Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Lý do để kỷ niệm



Lý do để kỷ niệm
Hêbơrơ 1.1-2a
Một nhà thám hiểm xưa đã băng qua phía Tây ngang Great Plains cho tới chừng ông đến chỗ dốc bên rìa Grand Canyon. Ông trố mắt ngẩn ngơ nhìn bối cảnh ở trước mặt. Một cái vực lớn sâu cả dặm, bề ngang 18 dặm, và dài hơn cả trăm dặm! Ông thì thầm: "Có việc gì đó đã xảy ra ở đây!" Giả sử có ai kia từ một nền văn hoá khác đến với cộng đồng chúng ta vào giữa tháng Chạp xem. Khi người ấy nhìn thấy những ánh đèn, những trang trí, các cuộc diễu hành, tiệc tùng, những siêu thị đầy ắp người ta mua sắm và các nhà thờ với những buổi thờ phượng đặc biệt, không nghi ngờ chi nữa người ấy sẽ nói: "Có việc gì đó đã xảy ra ở đây!"
Tôi vừa lo lại vừa thích mùa lễ Giáng Sinh. Tôi lo về sự bận rộn. Tôi lo có nhiều việc phải làm và phải ở đâu đó mỗi buổi tối. Tôi lo các tuyến đường giao thông sẽ bị nghẹt ngòi quanh siêu thị gần nhà. Tôi lo về hình thức buôn bán trong mùa lễ. Tôi lo về cách thức cũ rích, lặp đi lặp lại về sự ra đời của Cứu Chúa mặc dù chúng ta biết thưởng thức các tin tức quan trọng nhất của lịch sử với các thứ trang trí có ánh đèn chớp trên thảm cỏ. Ồ, tôi không phải là một ông cụ. Tôi thích nét lấp lánh trên đôi mắt của con cái tôi. Tôi thích làm ngạc nhiên cho vợ tôi với món quà thật bất ngờ. Tôi thích trở về nhà gặp gỡ gia đình và bạn bè. Tôi thích những buổi thờ phượng đặc biệt mà chúng ta đang có trong nhà thờ. Tôi thích suy gẫm luôn về tình yêu cao sâu mà Đức Chúa Trời đã dành cho tôi trong việc sai Con của Ngài đến với trần gian.
Thắc mắc của tôi là, trong suốt mùa lễ nầy, có phải chúng ta biết rõ chúng ta đang kỷ niệm cái gì không? Có phải chúng ta đang kỷ niệm vì cớ kỷ niệm hay có một mục đích trong mọi sự nầy? Phần lớn những gì tôi nhìn thấy trong suốt mùa lễ nầy nhắc cho tôi nhớ đến phần quảng cáo Super Bowl. Ngay cả những người không xem một trận đấu bóng đá nào suốt mùa giải cũng tham dự những bữa tiệc Super Bowl. Trận đấu chỉ là một lý do cho bữa tiệc mà thôi. Lễ Giáng Sinh không những là một lý do để dự tiệc, mua sắm cho tới chừng bạn dừng lại hay tăng thêm chỉ số cholesterol. Lễ Giáng Sinh nói tới Đấng Christ. Lễ Giáng Sinh nói tới ơn cứu rỗi. Lễ ấy nói tới ân điển và sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Lễ ấy nói tới cõi đời đời. Lễ ấy nói tới sự tự do ở ngoài tội lỗi, sự chết và địa ngục. Lễ Giáng Sinh nói tới Đấng Christ.
Chắc thật vậy, Lễ Giáng Sinh nói tới người nữ đồng trinh, con trẻ, những chiếc khăn tả lót, máng cỏ, mấy gã chăn chiên cùng các thiên sứ. Nhưng còn hơn là một câu chuyện kể nữa. Có nhiều điều cần phải thuật lại! Tôi nguyện rằng là những tín đồ, chúng ta không bị kéo vào những lễ lộc để phải thất bại không nắm bắt được đầy đủ ý nghĩa của tặng phẩm long trọng nhất của Đức Chúa Trời.
Còn hơn là "Có việc gì đó đã xảy ra ở đây!” nữa. Có phải chúng ta hiểu rõ điều chi đã xảy ra ở đây chăng? Có phải chúng ta dừng chân đứng lại để xem xét đầy đủ phạm trù lý do chúng ta đang tổ chức kỷ niệm chăng? Đây không phải là phân đoạn Kinh Thánh gốc làm mẫu cho sứ điệp Giáng Sinh. Tuy nhiên, có lẽ có nhiều phân đoạn Kinh Thánh khác thuật lại đầy đủ câu chuyện nói tới Chúa Giáng Sinh. Phân đoạn Kinh Thánh nầy không nói tới mấy gã chăn chiên hay chiếc máng cỏ, mà nó cung ứng cho chúng ta một nhận định toàn cảnh mọi điều mà Đức Chúa Trời đã thực thi vào cái đêm đáng nhớ đó tại thành Bêtlêhem. Chúng ta hãy xem xét Đức Chúa Trời đã chuẩn bị thế gian như thế nào cho Chúa Jêsus và cách thức Ngài giới thiệu Chúa Jêsus cho thế gian nhìn biết.
I. Đức Chúa Trời CHUẨN BỊ thế gian cho Chúa Jêsus.
A. Đức Chúa Trời phán.
John MacArthur đã mô tả cuộc sống theo đời nầy giống như đang sống trong một cái hộp vậy. Sâu lắng bên trong, chúng ta nhận biết rằng có điều chi đó ở ngoài chiếc hộp của mình, trổi hơn những gì chúng ta có thể nom thấy, lắng nghe, nếm ngửi hay rờ đụng được. Chúng ta nhận biết có một thế giới siêu nhiên mà chúng ta không thể đạt tới được với ý thức của mình. Tất cả những tôn giáo trên thế gian: Phật giáo, Hồi giáo, Bái hoả giáo, Ấn giáo, Khổng giáo cùng những triết lý Kỷ Nguyên Mới đã tìm cách xé rách cái lỗ của cái hộp kia để chúng ta có thể thoát ra với thế giới siêu nhiên ấy. Cơ đốc giáo thì khác biệt với các tôn giáo nầy trong chỗ nó xưng nhận rằng chính mình Đức Chúa Trời đã bước vào cái hộp rồi sử dụng hình thái xác thịt để nói cho chúng ta biết về sự sống ở bên ngoài cái hộp đó.
MacArthur nói: "Vì chính con người không có khả năng đồng hoá, am hiểu, hay biết trọn được Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời phải xâm nhập vào thế giới của con người để nói cho họ biết về chính mình Ngài".
Câu 1 chép: "Đức Chúa Trời… phán dạy". Đây là một câu nói tóm gọn lại. "Đức Chúa Trời" là chủ từ. "Phán dạy" là động từ. Phần còn lại của câu nói và các mệnh đề cho chúng ta biết về cách thức và thời điểm Đức Chúa Trời phán dạy. Đức Chúa Trời luôn luôn năng động. Ngài luôn luôn làm việc, luôn luôn bày tỏ chính mình Ngài ra. Ngài không hề nhắm mắt ngủ. Ngài luôn phán dạy loài người. Nhiều nhà thần học tin rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn vật và rồi để cho sự sáng tạo của Ngài tự động chạy. Ngược lại, Đức Chúa Trời không dửng dưng, mà còn năng động phán dạy và vận hành qua sự sáng tạo của Ngài. "Đời xưa, Đức Chúa Trời … phán dạy". Đức Chúa Trời đã phán dạy. Ngài đã tự mình phơi bày ra cho chúng ta. Ngài không dựng nên thế gian rồi lìa bỏ nó. Ngài không che giấu bản thân Ngài trong cái bóng kín nhiệm. Ngược lại, Ngài đã tỏ ra sự vinh hiển của Ngài cho loài người. Ngài đã làm thế lần đầu tiên trong sự sáng tạo. Lúc sáng thế Ngài đã phán mặt đối mặt với A-đam và rồi với Ê-va. Sáng thế ký 3.8 chép: "Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi ngang qua vườn…". Sau sự Sa Ngã, Đức Chúa Trời đã phán dạy một số người theo cách riêng. Ngài xử lý trực tiếp với Ca-in và A-bên. Đức Chúa Trời phán dạy theo những giới hạn mật thiết như thế với Hê-nóc trong Sáng thế ký 5.24: "Hê-nóc đồng đi cùng Đức Chúa Trời, rồi mất biệt, bởi vì Đức Chúa Trời tiếp người đi". Trong kỷ nguyên tiền-Nước Lụt đó, Hê-nóc đã sống 365 năm, đồng đi và trò chuyện với Đức Chúa Trời, kế đó Đức Chúa Trời đã cất ông về quê hương trên trời không để cho ông phải chết.
Mặc dù Đức Chúa Trời không phán với cá nhân từng người, sự thương xót và ân điển của Ngài đang vang dội từ sự sáng tạo của Ngài. Rôma 1.20 chép: "bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức là quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài. Cho nên họ không thể chữa mình được". Hêbơrơ 1.1 nói thêm: "Đời xưa, Đức Chúa Trời … phán dạy tổ phụ chúng ta". Ai là "tổ phụ" vậy? Họ là tổ phụ của tất cả người Do thái, các vị tộc trưởng của Israel. Đây là một thư tín gửi cho các tín đồ người Hêbơrơ.
Đức Chúa Trời đã phán dạy Ápraham và kêu gọi ông ra khỏi U-rơ xứ Canh-đê đi đến một đất đượm sữa và mật. Ngài hứa với ông cụ nầy rằng ông cụ sẽ trở thành cha của một dân lớn. Ngài phán với Y-sác, người con được hứa cho. Ngài phán với Gia-cốp rồi đấu vật với ông. Ngài phán với Giô-sép qua các điềm chiêm bao. Ngài phán với Môise qua bụi gai cháy. Cựu Ước đầy dẫy những truyện tích "đời xưa" khi Đức Chúa Trời "phán dạy… các tổ phụ".
B. Đức Chúa Trời phán dạy nhiều lần nhiều cách.
Không những Đức Chúa Trời "phán dạy" thôi, mà Ngài còn phán dạy "nhiều lần nhiều cách" nữa. Đây là cách chơi chữ trong bản văn Hy lạp. Đúng ra câu nầy nói như sau: "trong nhiều dịp khác nhau và trong nhiều phần khác nhau". Nói cách khác, Đức Chúa Trời không luôn luôn phán dạy theo cùng một cách suốt cõi thời gian.
"Nhiều cách" hay "nhiều phần" có thể được dịch chính xác là "nhiều sách". Xuyên suốt 39 sách trong Cựu Ước, chúng ta nhìn thấy Đức Chúa Trời phán dạy, bày tỏ chính mình Ngài ra cho nhân loại. Hãy xem xét một số "cách thức khác nhau" mà Đức Chúa Trời đã phán dạy trong kỷ nguyên ấy. Đức Chúa Trời đã phán dạy qua những điềm chiêm bao cùng các sự hiện thấy. Ngài đã phán dạy qua những hình bóng, các thí dụ, cùng những truyện tích. Ngài phán dạy qua những kiểu cách và biểu tượng. Ngài phán dạy qua các thiên sứ. Ngài phán dạy qua các tiên tri của Ngài. Ngài phán dạy qua Kinh Thánh. Đôi khi Ngài phán trực tiếp với loài người.
"Nhiều lần nhiều cách" cũng đề cập tới nhiều hình thức văn chương. Cựu Ước được dựng nên từ những truyện tích, thi ca, bài hát ngợi khen, luật pháp, lời tiên tri, giáo lý, các tác phẩm về đạo đức và, những câu châm ngôn, những lời nói khích lệ, những lời cảnh cáo, v.v… Tuy nhiên, Đức Chúa Trời luôn luôn phán dạy với loài người.
C. Đức Chúa Trời phán dạy ở nhiều thời điểm khác nhau.
Có nhiều lúc Đức Chúa Trời rất năng động với sự khải thị mới xảy đến suốt cõi thời gian. Hãy suy nghĩ đến cách thức Đức Chúa Trời xử lý với Ápraham hay Môise. Tuy nhiên, ở các thời điểm khác có rất ít sự khải thị. Trong kỷ nguyên của sự bất tuân, Đức Chúa Trời đã giữ im lặng. Thời điểm giữa hai giao ước được gọi là "400 năm im lặng".
D. Đức Chúa Trời phán dạy qua các tiên tri.
Tác giả thơ Hêbơrơ cũng nói cho chúng ta biết phương thức nổi bật trong đó Đức Chúa Trời phán dạy lúc "đời xưa". Trong kỷ nguyên Tân Ước, Đức Chúa Trời chủ yếu phán dạy "bởi các tiên tri". Amốt 3.7 chép: "Cũng vậy, Chúa Giê-hô-va chẳng có làm một việc gì mà Ngài chưa tỏ sự kín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài, là các Đấng tiên tri".
Trong Cựu Ước, có nhiều người nam người nữ đã được đề cập tới là tiên tri. Trong Tân Ước, Cựu Ước được gọi là "luật pháp và các lời tiên tri" (Mathiơ 7.12, et al). Trong Cựu Ước, có "những đại tiên tri" với các quyển sách lớn như Êsai, Giêrêmi và Êxêchiên. Cũng có những "tiểu tiên tri" với những quyển sách tiên tri nhỏ như Amốt, Ôsê và Giôên. Tuy nhiên, ý nghĩa của từ ngữ "tiên tri" không những đề cập tới những người chuyên "nói trước", mà còn nói tới những người "loan báo trước" hay nói ra Lời của Đức Chúa Trời với dân sự. Điều nầy tương tự với ân tứ thuộc linh trong Tân Ước nói tiên tri hay giảng dạy. Vì lẽ đó, từng người nam hay người nữ nào được Đức Chúa Trời cảm thúc, các tác phẩm của họ nằm trong Cựu Ước được coi là "các sách tiên tri", chớ không phải chỉ những người nào mang tước hiệu đặc biệt đó . Vì vậy, phân đoạn Kinh Thánh gốc của chúng ta hôm nay "các tiên tri" đề cập tới toàn bộ kinh Cựu Ước .
Trải qua 1.500 năm sử dụng khoảng 40 trước giả hay "các tiên tri" thuộc nhiều lai lịch, học vấn, xã hội và địa vị khác nhau, Đức Chúa Trời đã "phán dạy" trong các tác phẩm của Cựu Ước. Hạng người nầy đã được Đức Chúa Trời "soi dẫn" để viết. "Soi dẫn" không có ý nói rằng họ có tính sáng tạo, mà có ý nói rằng lời lẽ mà họ viết ra đều do "Đức Chúa Trời hà hơi" (theopneaustia). Đức Chúa Trời sử dụng nhân cách, từ vựng, và kinh nghiệm sống của họ để "hà hơi" vào kinh Cựu Ước.
II Timôthê 3.16 chép: "Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình". II Phierơ 1.20-21 chép: "Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời".
E. Đức Chúa Trời phán dạy bởi sự khải thị tiệm tiến.
Khải thị tiệm tiến là một ý niệm thần học mà chúng ta dễ nắm bắt. Tôi đã học đọc ở trong trường. Tôi không học đọc một lần đủ cả đâu, nhưng mỗi lần một ít. Tôi không khởi sự với Chiến tranh và Hoà Bình của Tolstoy, mà với bảng mẫu tự. Tôi đã học ABC... Sau đó, tôi học cách phát âm các nguyên âm và phụ âm. Tiếp đến, tôi đã học phát âm những từ như "A-a-pple" và "B-b-oy" và "Cc- at". Tiếp đến, tôi bắt đầu đọc nhiều từ ráp thành câu. Có ai nhớ Dick và Jane không? Thế rồi năng khiếu đọc của tôi cứ tiệm tiến phát triển. Tôi đi từ loại sách bằng tranh và một ít từ đến loại sách có nhiều từ mà chẳng có bức tranh nào cả. Từ vựng của tôi càng tăng lên cùng với năng khiếu phát âm. Với từng cấp độ học hỏi, tôi đã thêm vào với những gì tôi đã biết. Tôi học đọc bằng SỰ HIỂU BIẾT TIỆM TIẾN.
Trong kỷ nguyên Cựu Ước, "Đức Chúa Trời… đã phán dạy" qua SỰ KHẢI THỊ TIỆM TIẾN. Đức Chúa Trời không bày tỏ chính mình Ngài ra cách đầy trọn một lần đâu, nhưng mỗi lần một chút. Thí dụ, sách Sáng thế ký cung ứng cho chúng ta một vài lẽ thật về Đức Chúa Trời. Sách Xuất Êdíptô ký kiến thiết trên những gì chúng ta đã học biết trong sách Sáng thế ký. Sách Dân số ký xây dựng trên những gì chúng ta đã học biết ở sách Xuất Êdíptô ký và cứ thế mà tiếp tục. Mỗi sách một cách tiệm tiến tỏ ra cho chúng ta biết "toàn bộ mưu luận của Đức Chúa Trời". Đấy là lý do tại sao chúng ta luôn luôn giải thích Kinh Thánh theo văn mạch. Kinh Thánh không dẫn từ sai đến đúng, mà dẫn từ lẽ thật chưa trọn vẹn đến lẽ thật trọn vẹn.
Kinh Thánh cũng tiệm tiến từ lời hứa đến sự ứng nghiệm. Cựu Ước nói tới lời hứa; Tân Ước nói tới sự ứng nghiệm của những lời hứa đó. Chúa Jêsus đã phán trong Mathiơ 5.17: "Các ngươi đừng tưởng ta đến đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn". Thực vậy, trong nhiều phần, những người viết Cựu Ước không hiểu trọn vẹn những gì họ đang viết ra. I Phierơ 1.10-12 chép: "Về sự cứu rỗi đó, các đấng tiên tri đã tìm tòi suy xét, và đã nói tiên tri về ân điển định sẵn cho anh em; nghĩa là tìm cho biết thời kỳ nào và thời kỳ cách nào mà Thánh Linh Đấng Christ ở trong lòng mình đã chỉ cho, là khi làm chứng trước về sự đau đớn của Đấng Christ và về sự vinh hiển sẽ theo sau. Các đấng ấy đã được tỏ cho rằng chẳng phải vì mình, bèn là vì anh em mà truyền ra những điều đó, là những điều hiện nay đã rao cho anh em, bởi những người nhờ Đức Thánh Linh từ trên trời sai xuống, mà giảng Tin Lành cho anh em; các thiên sứ cũng ước ao xem thấu những sự đó".
Họ đã có, nếu bạn đồng ý, những mẫu tự ABC…và quyển vỡ lòng cấp 1 lẽ thật của Đức Chúa Trời. Trong kỷ nguyên nầy, "trong những ngày sau rốt" chúng ta có đầy trọn sự khải thị của Đức Chúa Trời trong quyển Kinh Thánh trọn bộ của chúng ta. Một tư tưởng sau cùng về điểm nầy: tiêu điểm của mỗi vị tiên tri và từng quyển trong 39 quyển của kinh Cựu Ước là chuẩn bị thế gian cho sự đến của Chúa Jêsus. "Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách" để sửa soạn dân sự của Ngài, để dọn cho họ sẵn sàng tiếp nhận Con của Ngài. Đức Chúa Trời sắp sửa xâm nhập vào thế gian.
II. Đức Chúa Trời GIỚI THIỆU Chúa Jêsus cho thế gian.
Mục sư Dietrich Bonhoeffer, bị Hitler bắt bỏ tù trong suốt Đệ II Thế Chiến, viết cho vợ mình về một bài học đã học từ khi sống ở trong tù: "Một xà lim, ở đó người ta chờ đợi, hy vọng, làm những việc khác nhau chẳng có gì quan trọng, và hoàn toàn nương cậy vào sự kiện cánh cửa tự do phải được mở ra từ bên ngoài không phải là một hình ảnh tồi về sự Chúa Giáng Sinh". Lễ Giáng Sinh, sự giáng trần hay sự đến của Đấng Christ có ý nói Đức Chúa Trời một lần đủ cả đã lung lay mở toang cánh cửa xà lim của chúng ta. Lễ Giáng Sinh thì có nhiều việc hơn là chỉ có con trẻ đang nằm trong máng cỏ được mấy gã chăn chiên chúc tụng vây quanh. Ân ban Con của Đức Chúa Trời có phạm vi rộng lớn đến nỗi giới hạn ơn ấy trong một mùa lễ trong năm hay một bối cảnh chuồng chiên tại thành Bếtlêhem là giới hạn sự hiểu biết của chúng ta. Lễ Giáng Sinh nói tới Đấng Christ. Lễ ấy nói tới sự Đức Chúa Trời giới thiệu cho thế gian biết Con duy nhứt và có một của Ngài là "Chiên Con bị giết từ buổi sáng thế" (Khải huyền 13.8).
A. Đức Chúa Trời cũng phán dạy chúng ta bởi Con của Ngài.
Câu 1 cho chúng ta biết "Đời xưa, Đức Chúa Trời … đã phán dạy". Câu 2 cho chúng ta biết rằng: rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài đã "phán dạy chúng ta bởi Con Ngài". Đức Chúa Trời đã "phán dạy" trong kỷ nguyên đó và Ngài đã "phán dạy" trong kỷ nguyên nầy. Ngài đã phán dạy từ "đời xưa" và đã phán dạy "trong những ngày sau rốt nầy". Ngài đã phán dạy "các tổ phụ" rồi Ngài đã phán dạy "chúng ta". Ngài đã phán dạy "bởi các tiên tri" nhưng giờ đây đã phán dạy "bởi Con của Ngài". Điều quan trọng phải giải quyết trước những điều quan trọng khác. Từ "đời xưa" Đức Chúa Trời đã phán dạy "bởi các tiên tri", còn bây giờ "trong những ngày sau rốt" Đức Chúa Trời đã phán dạy chúng ta "bởi Con của Ngài". Sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con người là bất toàn nếu không có Con của Ngài.
Cựu Ước mà không có Tân Ước sẽ chẳng có bao nhiêu ý nghĩa. Chặng đường sau cùng của khải thị tiệm tiến là khải thị đầy đủ và chúng ta có sự khải thị ấy trong Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Trời cũng từng phán dạy "nhiều lần nhiều cách". Ngài cũng từng phán dạy nhiều cách khác nhau qua những con người khác nhau, nhưng sau cùng Ngài đã phán dạy con người bằng một phương thức và qua một Thân Vị, Con của Ngài, là Đức Chúa Jêsus Christ.
Mọi sự trong Tân Ước đều tựu trung vào Chúa Jêsus. Các sách Tin lành, Mathiơ, Mác, Luca và Giăng đều thuật lại truyện tích của Ngài, các biến cố trong đời sống trên đất của Ngài. Những thư tín bình luận và giải thích đầy đủ hơn những gì chúng ta đã học trong các sách Tin lành. Sách Khải huyền loan báo trước sự việc sau cùng trong mọi sự, ấy là sự vinh hiển của Chúa Jêsus.
Cựu Ước đã được Đức Chúa Trời cung ứng cho con người bằng nhiều mãng khác nhau. Lấy riêng ra từng mãng ấy thì giống như trò chơi ráp hình lộn xộn đặt ở trước mặt bạn vậy. Bạn nhìn thấy màu sắc và từng mẫu nhỏ của bức tranh, nhưng bạn không thể nhìn thấy ngay lập tức làm sao chúng ráp nối được với nhau. Trong Tân Ước, chúng ta thấy Chúa Jêsus cách đầy trọn "là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài!" Chúa Jêsus là bức tranh lớn. Không những Chúa Jêsus đã được ban cho mà còn là sự khải thị đầy đủ của Đức Chúa Trời nữa. Những gì Đức Chúa Trời thì thầm trong sự sáng tạo, những gì Đức Chúa Trời phán dạy trong Cựu Ước, Ngài đang hô lớn tiếng với chúng ta trong Con của Ngài. II Côrinhtô 1.20 chép: "Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là phải trong Ngài cả, ấy cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói "A-men," làm sáng danh Đức Chúa Trời".
Giống như với trò chơi ráp hình, chúng ta từng nhìn thấy bức tranh đã được xếp lại, chúng ta có thể tán thưởng những mẫu nhỏ. Chúng ta từng có sự khải thị đầy trọn trong Tân Ước, chúng ta có thể tán thưởng những mẫu nhỏ trong Cựu Ước.
B. Đức Chúa Trời cũng phán dạy trong những ngày sau rốt.
"Đời xưa" Đức Chúa Trời đã phán dạy, nhưng Ngài cũng đã phán dạy "trong những ngày sau rốt" nữa. "Những ngày sau rốt nầy" có ý nói tới điều gì? Điều nầy đề cập tới thời kỳ của Đấng Mêsi. Những ngày sau rốt đã khởi sự khi Chúa Jêsus giáng sinh tại thành Bếtlêhem và chúng ta vẫn ở trong thời kỳ ấy sau đó 2.000 năm. Đây là thời kỳ sau cùng Đức Chúa Trời phán dạy cho tới khi nào chúng ta nghe thấy tiếng của Ngài một lần nữa trong Kỷ nguyên Vương quốc. Đây là "những ngày sau rốt" của sự tỏ ra. Lẽ thật của Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta một cách trực tiếp từ môi miệng của Con Ngài.
Người đàn bà bên giếng Si-kha vốn hiểu rõ sự nầy. Bà đã nói với Chúa Jêsus: "Tôi biết rằng Đấng Mê-si (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta" (Giăng 4.25). Đấy là chính xác những gì Chúa Jêsus đến để lo làm. Nói chung, tác giả thơ Hêbơrơ đang trình bày: "Mặc dù Đức Chúa Trời đã phán với con người nhiều lần nhiều cách trải qua cõi lịch sử, giờ đây trong những ngày sau rốt, Ngài đã phán dạy chúng ta bởi Con của Ngài là Đấng Mêsi và sứ điệp của Ngài là trọn vẹn".
C. Đức Chúa Trời đã phán dạy để tỏ ra hình bóng của bản thể Ngài trong Đấng Christ.
Tuần tới, chúng ta sẽ lấy ra ở đây phân nửa sau cùng của câu 2 và câu 3 mô tả sự đầy trọn của Chúa Jêsus là: "kẻ kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian; Con là sự chói sáng của sự vinh hiển Đức Chúa Trời và hình bóng của bản thể Ngài, lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật; sau khi Con làm xong sự sạch tội, bèn ngồi bên hữu Đấng tôn nghiêm ở trong nơi rất cao".
Tôi thích cách Joni Eareckson Tada mô tả điều nầy: "Hãy suy nghĩ đi, mỗi lời hứa Đức Chúa Trời đã đưa ra tìm thấy sự ứng nghiệm đầy trọn của nó trong Chúa Jêsus. Đức Chúa Trời không những ban cho chúng ta ân điển; Ngài còn ban Chúa Jêsus cho chúng ta, là Chúa của ân điển. Nếu lời hứa là sự bình an, lời hứa ấy chỉ tìm thấy trong Chúa Jêsus, là Chúa Bình An. Thậm chí chính sự sống cũng được tìm thấy trong sự sống lại và sự sống. Cơ đốc giáo chẳng có gì rắc rối đâu ... đó là Chúa Jêsus".
III. Ba lẽ thật về Giáng Sinh.
A. Giáng Sinh không đơn thuần chỉ là một ngày lễ.
Hầu hết ai nấy đều kỷ niệm Lễ Giáng Sinh, nhưng hầu hết mọi người đều không biết rõ lý do tại sao họ kỷ niệm. Họ ồ ạt ở đây, ở kia; họ mua sắm những món quà mà họ không đủ sức; họ hát những bài ca mà họ không hiểu. Họ xem những cuốn phim nhựa cùng những chương trình đặc biệt không dứt trên vô tuyến truyền hình. Họ bố thí cho những chương trình từ thiện trong tháng Chạp nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào ở trong năm. Họ bám vào ký ức thời thơ ấu của họ. Thậm chí họ có thể đi nhà thờ nữa. Họ tìm kiếm từ một số ý nghĩa nào đó, một cảm xúc nào đó, một mục đích nào đó trong suốt kỳ lễ. Tiếp đến khi qua ngày 26 tháng Chạp rồi, họ trở lại với công việc làm ăn. Một ngày lễ khác đã đến rồi đi và Năm Mới đang xoay vần tới.
Henry Nouwen viết: "Những bài ca, các cảm xúc vui tươi, các nghi thức đẹp đẽ, những món quà xinh xinh, các bữa ăn tối thịnh soạn, và lời chúc không tạo nên Lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh đang nói vâng với một việc còn trổi hơn mọi tình cảm và cảm xúc. Lễ Giáng Sinh đang nói vâng với một nguồn hy vọng dựa theo sự chủ động của Đức Chúa Trời, là điều chẳng có gì phải làm với những gì tôi suy nghĩ hay cảm xúc. Lễ Giáng Sinh là tin ơn cứu rỗi của thế gian là công việc của Đức Chúa Trời chớ không phải của tôi".
Mặc dù tôi không biết chính xác lúc nào Chúa Jêsus giáng trần, Lễ Giáng Sinh là một sự kỷ niệm về "kỳ hạn đã được trọn" khi "Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp, và cho chúng ta được làm con nuôi Ngài" (Galati 4.4-5). Lễ Giáng Sinh là một sự kỷ niệm ơn cứu rỗi!
B. Chúa Jêsus còn hơn là một Con Trẻ nữa.
Một bà mẹ đã viết về việc tham dự một vở kịch Giáng Sinh với mấy người bạn cùng hai đứa con nhỏ của họ, một đứa 4 tuổi và một đứa 6 tuổi. Họ có ấn tượng với sự mê mẫn của hai đứa con trai khi nhìn thấy Con Trẻ Jêsus đang nằm trong máng cỏ. Thực thế, vở kịch trông rất thực và rất thuyết phục. Về sau, lúc trở lại nhà rồi, hai đứa con trai kia mới bắt đầu tranh luận, và sau khi bất chấp những lời cảnh cáo phải thôi đi, mẹ chúng đưa chúng về phòng để cầu xin ơn tha thứ từ Chúa Jêsus cho sự bất tuân của chúng. Khi đứa lớn hiệp cùng chúng tôi, mẹ nó hỏi nó đã cầu xin Chúa Jêsus tha thứ cho nó chưa? Nó đáp: "Dạ chưa, con đã xin Đức Chúa Trời vì Chúa Jêsus còn quá nhỏ chưa thể hiểu được". Câu chuyện đáng yêu làm sao, nhưng đối với những người lớn, Chúa Jêsus của lễ Giáng Sinh còn nhỏ hơn con trẻ đang nằm trong máng cỏ nữa. Chính sự thực Chúa Jêsus là một con trẻ, được Đức Thánh Linh thai dựng trong lòng của một nữ đồng trinh. Sự thực là Đấng Tạo Hoá của vũ trụ đang lớn lên trong sự nô đùa, được bảo hộ, bị hãm ép trên lưng lừa cởi về thành Bếtlêhem. Martin Luther đã mô tả sự hoá thân thành nhục thể của Đấng Christ như sau: "Đức Chúa Trời ở sâu trong loài xác thịt". Chúa Jêsus đã đến trong thế gian với chúng ta để Ngài sẽ đưa chúng ta về thiên đàng với Ngài. Ngài đã trở nên một người trong chúng ta để chúng ta trở nên giống như Ngài. Giăng 1.14 chép: "Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha". Chẳng có gì sai với những ánh đèn, cây cối, quà tặng hay bối cảnh Giáng Sinh. Đừng để mọi sự ấy chỉ là nhận định của bạn về Lễ Giáng Sinh. Hãy nhớ rằng hai bàn tay và hai bàn chân của con trẻ dễ thương ấy về sau đã bị đóng đinh trên thập tự giá xù xì của người La mã. Hãy nhớ rằng cái đầu nhỏ bé dễ muốn hôn kia, một ngày nọ đã đội lấy mão bằng gai. Hãy nhớ rằng một ngọn giáo một ngày kia đã đâm thủng cái hông nhỏ bé nầy. Năm nay, khi bạn nhóm gia đình lại, đừng trao những món quà mà không có lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì ân ban long trọng nhất của Ngài, là ơn cứu rỗi qua Con của Ngài.
C. Lễ Giáng Sinh nói tới việc ban ra sự sáng.
Mục sư James Dobson thuật lại câu chuyện nói tới một bà cụ có tên là Stella Thornhope, một mình bà đang vật vã với Lễ Giáng Sinh đầu tiên của mình. Chồng bà đã qua đời đúng vài tháng trước do một chứng ung thư phát triển chậm. Ngay trước Lễ Giáng Sinh, bà gần như bị phủ tuyết trong một hệ thống thời tiết dày đặt. Một mình bà cảm thấy sợ hãi, vì quá sợ cho nên bà mới quyết định chẳng chưng dọn gì trong dịp Giáng Sinh. Buổi trưa hôm ấy chuông nhà reo vang, và một gã thiếu niên đưa thư đến với một cái hộp. Nó nói: "Có phải bà là Bà Thornhope?" Bà gật đầu. Nó nói: "Bà có thể kỳ tên vào đây chứ?" Bà mời nó bước vào bên trong rồi đóng cửa lại để tránh cái lạnh. Bà ký tên lên tờ giấy rồi nói: "Có cái gì trong hộp vậy?" Gã thiếu niên kia bật cười rồi mở nắp ra, bên trong là một con chó con, một con chó màu vàng Labrador. Gã thiếu niên phát thư nhấc con chó nhỏ ấy lên rồi nói: "Thưa bà, con chó nhỏ nầy tặng cho bà đây. Nó được 6 tuần tuổi rồi". Con chó nhỏ kia bắt đầu vẫy đuôi trong sự vui sướng khi được thả ra khỏi cái hộp nọ. Bà Thornhope hỏi: "Ai gửi con chó nầy vậy?" Gã thiếu niên kia để con vật xuống rồi trao cho bà một lá thư, gã nói: "Mọi sự đã được giải thích trong lá thư nầy, thưa bà. Con chó đã được mua vào cuối tháng 7 khi mẹ nó vẫn còn mang thai. Nó được định là quà Giáng Sinh cho bà đó". Gã thiếu niên khi đó mới trao cho bà một quyển sách: Làm cách nào chăm sóc một chú chó Labrador. Một lần nữa bà hỏi: "Ai gửi cho bà con chó nầy vậy cháu?" Khi gã thiếu niên xây người lại ra về, gã nói: "Thưa, chồng của bà. Chúc mừng Giáng Sinh". Bà mở bức thư ra. Ông đã viết lá thư ấy ba tuần trước khi ông qua đời và để lại nó với người chủ của con chó để được gửi chung với con chó con làm quà Giáng Sinh cuối cùng ông gửi cho bà. Bức thư đầy tình yêu thương và sự khích lệ. Ông thề rằng ông đang trông đợi cái ngày mà bà sẽ hội hiệp với ông. Ông đã gửi cho bà con vật nhỏ nầy để giữ tình bạn với bà cho đến khi ấy. Bà quẹt hai hàng nước mắt, đặt lá thư xuống, và rồi nhớ lại con chó đang quất quít dưới chân, bà nhặt con vật đó lên, rồi ẳm lấy nó. Khi ấy bà nhìn ra khung cửa sổ, thấy ánh đèn lung linh toát ra từ ngôi nhà của người hàng xóm, và bà nghe thấy từ chiếc radio ở trong bếp: "Phước cho nhân loại, Chúa ta ra đời". Đột nhiên, Stella cảm nhận được một ý thức đáng kinh ngạc về sự bình an đang phủ lên bà. Tấm lòng bà cảm thấy vui mừng và kinh ngạc nhiều hơn là buồn bã và cô độc. Bà nói với con chó nhỏ: "Nầy cún ơi, chỉ có ta và con. Nhưng con có biết gì nào? Có một cái hộp đặt trên nền nhà, ta đoán con rất thích. Nó chứa một cây Giáng Sinh nhỏ trong đó và một số phụ liệu dùng để trang trí sẽ gây ấn tượng cho con nhiều lắm đấy. Và có bối cảnh máng cỏ ở đó nữa. Nào chúng ta lo dựng nó lên nhé". Đức Chúa Trời có một phương thức gửi một dấu hiệu sáng sủa để nhắc cho chúng ta nhớ sự sống thì mạnh hơn sự chết. Sự sáng thì có quyền lực hơn sự tối tăm nhiều. Mathiơ 4.16 chép: "Dân ấy ngồi chỗ tối tăm, đã thấy ánh sáng lớn; và trên những kẻ ngồi trong miền và dưới bóng sự chết, thì ánh sáng đã mọc lên".
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét