng ta được cảnh cáo rồi, chúng ta không chấp nhận sự tiếp trợ và khí giáp của Đức Chúa Trời chống lại những mưu kế của Satan, chúng ta không còn đổ thừa cho ai khác ngoài ra chính mình. Mỉa mai thay, mặc dù vua Israel mau mắn nghe theo những lời cảnh cáo về những cuộc tấn công thực sự của quân Syri, ông rất hờ hửng với những lời cảnh báo của Êlisê về tội lỗi của ông và từ chối không thực sự bước theo Đức Giêhôva. Nhưng phải chăng đây chưa phải là điển hình? Người ta thường sẵn sàng chú ý đến lời bàn của các y bác sĩ khi tham khảo đến các vấn nạn về sức khoẻ, nhưng lại chậm nghe theo mưu luận của Lời Đức Chúa Trời.
Êlisê phục vụ cho tôi tớ mình (6.15-17)
“Tôi tớ của người Đức Chúa Trời chổi dậy sáng sớm đi ra, thấy một đạo binh cùng ngựa và xe đang vây thành. Người nói với Ê-li-sê rằng: Hỡi ôi! chúa, chúng ta sẽ làm sao? Ê-li-sê đáp rằng: Chớ sợ, những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó. Đoạn, Ê-li-sê cầu nguyện mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được. Đức Giê-hô-va mở mắt người ra, thì người thấy núi đầy những ngựa và xe bằng lửa ở chung quanh Ê-li-sê”. Tất nhiên, dân sự của Đức Chúa Trời cần hai việc nếu họ chịu chấp nhận các nguồn tin của Đức Chúa Trời chống lại kẻ thù và kinh nghiệm sự giải cứu của Đức Chúa Trời. Họ cần sự thông sáng hay sự soi sáng, cần hai con mắt để nhìn thấy quyền phép và sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời, nhưng họ cũng phải tin theo Đức Chúa Trời và mặc lấy khí giáp mà Đức Chúa Trời ban cho để họ sẵn sàng chiến đấu chống lại Satan cùng các thế lực của hắn. Trong các câu 15-23, chúng ta có một minh hoạ cho cả hai.
Trong câu 15, tôi tớ của Êlisê đi ra ngoài dường như thấy rõ cả hai: kẻ thù và sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời. Giống như nhiều Cơ đốc nhân, một ngày mới với những công việc như thường lệ. Anh ta sắp sửa lo liệu những việc vặt trong ngày và chẳng lo toan hay quan tâm gì lắm về chiến trường thuộc linh ở chung quanh anh ta, nghĩa là anh ta cũng hoàn toàn chẳng sửa soạn gì cho những điều anh ta phải đối mặt với.
Là Cơ đốc nhân, chúng ta có thể cũng y như thế thôi. Chúng ta thường chẳng xem trọng gì về chiến trận thuộc linh của mình. Chúng ta hành động giống như Satan và nước của hắn đã ngủ mê hay chẳng thành vấn đề gì đối với chúng ta. Chúng ta đi ra chẳng sửa soạn gì về mặt thuộc linh. Kết quả là, khi đối mặt với một hình thức nào đó về chiến trận thuộc linh, giống như tôi tớ của Êlisê đã có, đáp ứng của chúng ta là kinh ngạc và lo âu: “Hỡi ôi, chúa, chúng ta phải làm sao?” Ít nhất tên đầy tớ kia đã có ý thức tốt, biết tìm kiếm mưu luận của vị tiên tri, còn hơn là chúng ta nói với nhiều tín đồ, họ thường xây vào thế gian để kiếm mưu luận cho họ (đối chiếu Thi thiên 1). Chúng ta đã mau nghe theo mưu luận của thế gian thay vì suy gẫm nơi Ngôi Lời là dường nào.
Ngược lại, chúng ta thấy Êlisê, ông chắc đã biết rõ những đạo quân đến bao vây rồi. Điều nầy chẳng có gì là ngạc nhiên đối với ông cả, nhưng quan trọng hơn, ông đã nhắm vào những đạo binh của Đức Chúa Trời đang vây quanh, họ mới là mạnh hơn và đông hơn. Trong thời của Êlisê, các Thi thiên của David đã được viết ra, và dù ông đã có chúng trong tay hay chưa, chắc chắn ông đã suy nghĩ tới lẽ thật của Thi thiên 27.1-3 và 3.6.
Thi thiên 27.1-3: “Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai? Đức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai? Khi kẻ làm ác, kẻ cừu địch và thù nghịch tôi, xông vào tôi, đặng ăn nuốt thịt tôi, thì chúng nó đều vấp ngã. Dầu một đạo binh đóng đối cùng tôi, lòng tôi sẽ chẳng sợ; Dầu giặc giã dấy nghịch cùng tôi, khi ấy tôi cũng có lòng tin cậy vững bền”.
Thi thiên 3.6: “Tôi sẽ không nao muôn người vây tôi khắp bốn bên”.
Trong mọi sự nầy, Êlisê rất bình tỉnh, thoải mái, và tin cậy, không phải nơi bản thân mình, mà tất nhiên là nơi Đức Chúa Trời. Không những ông đã nhìn thấy vấn đề, mà ông còn nhìn thấy giải pháp và biết rõ Đức Chúa Trời của giải pháp nữa. Giống như Êxêchia, về sau đã đối mặt với đạo binh Asiri, Êlisê đã tìm cách chuyển tải chính lẽ thật mà Êxêchia đã truyền đạt cho dân sự mình ở II Sử ký 32.7-8.
“Khá vững lòng bền chí, chớ sợ, chớ kinh hãi trước mặt vua A-si-ri và đám quân đông đảo theo người; vì có một Đấng ở cùng chúng ta thắng hơn kẻ ở với họ: với người chỉ một cánh tay xác thịt; còn với chúng ta có Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng ta đặng giúp đỡ và chiến tranh thế cho chúng ta. Dân sự bèn nương cậy nơi lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa”.
Trong các câu 16-17, chúng ta học biết ba phương thức Êlisê đối xử với nỗi sợ hãi của tôi tớ mình. (a) bằng một sự bày tỏ mối quan tâm cá nhân qua một lời nói khích lệ: “Chớ sợ”, (b) bằng sự dạy dỗ của Kinh thánh đã ấn định cung ứng một lý do tại sao anh ta không nên sợ hãi: vì “những người ở với chúng ta đông hơn những người ở với chúng nó”, và (c) bằng cách cầu nguyện xin soi sáng cho tên đầy tớ: “Đoạn, Ê-li-sê cầu nguyện mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi, xin mở mắt kẻ tôi tớ tôi, để nó thấy được”.
Wow! Những bài học ở đây rất là thực tế và có quyền năng. Chúng ta có thể làm thế nào với những nỗi lo sợ của dân sự chứ? Giống như vầy thôi! Chúng ta cần phải tỏ ra mối quan tâm và sự lo liệu cho cá nhân, cung ứng huấn thị theo Kinh thánh, rồi đến với Chúa trong sự nương cậy riêng tư vào Ngài xin soi sáng cho họ nhìn thấy những nguồn lực và sự đầy đủ của Ngài, vì trừ phi Chúa chúc phước cho chức vụ của chúng ta, việc làm của chúng ta sẽ là hư không (đối chiếu I Cô-rinh-tô 3.7).
Tuy nhiên, khuynh hướng của chúng ta là hay chễnh mãng điều nầy hay điều kia trong các yếu tố quan trọng nầy. Một là chúng ta quá khách quan và nguội lạnh trong sự dạy cùng các quan hệ của chúng ta với dân sự, hoặc chúng ta nồng ấm và có vẽ bề ngoài hấp dẫn, nhưng chúng ta thất bại không truyền đạt được lẽ thật của Đức Chúa Trời, hay vì chúng ta tin cậy vào cá tánh hay tài khéo của mình trong vai trò một giáo sư, chúng ta thất bại không cầu nguyện. Chúng ta cần phải nắm bắt sự cân đối ở đây. Đức Chúa Trời sử dụng con người, Đức Chúa Trời sử dụng Lời của Ngài, nhưng mặc dầu Đức Chúa Trời thường sử dụng Lời của Ngài là vì Lời ấy sống động và có quyền năng bất chấp chúng ta, chính sự cầu nguyện cung ứng quyền phép cho tình cảm và sự dạy dỗ cá nhân của chúng ta. Điều nầy được thấy trong đời sống của Phaolô. Chỉ hãy so sánh những lời cầu nguyện của Phao-lô trong Êphêsô 1.15-23; 3.16-21; Phi-líp 1.9-11 và Cô-lô-se 1.9-12.
Êlisê được giải cứu khỏi quân Syri (6.18-23)
“Quân Sy-ri kéo xuống nơi Ê-li-sê; người cầu nguyện Đức Giê-hô-va rằng: Xin Chúa khiến mắt quân ấy bị đui mù. Đức Chúa Trời bèn khiến chúng đui mù, theo như lời cầu nguyện của Ê-li-sê. Đoạn, Ê-li-sê nói với chúng nó rằng; Đây không phải là đường, đây chẳng phải là thành. Hãy theo ta, ta sẽ dẫn các ngươi đến người mà các ngươi tìm kiếm. Rồi người dẫn chúng nó đến Sa-ma-ri. Khi chúng nó đã vào trong Sa-ma-ri rồi, Ê-li-sê cầu rằng: Lạy Đức Giê-hô-va, xin mở mắt cho chúng nó thấy. Đức Giê-hô-va bèn mở mắt họ, họ thấy mình ở giữa Sa-ma-ri. Vua Y-sơ-ra-ên thấy chúng nó, thì nói với Ê-li-sê rằng: Hỡi cha! phải đánh chúng nó chăng? phải đánh chúng nó chăng. Ê-li-sê đáp rằng: Chớ đánh. Những người vua dùng gươm và cung mà bắt làm phu tù, vua há đánh sao? Hãy dọn trước mặt chúng bánh và rượu, để cho chúng ăn và uống, rồi trở về cùng chủ mình. Người bèn bày tiệc lớn cho chúng nó; khi chúng nó đã ăn uống rồi, người tha cho chúng nó đi; chúng nó bèn trở về cùng chủ mình. Từ đó về sau, những toán quân Sy-ri không còn loán đến địa phận Y-sơ-ra-ên nữa”.
1. Mặc dầu vua Syri đã phái một lực lượng lớn gồm ngựa, xe ngựa, và một đạo binh lớn nhiều người đến vây bắt một vị tiên tri, ông ta tưởng chẳng có đường nào cho Êlisê trốn thoát, Êlisê vốn biết rõ tất cả các lực lượng của vua nầy chỉ là cánh tay của xác thịt và không thể sánh với quyền phép của Đức Chúa Trời. Vì vậy, Êlisê đã cầu nguyện và xin Đức Giêhôva đánh kẻ thù của ông bằng tình trạng mù loà để họ không còn nhìn thấy (hay có lẽ nhận biết) vị tiên tri. Lời cầu nguyện nầy đã được nhậm cách lạ lùng và Êlisê đã dẫn chúng đi vào thành Samaria và vào trong tay của vua Israel, ở đây họ đã sống trong sự thương xót của ông. Trưng dẫn James Gray, Irving Jensen ghi như sau:
Lời lẽ của Êlisê trong câu 19 không phải là một lời nói không thật, khi “nơi ở thực của ông là Samaria; và cuối cùng thì ông đã dẫn họ đến với chính mình ông, chẳng phải để làm hại họ, mà để lấy thiện trả ác”.
Dưới đây là lời bình thứ hai và thứ ba của Matthew Henry về phân đoạn Kinh thánh nầy.
2. Khi họ bị bối rối và lúng túng, ông đã dẫn họ vào thành Samari (câu 19), hứa rằng ông sẽ chỉ cho họ người mà họ tìm kiếm, và ông đã làm đúng như thế. Ông không nói dối với họ khi ông bảo họ: “Đây không phải là đường, đây chẳng phải là thành” nơi Êlisê ở; vì ông giờ đây đã ra khỏi thành phố; và nếu họ trông thấy ông, họ sẽ được ông dẫn qua một thành phố khác nữa. Người nào đánh trận chống lại Đức Chúa Trời và các vị tiên tri của Ngài đều tự lừa dối mình, và bị phó cho những ảo ảnh.
3. Khi ông đưa họ đến thành Samari, ông đã cầu xin Đức Chúa Trời mở mắt họ ra, rồi phục hồi lại ký ức của họ để họ nhìn thấy nơi họ mới đến (câu 20), “và kìa, trước sự kinh khiếp của họ, “họ thấy mình ở giữa Samari”, là nơi, có lẽ, đã có một lực lượng đang đứng đó để chém chết họ cả thảy, hoặc khiến họ trở thành tù binh chiến tranh. Satan, chúa của thế gian nầy, hắn đang làm mù mắt người ta, và vì vậy đánh lừa họ, khiến họ rơi vào chỗ sụp đổ của chính họ; nhưng, khi Đức Chúa Trời soi sáng con mắt của họ, khi ấy họ thấy mình đang ở giữa kẻ thù của mình, những kẻ làm phu tù cho Satan và đang ở trong mối nguy hiểm của địa ngục, mặc dù trước đây họ tưởng tình trạng của họ là tốt lành. Kẻ thù của Đức Chúa Trời và Hội thánh Ngài, khi họ tưởng họ sẵn sàng đắc thắng, sẽ thấy họ bị chinh phục và bị thắng hơn.
Êlisê, chức vụ của ông thường phác hoạ và chỉ ra việc làm đó của Chúa, đã đưa Syri vào trong tình trạng khó xử nầy không phải để giết họ, mà là để truyền đạt bằng cách tỏ ra quyền năng, sự khôn ngoan và ơn thương xót của Đức Chúa Trời của Israel. Những gì Êlisê đã làm, đã chứng tỏ điều ông có thể làm – tạo ra sự hủy diệt của họ. Nhưng bởi hành động của ông trong một sự tiếp trợ đầy lòng thương xót và dư dật, ông đã tìm cách thuyết phục, kết án, và thậm chí làm cho họ phải xấu hổ, chớ không giết họ (các câu 22-23).
Vua của Israel dường như thấy thất vọng và không dám chắc phải làm điều gì và chỉ nghĩ tới sự tiêu diệt họ như một phương tiện gạt bỏ họ như một vật đe doạ vậy (đối chiếu câu 21), nhưng vị tiên tri ra lịnh phải làm ngược lại – tiếp trợ và phóng thích. Tác dụng của điều nầy là một cứu cánh cho những toán cướp cạn người Aram, dù về sau Bên Ha-đát vua Aram (Syri) sẽ vây thành Samari (các câu 24…). Rõ ràng, khi có cuộc bao vây về sau nầy, điều nầy có ít tác dụng trên Bên Ha-đát, nhưng sự tạm ngừng ngay lập tức các toán đột kích cho thấy rằng điều nầy đã có một cái chạm trên một số dân Syri. Nó đã minh hoạ rõ ràng lẽ thật của II Cô-rinh-tô 2.14-17.
“Song tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng trong Đấng Christ luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn! Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất; cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. Ai xứng đáng cho những sự nầy? Vả, chúng tôi chẳng giả mạo lời của Đức Chúa Trời như nhiều kẻ khác; nhưng chúng tôi lấy lòng chân thật, theo như đạo từ Đức Chúa Trời đến thể nào, thì giảng ra thể ấy trước mặt Đức Chúa Trời, trong Đấng Christ”.
Sự đắc thắng của Êlisê ở đây đã được ấn định để tỏ ra mùi thơm ngọt ngào của tình yêu thương của Đức Chúa Trời như một thức hương. Đối với một số người không nghi ngờ chi nữa, mùi hương ấy dẫn tới sự sống qua sự làm chứng đầy quyền phép và lẽ thật cho thấy Đức Chúa Trời của Israel là Đức Chúa Trời chơn thật. Nhưng đối với nhiều người khác, đây là mùi hương chỉ dẫn tới sự chết khi họ ra về với chính sự vô tín mà họ đã đến trong đó. Chắc chắn, trong mọi hành động của Êlisê, chúng ta thấy một người thành thực truyền đạt ân điển của Đức Chúa Trời. Ông không tìm cách trả thù cũng không tìm sự khen ngợi cũng không tìm kiếm phần thưởng.
PHẦN KẾT LUẬN.
Câu chuyện nầy nhắc cho chúng ta nhớ rằng khi các tín đồ hầu việc Chúa, đặc biệt khi đào tạo người khác trong Ngôi Lời và trong cách thức dạy dỗ Ngôi Lời, Satan sẽ làm hết sức mình để ngăn trở mọi nổ lực của họ. Êlisê là hiệu trưởng của trường thần học đang phát triển và thành công. Hơn nữa, ông đang phục vụ xứ sở của mình và dân sự Đức Chúa Trời bằng cách luyện tập các ân tứ của mình trong việc bày tỏ ra quyền phép và thực tại của Đức Chúa Trời của Israel. Điều nầy đã có tác dụng đầy quyền phép nghịch lại mọi dự tính của Satan là kẻ đang tìm cách để bành trướng học thuyết Ba-anh.
Trong câu chuyện nầy chúng ta một lần nữa nhìn thấy thể nào Satan sử dụng những công cụ con người và đủ loại phương pháp để làm bất cứ điều gì hòng ngăn trở chức vụ của các tín đồ. Nhưng quyền phép của Đức Chúa Trời luôn luôn lớn lao hơn. Thực vậy, Ngài thường sử dụng chính những tình huống nầy để bày tỏ ra quyền phép ấy để kéo người ta đến với chính mình Ngài.
Chúng ta hiểu câu chuyện sau đây đã được tường trình lại bởi một y-giáo sĩ tại Hội thánh nhà của ông ở Michigan. Chúng ta không dám chắc câu chuyện nầy bắt nguồn từ đâu, vì vậy chúng ta không thể đưa ra sự khen ngợi, nhưng nó phác hoạ ra mục tiêu của chúng ta rất đẹp đẽ.
Trong khi phục vụ tại một bịnh viện nhỏ ở đồng quê châu Phi, tôi đi đó đi đây mỗi hai tuần bằng xe đạp xuyên rừng đến một thành phố gần đấy để lấy đồ trợ cấp. Điều nầy đòi hỏi phải cắm trại qua đêm ở khoảng giữa lộ trình. Trên một trong những lần đi như thế nầy, tôi nhìn thấy hai người đang đánh nhau trên đường phố. Một người bị thương tích rất nặng, vì vậy tôi đối đãi tốt với anh ta rồi làm chứng cho anh ta biết về Đức Chúa Jêsus Christ. Khi ấy tôi trở về nhà mà chẳng gặp một sứ cố nào.
Trên đường đến thành phố khoảng vài tuần sau, có người mà tôi đã đối xử tốt hôm trước đến gần tôi. Anh ta nói với tôi anh ta biết tôi có tiền và thuốc men. Anh ta nói: “Mấy người bạn và tôi theo sau ông vào trong rừng, chúng tôi biết ông sẽ cắm trại qua đêm. Chúng tôi chờ ông đi ngủ rồi hoạch định giết ông để lấy tiền và thuốc men. Khi chúng tôi sắp sửa bước vào lều của ông, chúng tôi trông thấy có tới 26 người lính có vũ trang đang gác chung quanh ông”.
Tôi bật cười khi nghe như vậy rồi đáp chắc chắn tôi chỉ có một mình trong chỗ cắm lều nghĩ tạm đó. Anh thanh niên ấy nhấn mạnh chỗ đó: “Không, thưa ông, tôi không phải là người duy nhứt nhìn thấy bọn lính đâu. Mấy người bạn xứ Jave của tôi cũng đã nom thấy họ và hết thảy chúng tôi đều đếm rõ ràng mà. Chính vì mấy tên lính đó khiến chúng tôi bắt sợ hãi rồi để cho ông đi đấy”.
Tới điểm nầy trong phần làm chứng của Hội thánh tại Michigan, một trong những người của Hội thánh đã nhảy dựng lên ngắt ngang vị giáo sĩ, họ hỏi: “Ông có thể nói cho tôi biết ngày giờ việc nầy xảy ra không?” Vị giáo sĩ suy nghĩ trong một lúc rồi nhớ lại ngày tháng. Người kia trong hội chúng thuật lại mặt nầy của câu chuyện.
“Trong đêm ấy tại Phi châu, còn ở đây là ban ngày. Tôi đang chuẩn bị đi chơi golf. Khi tôi đặt cái túi lên xe, tôi cảm thấy Chúa đang hướng dẫn tôi cầu nguyện cho ông. Thực vậy, sự thúc giục mạnh đến nỗi tôi đã kêu gọi nhiều người trong Hội thánh nầy hiệp lại với nhau đặng cầu thay cho ông. Xin tất cả mọi người đã nhóm lại với tôi trong ngày ấy làm ơn đứng dậy có được không ạ?”
Những người đã nhóm lại cầu nguyện trong ngày ấy đều cùng nhau đứng dậy – đã có tới 26 người cả thảy!
Phản ứng của tên đầy tớ đối với đạo binh Syri cho chúng ta thấy thể nào nỗi sợ hãi đã làm tê liệt chúng ta. Sợ hãi có thể giữ chúng ta thôi không hầu việc Chúa nữa, nó có thể giữ chúng ta lại không tận hưởng ơn phước và quyền phép của Đức Chúa Trời, hoặc nó có thể giữ chúng ta không tiến tới trước với một phương án bằng cách thối lui hay bỏ chạy đi.
Sự thể cũng quan trọng đến nỗi chúng ta nhìn thấy nguyên nhân nỗi sợ hãi của tên đầy tớ. Phải chăng vì anh ta đã thấy có quá nhiều người không? Không! Sở dĩ như thế là vì anh ta đã thấy quá ít. Anh ta chỉ có hai con mắt để nhìn thấy nan đề hay mối nguy hiểm. Nhìn thấy nan đề hay mối nguy hiểm không phải là sai trật đâu. Đây là sự khôn ngoan vì nó tỏ ra cho chúng ta thấy nhu cần và tính bất khả thi của chúng ta. Nan đề thực, ấy là anh ta đã không nhìn thấy – các đạo binh của Đức Chúa Trời và sự hiện diện thiêng liêng của Ngài luôn luôn vây phủ chúng ta như một bức tường hay một nơi trú ẩn trong từng cơn giông tố.
Sau cùng, câu chuyện nầy dạy cho chúng ta biết nhu cần phải kiên nhẫn và cầu nguyện. Khi tên đầy tớ trở lại với Êlisê, nỗi sợ hãi đối với kẻ thù đã vây phủ họ, Êlisê đã rất kiên nhẫn và yêu thương. Ông không phản ứng với: “Thôi nào, bộ ngươi không nhìn thấy các đạo binh của Đức Chúa Trời sao? Bây giờ hãy ngước mắt ngươi lên nhìn xem Chúa đi! Hãy tin cậy Ngài”. Thay vì thế, ông đã khích lệ và dạy dỗ anh ta. Ông vốn biết rõ tên đầy tớ đã cần tới sự soi sáng và sự hiểu biết thuộc linh trước khi anh ta có thể đứng vững, chẳng sợ hãi gì trong đức tin.
Ở phần kết thúc, chúng ta hãy nhìn xem các nguyên tắc có quan hệ tới sự tể trị và bảo hộ của Đức Chúa Trời, những lời hứa, và các nguyên tắc của Kinh thánh để chúng ta có thể tin theo và đòi hỏi.
(1) Chúng ta cần phải nhớ tới lẽ thật và nguyên tắc về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, sự tể trị và sự tiếp trợ của các thiên sứ, họ đã hành động trong vai trò phục vụ cho những người có đức tin (xem Thi thiên 91.1-11; Hê-bơ-rơ 1.14; 13.5-6).
(2) Không một nan đề hay nguy hiểm nào chạm đến chúng ta nếu không có sự đồng ý và phê chuẩn thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Vì các mục đích riêng của Ngài, Ngài cho phép đau khổ và khó khăn trổi hơn sự hiểu biết của chúng ta, nhưng điều nầy luôn luôn phù hợp với ý muốn đời đời và khôn ngoan của Ngài.
Như một minh hoạ, chúng ta phải nhớ tới Giô-sép, ông đã bị bán làm nô lệ bởi các anh ruột của ông. Phần nhắc nhở duy nhứt về Đô-than nằm ở trong Sáng thế ký 37.17. Khi đi tìm các anh mình, Giô-sép đã theo họ đến Đô-than, ở đây họ âm mưu nghịch lại ông, bắt nhốt ông, rồi đem bán ông vào vòng nô lệ. Chúng ta phải thắc mắc: “Những xe ngựa lửa hay các đạo binh của Đức Chúa Trời khi ấy ở đâu?” Họ đã có mặt ở đó, nhưng các mục đích của Đức Chúa Trời dành cho Giô-sép lại khác. Có nhiều chứng cớ rõ ràng về bàn tay của Đức Chúa Trời trên đời sống của Giô-sép trải qua mọi sự nối theo sau hơn là đối với Êlisê, tuy nhiên Đức Chúa Trời không hề hiện ra cho Giô-sép và không bao giờ làm ra nhiều phép lạ đặc biệt qua ông. Thay vì thế, Ngài đã để cho ông phải bị bán đi làm nô lệ, một tình trạng vào thời buổi ấy rất là tồi tệ còn hơn cả sự chết nữa. Nhưng Giô-sép đã có con mắt của đức tin và, bất chấp tình trạng của mình, ông vốn biết rõ mình đang ở trong bàn tay của Đức Chúa Trời. Hãy chú ý phản ứng của Giô-sép trong Sáng thế ký 50.19-21 khi sau cùng, nhiều năm về sau, các anh ông đã đứng run sợ ở trước mặt ông.
“Giô-sép đáp rằng: Các anh đừng sợ chi, vì tôi há thay mặt Đức Chúa Trời sao? Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo. Vậy, đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh. Đoạn, Giô-sép an ủi các anh, và lấy lời êm dịu mà nói cùng họ”
Một hình ảnh khác có thể được thấy trong đời sống của Gióp.
Gióp 1.10-12: “Chúa há chẳng dựng hàng rào binh vực ở bốn phía người, nhà người, và mọi vật thuộc về người sao? Chúa đã ban phước cho công việc của tay người và làm cho của cải người thêm nhiều trên đất. Nhưng bây giờ hãy giơ tay Chúa ra, đụng đến hại các vật người có, ắt là người sẽ phỉ báng Chúa trước mặt. Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan rằng: Nầy, các vật người có đều phó trong tay ngươi; nhưng chớ tra tay vào mình nó. Sa-tan bèn lui ra khỏi mặt Đức Giê-hô-va”.
(3) Mặc dầu Gióp là người giàu có, khoẻ mạnh, và dường như an ninh, đời sống ông bị nhiều tai vạ ụp đến. Đây thực sự không phải là một vấn đề của cấp độ nguy hiểm mà một người phải đối diện với. Tại sao vậy? Vì không có sự bảo hộ của Đức Chúa Trời, Satan sẽ áp sát ngay vào đời sống của quí vị và của tôi bất luận chúng ta tưởng mình đang được an ninh đến ngần nào – dầu đang lái xe hoặc cỡi mô tô hay lái máy bay hoặc đi bộ bằng hai chân vững vàng ở trên đất. Chỉ một trận động đất nhỏ thôi sẽ chứng tỏ điều đó.
Thi thiên 68.19-20 là hai câu rất quí báu đối với tôi. Thực vậy, tôi nhớ tới hai câu Kinh thánh nầy mỗi lần tôi leo lên chiếc Honda Interstate, vợ tôi và tôi đã dùng nó đi gần hết miền Tây nước Mỹ.
“Đáng ngợi khen Chúa thay, là Đấng hằng ngày gánh gánh nặng của chúng tôi, tức là Đức Chúa Trời, sự cứu rỗi của chúng tôi. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời giải cứu chúng tôi; Ấy là nhờ Chúa Giê-hô-va mà loài người được tránh khỏi sự chết”.
(4) Tuy nhiên, sự thực nầy không có ý nói chúng ta được tự do thử Chúa bằng cách lạm dụng ân điển của Ngài qua hành động vô ý và dại dột. Chúng ta phải hành động với sẽ dè dặt và cẩn thận trong bất cứ điều chi chúng ta làm. Vì lẽ ấy, tôi sẽ không bước ra trước mặt chiếc xe 18 bánh hay ném mình xuống từ toà nhà cao tầng kia rồi trông mong Đức Chúa Trời đến giải cứu tôi. Khi tôi lái xe, tôi sẽ cài dây an toàn vào, không những vì đấy là luật, mà vì đấy còn là khôn ngoan nữa. Khi lái xe mô tô, tôi sẽ đội nón bảo hộ, quan sát gã kia, rồi tìm cách lái cho an toàn. Chúa chúng ta đã đối mặt với chính sự cám dỗ bởi Ma quỉ.
Mathiơ 4.5-7: “Ma quỉ bèn đem Ngài vào nơi thành thánh, đặt Ngài trên nóc đền thờ, và nói rằng: Nếu ngươi phải là Con Đức Chúa Trời, thì hãy gieo mình xuống đi; vì có lời chép rằng: Chúa sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ ngươi, thì các đấng ấy sẽ nâng ngươi trong tay, kẻo chân ngươi vấp nhằm đá chăng. Đức Chúa Jêsus phán: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi”.
Đức tin tin vào các lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng nó không lạm dụng Chúa bằng cách đòi hỏi những lời hứa của Ngài cũng không thử Chúa bằng cách không dè dặt, phòng xa.
(5) Đức Chúa Trời đã hứa ở cùng chúng ta, ban thiên sứ Ngài gìn giữ chúng ta. Tuy nhiên, bởi ý muốn và chương trình của Đức Chúa Trời và vì các mục đích riêng của Ngài, Ngài có thể cho phép tai vạ và đau khổ như Ngài đã làm với Giô-sép, Gióp, Phierơ và Phaolô. Nhưng dầu thế, kết quả không bao giờ nằm trong cấp độ nguy hiểm, trừ phi chúng ta thử Đức Chúa Trời bằng cách lạm dụng Ngài qua sự hành động vô ý vô tứ. Dầu tới mực ấy, Đức Chúa Trời đã chọn nắm lấy quyền tể trị.
Những gì chúng ta cần là hai con mắt đức tin để nhìn xem và tin theo Đức Chúa Trời đối với các mối nguy hiểm thực mà Satan cùng các đạo binh của hắn sẽ mang lại nghịch cùng đời sống của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng cần hai con mắt của đức tin để tin theo Đức Chúa Trời vì sự hiện diện thực, thiêng liêng, quyền tể trị của Ngài, và chương trình khôn ngoan, và sự tiếp trợ toàn năng của Ngài.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét