DAVID & MANASE:
THẮNG HƠN THẤT BẠI
Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã học biết rằng Đức Chúa Trời có nhiều cách để biến chúng ta thành hạng người mà chúng ta phải trở thành. Song, dường như phương pháp mà Ngài vốn ưa thích là phải qua sự đối kháng. Càng đối kháng chừng nào, thì sự tấn tới càng cao hơn. Những gì chúng ta nhìn thấy là ngăn trở cho sự thành tựu, Đức Chúa Trời nhìn thấy là cơ hội cho sự lớn lên. Thất vọng, mất mát, chỉ trích phê bình, thất bại, sỉ nhục, thử thách, ngã lòng, cô độc, và xuống tinh thần trở thành những phương tiện bởi đó chúng ta lớn lên mạnh mẽ nếu chúng ta được “đào tạo” bởi các sức mạnh nầy, như tác giả thơ Hêbơrơ đã nói (Hêbơrơ 12.11).
Quyển sách nhỏ nầy chủ yếu nói về sự thắng hơn thất bại. Chúng ta sẽ xem xét hai nhân vật trong Cựu Ước, David và Manase, họ đã thất bại rất đáng thương, và nhìn thấy thể nào Đức Chúa Trời đã sử dụng sự thất bại của họ để khiến cho họ được mạnh mẽ. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng Đức Chúa Trời chẳng bỏ một điều gì trong đời sống của chúng ta – thậm chí cả tội lỗi nữa.
David Roper
MANASE:
Thắng hơn sự khởi đầu tồi tệ.
Lúc bấy giờ là ngày đầu năm của năm 1929. Trường Đại Học California tại Berkeley đang thi đấu với trường Kỹ thuật Georgia ở Rose Bowl. Roy Riegels, cầu thủ hậu vệ của Cali chơi lùi ở phía sau nhìn thấy một cầu thủ của đội bạn chạy ngang sân, quay trở lại, rồi chạy thẳng 60 m theo một hướng không đúng – thẳng vào lằn goal của đội Cali. Một trong những cầu thủ đã cản chân Riegels ngay trước khi anh ta ghi điểm cho trường kỹ thuật Gerogia. Ở hiệp kế đó, trường kỹ thuật Georgia khóa được cú đá cầu vồng và ghi điểm.
Từ ngày đó trở đi, Riegels bị liệt vào danh hiệu “Riegels chuyển hướng trật lất”. Trong nhiều năm sau đó, bất cứ lúc nào người ta nói tới anh, họ sẽ hô vang: “Ồ, tôi biết anh ta là ai rồi. Anh là gã chuyển hướng trật lất ở Rose Bowl”.
Có thể sự thất bại của chúng ta không đến nỗi đáng chú ý như thất bại của Riegels, nhưng chúng ta có những lộ trình quá chằng chịt và những chuyển hướng sai lầm. Và chúng ta có những ký ức kèm theo đó – những điều phát sinh dấy lên để chế nhạo và ám ảnh chúng ta vào lúc 3 giờ sáng. Vì thế có nhiều điều trong quá khứ mà chúng ta chẳng muốn thực hiện hay làm lại – có nhiều điều chúng ta mong được quên phứt đi cho xong. Nếu chúng ta chịu bắt đầu lại.
Louis Fletcher Tarkington đã viết cho hết thảy chúng ta khi bà đăm chiêu:
Tôi ước rằng có một chốn diệu kỳ nào đó được gọi là vùng Đất Bắt Đầu Lại, ở đó mọi sai trái, mọi chứng đau đầu, mọi nổi buồn ích kỷ nghèo nàn của chúng ta có thể rơi rụng xuống giống như một chiếc áo choàng cũ kỹ treo nơi cửa, và không bao giờ được mặc lại.
Có một chốn như thế đấy! Có thể tìm gặp nơi ấy trong ân điển của Đức Chúa Trời – một thứ ơn không những tha thứ hoàn toàn quá khứ của chúng ta và nó bị gạt bỏ đi, mà còn sử dụng nó để khiến cho chúng ta ra tốt hơn trước đó. Augustine viết: “Ngay cả từ trong tội lỗi, Đức Chúa Trời đã rút ra được điều tốt lành”.
MANASE: CƠ NGHIỆP TIN KÍNH
Manase là con trai của Êxêchia, một trong vài vì vua xứ Giuđa “đã làm điều thiện trước mặt Đức Giêhôva” (II Các Vua 18.3). Nhà chép sử của Israel cho chúng ta biết: “Người phá hủy các nơi cao, đập bể những trụ thờ, đánh hạ các A-sê-ra, và bẻ gãy con rắn đồng mà Môi-se đã làm; bởi vì cho đến khi ấy dân Y-sơ-ra-ên xông hương cho nó người ta gọi hình rắn ấy là Nê-hu-tan. Ê-xê-chia nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; nên trong các vua sau người, hoặc trong những vua trước người, chẳng có một ai giống như người. Người tríu mến Đức Giê-hô-va, không xây bỏ Ngài, song gìn giữ các điều răn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se”.
Êxêchia vốn chịu trách nhiệm về một cơn phấn hưng thuộc linh trong lịch sử đã làm cho xứ Giuđa thấy mình được trẻ lại. Ông đã vứt bỏ mọi hình tượng của cha mình là Acha, đã thờ lạy, và ông đã giải phóng dân sự mình ra khỏi tình trạng bội đạo. Ông đã góp công rất lớn trong công tác cải cách qua những chức vụ tiên tri của Êsai và Michê.
Con trai của Êxêchia là Manase đã lên ngôi khi ông mới 12 tuổi và đã trị vì trong 10 năm như đồng nhiếp chính với cha mình. Khi ông được 22 tuổi, cha ông qua đời và nhà vua trẻ tuổi đã nắm lấy quyền kiểm soát chính phủ. Ông đã trị vì 55 năm – từ năm 697 cho đến 642TC – sự trị vì lâu dài nhất trong lịch sử của cả Giuđa và Israel.
Manase đã được phước với một người cha tin kính. Ông đã sống qua một thời kỳ đầy sức sống và thịnh vượng. Ông đã được các tiên tri Êsai và Michê dạy dỗ. Và ông đã nhìn thấy Chúa giải phóng Israel cách lạ lùng trong khi bị quân Asiri bao vây (II Các Vua 19.35). Tuy nhiên, ông đã không noi theo các dấu chơn của cha ông.
THẤT BẠI TRONG CHỨC NĂNG LÃNH ĐẠO CỦA MANASE
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Manase “làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va và theo sự thờ phượng gớm ghiếc của các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên” (II Các Vua 21.2).
“Các dân tộc” mà tác giả đề cập tới đều là dân Canaan hủ bại, đội lốt giả vờ. Manase đã vượt hơn họ trong cơn mê loạn điên cuồng phá vở từng luật lệ – một sự dại dột đã được chỉ ra qua những câu sau đây: “Người sửa xây lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người phá hủy, lập bàn thờ cho Ba-anh, dựng hình tượng A-sê-ra giống như của A-háp, vua Y-sơ-ra-ên, đã làm, cúng thờ toàn cơ binh trên trời và hầu việc nó. Người cũng lập bàn thờ trong đền của Đức Giê-hô-va, mà Đức Giê-hô-va có phán về đền thờ rằng: Ấy tại nơi Giê-ru-sa-lem ta để danh ta ngự. Người xây những bàn thờ cho toàn cơ binh trên trời, tại nơi hai hành lang về đền thờ của Đức Giê-hô-va. Người đưa con trai mình qua lửa, tập tành phép thiên văn và việc bói điềm; lập lên những đồng cốt và thầy bói. Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va quá chừng, chọc giận Ngài hoài. Còn hình tượng A-sê-ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ mà Đức Giê-hô-va có phán với Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng: Ấy trong đền này và trong Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi phái Y-sơ-ra-ên, mà ta sẽ đặt danh ta ngự đời đời … Nhưng chúng nó không nghe; chúng nó bị Ma-na-se quyến dụ làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên” (II Các Vua 21.3-7, 9).
Các tội lỗi của Manase đã được kể ra ở đây theo một trình tự lầm lạc càng lên cao dần. Trước tiên, ông ta “sửa xây lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người phá hủy”. Acha, là ông nội của Manase, đã dựng lên “các nơi cao” – các lùm cây trên đỉnh những ngọn núi mà người ta thờ lạy thần Asêra. Êxêchia đã đánh hạ chúng (II Các Vua 18.4). Manase dựng chúng trở lại.
Kế đó, Manase “lập bàn thờ cho Ba-anh”, tà thần chính của người Canaan, rồi dựng hình tượng Asêra giống như Aháp và Giêsabên, bộ đôi gian ác của Israel, đã làm (I Các Vua 16.33). Tượng Asêra là ảnh tượng của một nữ thần, vợ của thần Baanh, tiêu biểu cho nữ thần tình dục và sanh sản của người Canaan. Mấy cây cột được dựng lên tôn vinh nữ thần nầy rõ ràng là một loại hình tiêu biểu cho hình tượng dương vật.
Manase đã thờ lạy toàn cơ binh trên trời và hầu việc chúng. Ông ta đã thực hành phép thiên văn và bói điềm, dâng sự tôn kính của mình cho mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, cùng những ngôi sao (cũng xem Giêrêmi 8.2; 19.13). Ông ta đã dựng lên nhiều bàn thờ cho các tà thần trong đền thờ tại thành Jerusalem, là nơi Đức Chúa Trời có phán: “Ta sẽ đặt danh ta”.
Ông ta đã đưa các con trai mình qua lửa – trẻ sơ sinh làm của tế lễ. Theo nhà chép sử, “người đưa con cái mình qua lửa, tại trong trũng con Hi-nôm”. Và “người xem bói; ếm chú, dùng pháp thuật, ham theo những kẻ cầu vong và thầy phù thủy” (II Sử ký 33.6). Bản Kinh Thánh Hêbơrơ cho rằng ông ta đã cầu hỏi họ rất nhiều, ông ta đã “bổ nhiệm” họ. Nói cách khác, ông ta đã dành cho họ những bổ nhiệm trong triều đình và đặt họ trong văn phòng làm việc của ông ta.
Nếu điều nầy vẫn chưa đủ, vị vua trụy lạc nầy khi ấy lấy “hình tượng A-sê-ra mà người đã làm, thì người dựng trong đền thờ”. Ông ta đã lấy những hình thái khiêu dâm trước đây, những thứ bẩn thỉu và tục tỉu, rồi đem dựng lên tại Nơi Chí Thánh trong đền thờ của Chúa.
Chẳng còn một chỗ nào sáng sủa dành cho sự thờ lạy Đức Giêhôva. Manase đã chọn các tà thần của mình từ những nền văn hóa ở chung quanh Israel – từ dân Amôrít, dân Canaan, dân Philitin, dân Phênixi – nhưng chẳng có một tham khảo nào về Đức Chúa Trời là Đấng đã tỏ chính mình Ngài ra cho dân Israel.
Nhà chép sử kết thúc: “Ma-na-se quyến dụ [Israel] làm gian ác hơn các dân tộc mà Đức Giê-hô-va đã tuyệt diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên”.
Hãy hiểu rõ những gì đã được ghi ra ở đây: một mình Manase gánh lấy trách nhiệm làm cho cả dân tộc đi xuống. Đúng là một di sản đã để lại sau lưng.
Bấy nhiêu vẫn chưa phải là hết đâu! Có một ghi chú còn kinh khủng hơn với mọi hàm ý của nó:
“Ma-na-se cũng đổ nhiều huyết vô tội ra, đến đỗi Giê-ru-sa-lem bị ngập từ đầu này đến đầu kia. Lại phụ thêm những tội lỗi người phạm gây cho Giu-đa phạm tội nữa, và làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va” (II Các Vua 21.16).
Manase đã làm cho các vị tiên tri phải câm nín đến giận dữ kinh hoàng. Josephus, sử gia Do thái, ghi lại rằng Manase “đã giết tất cả những người công bình nào hiện hữu giữa vòng dân Hêbơrơ, ông ta cũng không tha các vị tiên tri, mỗi ngày ông ta giết một số người trong họ cho tới khi huyết tràn ngập thành Jerusalem”.
Có một truyền khẩu lâu đời được ghi lại trong kinh Tamud, rằng Manase nhét vị thầy già nua của mình là Êsai vào một khúc gỗ rồi cưa nó ra làm hai. Chắc chắn đây là lai lịch của câu nói trong sách Hêbơrơ chép lại ít nhất một trong các anh hùng của Đức Chúa Trời đã bị “cưa xẻ” (Hêbơrơ 11.37).
PHẦN CÒN LẠI CỦA CÂU CHUYỆN
“Các chuyện khác của Ma-na-se, những công việc người, và tội người đã phạm, đều chép trong sử ký về các vua Giu-đa. Ma-na-se an giấc với tổ phụ người, được chôn trong vườn của đền người, tức trong vườn U-xa, A-môn, con trai người, cai trị thế cho người” (II Các Vua 21.17-18).
Đây là một việc rất kỳ quặc. Manase đã miệt thị Đức Chúa Trời trong 55 năm, đem thân mình xã láng trong từng thứ tư dục, sống đồi bại và làm suy sụp cả một dân tộc, và Đức Chúa Trời ngồi ở trên bàn tay của ông ta.
Có thực như thế không?
Thường thì chúng ta nhìn xem Đức Chúa Trời ở một mặt mà thôi – sự nhịn nhục lâu dài của Ngài: “Dầu vậy, Đức Giê-hô-va còn chờ đợi để làm ơn cho các ngươi” (Êsai 30.18). Nhưng còn có một mặt khác nữa: “công việc xét đoán lạ lùng” của Ngài.
Toàn bộ câu chuyện không được thuật hết trong sách Các Vua đâu. Mục đích của I & II Các Vua là lần theo sự sa bại của Israel và Giuđa đến cuộc phu tù Babylôn rồi cung ứng lý do cho cuộc phu tù đó. Các câu chuyện nhất thiết đã được tóm gọn lại. Tác giả chỉ neo vào các sự kiện góp phần vào đề tài của mình. Câu chuyện nói tới sự trị vì của Manase đã được tiếp tục và bổ sung thêm ở II Sử ký 33. Mục đích của nhà chép sử thì có khác. Chủ đề của ông là sự hồi phục ngai vàng của David. Vì mục đích nầy, tác giả đã chọn những sự kiện góp phần vào chủ đề đó và gồm những sự kiện đã bị bỏ sót trong sách Các Vua.
Chín câu đầu tiên của II Sử ký 33 cơ bản là phần sao lại II Các Vua 21.1-9 với một số thay đổi nhỏ. Thế rồi câu chuyện nổi bật lên:
“Đức Giê-hô-va phán bảo Ma-na-se và dân sự người; song chúng không chủ ý đến” (II Sử ký 33.10).
Sự phán xét của Đức Chúa Trời không rơi theo triền dốc. Không hề như vậy. Nhà thần học John Piper phát biểu như sau: “Cơn giận (của Đức Chúa Trời) đã được tuôn ra rất cứng rắn, nhưng ơn thương xót của Ngài còn nhanh hơn”. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta nhiều đến nỗi Ngài cứ để chúng ta đi. Ngài theo đuổi chúng ta – thậm chí trong tội lỗi của chúng ta – rồi nài nĩ chúng ta quay trở lại.
Một câu phương ngôn của người Thỗ Nhĩ Kỳ nói rằng Đức Chúa Trời có “đôi chân bằng len và hai bàn tay bằng thép”. Chúng ta không hay Ngài đến, nhưng khi Ngài tra tay Ngài trên chúng ta, chúng ta không thể luồn lách đi đâu được nữa. Phần b của lời hứa: “ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu” (Giôsuê 1.5) là lời thề Ngài sẽ không để chúng ta lại một mình. Ngài sẽ đuổi theo chúng ta, quấy rối chúng ta, làm cho chúng ta áy náy, khiến chúng ta phải khó chịu, và cật vấn chúng ta cho tới chừng chúng ta phải chịu thua.
Đức Chúa Trời có nhiều cách để giải cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi: có khi bằng một sự lôi kéo mà chúng ta cảm nhận được trong linh hồn của chúng ta; có khi bằng một lời nói do người bạn buông ra; có khi bằng một việc rắc rối nào đó; hay có khi bằng một quyển sách, một bài giảng, một cơ hội nhóm lại. Trong các phương thức nầy, Đức Chúa Trời đang nài nĩ chúng ta quay trở lại với Ngài.
Tôi nhớ một sinh viên mà tôi đã gặp ở trường Đại học Stanford cách đây nhiều năm. Anh ta ngồi trên băng ghế trước nhà thờ Memorial đang đọc tờ Stanford Daily. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ta, rồi chúng tôi bắt đầu trao đổi. Cuộc trao đổi tiếp tục rất mỹ mãn cho tới chừng nó đổi sang đề tài mối quan hệ của anh ta với Đức Chúa Trời.
Anh ta dậm chơn mình với một lời rủa sả rồi bỏ đi. Thế rồi anh ta dừng chơn và xây lại, anh ta nói: “Xin tha thứ cho tôi. Tôi đã lớn lên trong một gia đình Cơ đốc. Bố mẹ tôi là giáo sĩ của hệ phái Trưỡng Lão ở Đài Bắc, nhưng tôi thì sống xa cách Đức Chúa Trời trọn đời sống mình. Tuy nhiên, bất cứ đâu tôi đi đến cũng có người đến nói với tôi về Đức Chúa Trời”.
Hơn bất cứ điều chi khác, Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải nhượng bộ trước tình yêu thương của Ngài. George McDonald nói: “Tình yêu thương vây quanh chúng ta, tìm kiếm chổ rạn nứt nhỏ nhất để nó chui vào đó”. Đức Chúa Trời chờ đợi không hề mỏi mệt và yêu thương không ngừng nghỉ. Nhưng nếu chúng ta không có Ngài, Ngài sẽ để cho chúng ta đi đường mình rồi để cho chúng ta gặt lấy mọi hậu quả của sự chúng ta kháng cự. Nhưng dẫu vậy vẫn là điều ích cho chúng ta. Đấy là sự phán xét có tính cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời biết rõ khi cơn gió lạnh thổi qua, nó sẽ làm cho cái đầu của chúng ta xây lại.
“Vì cớ ấy, Đức Giê-hô-va khiến các quan tướng đạo binh của vua A-si-ri đến hãm đánh chúng; các quan ấy bắt đóng cùm Ma-na-se, xiềng người lại, rồi dẫn về Ba-by-lôn. Khi người bị hoạn nạn, bèn cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người” (II Sử ký 33.11-12).
Vua Asiri được nhắc tới ở đây có lẽ là Esarhaddon, con trai của Sennachaerib. Esarhaddon xỏ một chiếc vòng vào mũi của Manase, đóng cùm người cả hai tay hai chân, và đưa người sang Babylôn, trong 12 năm ở đó người tiều tụy trong ngục tù. Chiếc vòng đeo nơi mũi là cách sĩ nhục của người Asiri đối với các vì vua bị bắt phục, một thông lệ rõ ràng đã minh họa công cụ do người Asiri làm ra. Đúng là một sự sĩ nhục hoàn toàn! Đúng là một sự thất bại kinh khủng! Nhưng hết thảy mọi sự ấy đã đem Manase về quê hương cùng với Đức Chúa Trời.
CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ
Sự hồi phục bắt đầu với sự xấu hổ. MacDonald viết: “Biết xấu hổ là một việc phước hạnh và thánh khiết. Xấu hổ là xấu hổ chỉ cho người nào muốn tỏ mình ra, chớ không phải cho người nào muốn bị xấu hổ. Xấu hổ là xấu hổ chỉ cho người nào muốn vượt qua sự thử nghiệm, chớ không phải cho người nào giấu vào lòng những việc … Biết xấu hổ cách khiêm nhường là lao mình vào, dùng lẽ thật mà tắm rửa”. Hạ mình xuống và ăn năn là hai chìa khóa mở cửa lòng của Đức Chúa Trời. Đó là hai chìa khóa mà Manase đã sử dụng:
“Khi người bị hoạn nạn, bèn cầu khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của tổ phụ người” (II Sử ký 33.12).
Josephus nói rằng Manase đã “tự xem mình là nguyên nhân của mọi sự”. Ông ta đã chấp nhận hết mọi trách nhiệm về những việc mà ông ta đã làm – không chối bỏ, không miễn thứ, không xưng công bình, không đổ thừa, không van nài chi hết. Khi ấy Manase “đã hạ mình xuống lắm”.
Khuynh hướng của chúng ta là hay đưa ra những lời cáo lỗi cho bản thân mình, chúng đến từ suy nghĩ Đức Chúa Trời sẽ chẳng hề đem chúng ta trở lại trừ phi chúng ta thu nhỏ hay lý lẽ việc làm sai trái của chúng ta. Nhưng, như C. S. Lewis lưu ý: “Sự tha thứ thực có ý nói hãy nhìn thẳng vào tội lỗi, là thứ tội lỗi còn đó mà chẳng có một lời cáo lỗi nào hết, sau khi mọi sự công nhận đã được lập ra, và nhìn xem nó với sự kinh khủng, bẩn thỉu, bĩ ỗi, và hiểm độc, rồi làm hòa trọn vẹn với ai đó đã làm ra nó. Như thế, và chỉ như thế, mới là sự tha thứ; và chúng ta có thể luôn luôn có sự tha thứ từ Đức Chúa Trời”.
Manase không bị quên lãng đâu! Mặc dù sự gian ác ghê gớm lắm, Chúa vẫn là Đức Chúa Trời của Manase. Mặc dù cơn giận đã quét qua gương mặt của Đức Chúa Trời, Ngài không hề xây ánh mắt của Ngài đi.
TÌNH YÊU BẤT DIỆT
Trong quyển Cabin của Bác Tom (Uncle Tom’s Cabin) do Harriet Beecher viết, Tom than phiền: “Tôi thật là độc ác – độc ác lắm. Tôi chẳng thể làm chi được hết”. Tội lỗi là bản chất của chúng ta. Đấy là cách mà chúng ta buông mình trong cuộc sống – và chúng ta chẳng thể làm sao khác được nữa. Tuy nhiên, những thất bại cứ lặp đi lặp lại của chúng ta không làm thay đổi tâm tình của Đức Chúa Trời đối cùng chúng ta. Nếu bản chất của chúng ta là hay phạm tội, thì cứu rỗi chính là thuộc tánh của Ngài. Thiếu sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ không hề tồn tại với tội lỗi của chúng ta. Nó chỉ làm cho chúng ta phải khiếp sợ và đưa chúng ta xa khỏi Đức Chúa Trời mà thôi.
Chúng ta có những cái cớ cho sự kinh khiếp đó nếu Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta ngay từ sáng thế vì chúng ta đẹp đẽ như thế. Nhưng từ khi sự tán thưởng nguyên thủy của chúng ta không nương vào điều gì nơi chúng ta, thì sự tán thưởng đó không thể nương vào bất cứ điều chi nơi chúng ta trong lúc bây giờ. Không một điều gì nơi chúng ta xứng đáng với sự ưu ái của Ngài trước khi chúng ta trở lại đạo; không một điều gì nơi chúng ta xứng đáng với sự liên tục của việc trở lại đạo đó.
Đức Chúa Trời cứu chúng ta vì Ngài quyết định làm như thế. Ngài dựng nên chúng ta cho chính mình Ngài, và không có mối tương giao đó những cơn đau lòng của Ngài cứ dìm mãi trong sự cô độc. Đấy là lý do tại sao Đấng Christ đã chịu thương khó vì chúng ta – “Đấng công bình thay cho kẻ không công bình, để dẫn chúng ta đến cùng Đức Chúa Trời” (I Phierơ 3.18). Ngài không hề nhượng bộ. Ngài yêu chúng ta nhiều đến nỗi không nhượng bộ. “Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết …” (Philíp 1.6).
Chúng ta phải chấp nhận ơn tha thứ rời rộng và đầy trọn của Đức Chúa Trời, rồi khi ấy hãy tự quên đi. Vì chúng ta là hạng tội nhân là sự thực không thể chối bỏ được. Chúng ta là hạng tội nhân được tha thứ cũng là sự thực không thể chối bỏ được. Chúng ta đừng nương dựa vào tình trạng tội lỗi của mình nữa. Tấm lòng của Đức Chúa Trời đang rộng mở cho chúng ta. Chúng ta phải tiếp lấy ơn tha thứ mà chúng ta đang có cần rồi cứ tiếp tục với cuộc sống.
KẾT THÚC MỸ MÃN
Còn nữa. Không những Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi chúng ta, Ngài còn sử dụng nó để khiến cho chúng ta ra tốt hơn trước đó. Hãy xem Manase kìa. Ông đã được tha ra khỏi ngục tù sau 12 năm và được phục hồi lại ngôi vị của mình. Khi ấy ông mới sắp đặt lo củng cố quốc phòng:
“Ma-na-se cầu nguyện cùng Ngài; Ngài nhậm lời người, dủ nghe lời nài xin của người, dẫn người về Giê-ru-sa-lem trong nước người; khi ấy Ma-na-se nhìn biết Giê-hô-va là Đức Chúa Trời. Sau việc ấy, người xây vách ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn trong trũng, đến lối vào cửa cá, và chung quanh Ô-phên, xây nó rất cao rồi người đặt những quan tướng trong các thành bền vững xứ Giu-đa. Người cất khỏi đền Đức Giê-hô-va những thần ngoại bang, hình tượng, và bàn thờ mà người đã xây trên núi của đền Đức Giê-hô-va và tại Giê-ru-sa-lem, rồi quăng nó ra ngoài thành. Đoạn, người sửa sang bàn thờ của Đức Giê-hô-va, dâng của lễ bình an và của lễ thù ân tại đó; người truyền dạy dân Giu-đa phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (II Sử ký 33.13-16).
Manase đã hủy diệt các tà thần và dời hết hình tượng ghê khiếp mà ông đã đặt trên nhà của Đức Giêhôva. Ông thù ghét các hình tượng với một tinh thần y như ông đã ưu ái chúng trước đây.
Ông tu sửa lại bàn thờ của Đức Giêhôva mà ông đã đánh hạ. Ông dâng của lễ trên đó, những của lễ thù ân và của lễ cảm tạ để ngợi khen Đức Chúa Trời vì ơn chửng cứu của Ngài. Giờ đây ông sử dụng quyền lực của mình để chỉnh đốn dân sự thay vì làm cho họ phải đồi bại.
Đây là những gì Giăng Báptít đã mô tả là: “kết quả xứng đáng với sự ăn năn” (Mathiơ 3.8). Sự ăn năn thật gắn liền với một sự thay đổi trong tầm nhìn và thái độ của chúng ta. Ăn năn thật không phải chỉ là buồn rầu đối với tội lỗi thôi đâu. Đây là sự đảo lộn suy tưởng của chúng ta. Tự nó sẽ tỏ ra trong một nổ lực quả quyết tự củng cố mình trong những lãnh vực chúng ta yếu đuối và trong chỗ chúng ta từng sa ngã trước đây. Sẽ có một quyết định mạnh mẽ tự canh giữ mình đối với tội lỗi.
Sự ăn năn thật còn có ý nói sống cách xa người nào, dù nam hay nữ, một khi họ có ảnh hưởng gây đồi bại cho chúng ta. Ăn năn thật có ý nói hãy ở ngoài những tình huống chúng ta có khuynh hướng vấp ngã trong đó.
Sự ăn năn thật gắn liền với một sự thay đổi trong tầm nhìn và thái độ của chúng ta. Ăn năn thật không phải chỉ là buồn rầu đối với tội lỗi thôi đâu. Đây là sự đảo lộn suy tưởng của chúng ta.
Ăn năn thật có ý nói phải cách xa những ảnh hưởng gây đồi bại trong phim ảnh, sách báo, tạp chí, và không gian ảo nữa. Ăn năn thật có ý nói phải tìm kiếm ai đó buộc chúng ta phải giải trình khi chúng ta đi đây đi đó, là người khiến cho chúng ta sống thành thực khi chúng ta rời khỏi nhà. Dù ăn năn có ý nói gì đi nữa, tình trạng lạc sai của chúng ta sẽ khiến chúng ta mạnh mẽ hơn và ra tốt hơn trước đây. Thậm chí từ tội lỗi của chúng ta, Đức Chúa Trời có thể rút ra điều tốt lành.
Đức Chúa Trời đã ban cho Manase 20 năm để trị vì. Ông đã tiếp lấy một khởi đầu tươi mới và tốt đẹp hơn, và ông đã làm tối đa cho sự khởi đầu ấy. Ông đã trở thành một trong những vị vua xuất sắc nhất của Giuđa, và trong 22 năm là một tấm gương vinh hiển cho Israel về ân điển của Đức Chúa Trời không thể tưởng tượng nổi. Đức Chúa Trời cũng làm như thế cho bạn đấy!
ĐIỀU CHI HIỆN CÓ TRONG MỘT CÁI TÊN?
Tên của Manase được rút ra từ một động từ Hy bá lai có nghĩa là “quên”. Đấy là chữ mà Đức Chúa Trời đã viết cho quá khứ của Manase và của chúng ta – đã quên. “Ta sẽ tha sự gian ác [ngươi], và chẳng nhớ tội [ngươi] nữa” (Giêrêmi 32.34). Oswald Chambers nói: “Đức Chúa Trời quên phứt tội lỗi của chúng ta”. Jeffrey Dahmer bật nhớ đến tỉ lệ tội lỗi không thể tha thứ cần phải xem xét. Dahmer xưng nhận đã giết 17 người, chặt chân tay một số người, làm tình với các thi hài, và ăn một số chi thể trong thân thể của họ.
Việc trình chiếu bối cảnh tội ác đó khiến cho Dahmer trở thành một biểu tượng gian ác của xứ sở. Sau cái chết đẩm máu của hắn tại Trung Tâm Cải huấn Columbia ở Wisconsin, ai nấy đều tin rằng hắn sẽ đi thẳng đến địa ngục. Một biên tập viên đã thốt ra lời nài xin khẩn thiết với quyền lực tối tăm: “Xin vui lòng nhận lấy Jeffrey Dahmer”.
Nhưng sự thể không diễn ra như vậy, Dahmer đã bắt đầu tham dự các lớp nghiên cứu Kinh Thánh ở trong tù. Kết quả, ông đã tuyên xưng đức tin công khai nơi Đức Chúa Jêsus Christ và đã chịu phép báptêm. Ông đã tìm được ơn tha thứ và sự bình an. Ông bình tỉnh trước số phận của mình, thậm chí sau khi một bạn tù đã rạch cổ họng của ông trong một buổi thờ phượng. Nếu ông sống thành thực, và sự thể cho thấy ông đã sống thành thực, chúng ta sẽ gặp ông một ngày kia trên thiên đàng.
Kỳ quặc làm sao, có phải không? Song đấy chính là ân điển của Đức Chúa Trời.
TÁI BÚT
Trong suốt nửa sau hiệp một của trận đấu Rose Bowl vào năm 1929, Riegels đã trốn vào một góc phòng của UCLA với cái khăn quấn quanh đầu mình. Huấn luyện viên của anh, Nibbs Price, chẳng nói gì với anh và nói rất ít với cả đội.
Ba phút trước khi hiệp nhì, ông đã bình tỉnh nói: “Cả đội đã khởi sự hiệp một sẽ khởi sự với hiệp thứ nhì”. Riegels la lên: “Huấn luyện viên ơi, tôi không thể. Tôi đã làm nhục cho cả đội, cả trường và bản thân tôi. Tôi không thể thi đấu được nữa”. Price hô lớn: “Hãy trở lại với trận đấu. Đấy chỉ là nửa hiệp thôi mà”.
Đúng là một huấn luyện viên! Đúng là một Đức Chúa Trời!
DAVID:THẮNG HƠN
NHỮNG LỜI TỰ BIỆN HỘ DỐI TRÁ
Khi thất bại và thành công trở thành vấn đề, một sự cố trong đời sống của David thoạt đến trong lý trí. Nó diễn ra trong thời kỳ khi ông và Saulơ đang chơi trò chơi trốn tìm. Saulơ, đang truy đuổi David và đồng đội của ông trong đồng vắng xứ Giuđê, nhất quyết đánh hạ ông cho bằng được.
Saulơ vốn quen thuộc với những nơi David thường lui tới và các chỗ David ẩn náu. David có thể bỏ chạy, nhưng ông biết ông không thể trốn tránh được nữa. Ông yếu sức và kiệt lực. Dường như mọi rối rắm của ông không có tận cùng.
Những bài hát được gắn cho thời kỳ nầy trong đời sống của David đều là những bài ai ca. Âm điệu chỉ là thất vọng và ngã lòng.
“Đức Giê-hô-va ôi! vì cớ gì Ngài đứng xa, lúc gian truân tại sao Ngài ẩn mình đi?” (Thi thiên 10.1).
“Đức Giê-hô-va ôi! Ngài sẽ hằng quên tôi cho đến chừng nào? Ngài ẩn mặt cùng tôi cho đến bao giờ?” (Thi thiên 13.1).
“Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi?” (Thi thiên 22.1).
QUYẾT ĐỊNH NGUY HIỂM CỦA DAVID
David đã lên dây đàn tới tận cùng rồi. Ông không thể lên hơn được nữa. Vì vậy, ông đã nghĩ thầm:
“Đa-vít nói thầm nghĩ rằng: Chắc một ngày kia, ta sẽ chết bởi tay Sau-lơ. Ta chẳng làm chi hay hơn bằng trốn trong xứ Phi-li-tin, thì Sau-lơ sẽ chẳng còn kiếm ta trong cả địa phận Y-sơ-ra-ên nữa. Như vậy, ta sẽ thoát khỏi tay người” (I Samuên 27.1).
Trong quá khứ, David đã nói với Gát hay với một trong những mưu sĩ khác của ông. Hoặc hay hơn nữa, ông “đã cầu hỏi Đức Giêhôva” (I Samuên 23.2, 4). Nhưng trong trường hợp nầy, David đã không cầu hỏi Chúa hay ai khác. Ông đã nhìn vào các hoàn cảnh, chỉ còn biết có sợ hãi, rồi trốn vào xứ Philitin. Dưới mọi cảnh ngộ, ông đã tin rằng đấy là việc tốt nhứt mà ông phải làm.
Cụm từ được dịch: “Việc tốt nhứt tôi có thể làm để thoát thân” được đặt trong một phương thức cho thấy vội vã lắm: “Tôi sẽ thoát ngay lập tức, tôi sẽ thoát ngay bây giờ”.
Những quyết định đưa ra khi chúng ta bị đánh té ngã hay cùng quẫn về mặt tình cảm là rất nguy hiểm. Chúng ta yếu đuối trước những sự lựa chọn tồi tệ khi chúng ta ở trong trạng thái đó của lý trí – những sự lựa chọn chúng ta không hề đưa ra nếu chúng ta đang ở trên đỉnh cao của mọi sự. Khi chúng ta bị đánh ngã, chúng ta rơi vào sự xét nét tồi tệ, đây là điều không thể tránh được.
Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người độc thân đã quyết định trong một phút yếu đuối cho rằng họ không thể giữ được tư tưởng về tình trạng cô độc vĩnh viễn, vì vậy họ ổn định với người bạn đời là kẻ làm cho đời sống của họ càng đáng thương hơn? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã lui khỏi những việc làm tốt trong một phút thất bại, giận hờn, rồi giờ đây thấy mình thất nghiệp trong vô vọng sống trong những tình huống chẳng mong muốn bao giờ? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã rút lui ra khỏi cuộc hôn nhân của họ khi họ yếu sức dần rồi sống để tiếc nuối về quyết định đó? Tôi lấy làm lạ không biết có bao nhiêu người đã lui ra khỏi những chức vụ đầy kết quả vì cớ sự yếu đuối và thất vọng?
Ignatius xứ Loyola, một Cơ đốc nhân xứ Basque vào thế kỷ thứ 16, đã viết một quyển sách có đề tựa là Những bài học thuộc linh. Ông chỉ ra rằng có hai tình trạng trong đời sống Cơ đốc. Một là sự yên ủi: “Khi linh hồn thức tỉnh tới một tình yêu dành cho Đấng Tạo Hóa và Chúa của nó. Khi đức tin, sự trông cậy, lòng thương xót, và niềm vui mừng bên trong cảm thúc linh hồn nếm biết sự bình an và yên tỉnh trong Chúa của chúng ta”. Còn tình trạng kia là sự phiền muộn: “Khi có sự tăm tối trong linh hồn, tâm trí rối bời, một xu hướng mạnh mẽ nhắm vào những việc đời nầy, bất an, kết quả từ sự lo âu, và những cám dỗ dẫn đến mất đức tin. Chúng ta thấy mình lãnh đạm, hâm hẩm, buồn rầu, và lui đi xa khỏi Chúa, như vốn thực vậy”.
Ông viết: “Trong lúc ngã lòng, một người đừng nên tạo ra một sự thay đổi, nhưng hãy vững vàng và bền đỗ trong sự kiên định và trong sự quyết định đã dẫn dắt người trong ngày trước khi ngã lòng, hay với quyết định mà người đã có trong sự yên ủi trước đó. Vì như tâm tình sáng láng dẫn dắt và yên ủi chúng ta trong sự yên ủi, cũng vậy trong sự ngã lòng linh tà ác dẫn dắt và mưu luận. Theo những mưu luận của linh ác nầy, một người không thể tìm được phương thức đúng đắn để đưa ra một quyết định đúng đắn”.
Ông nói tiếp: “Mặc dù trong sự ngã lòng, chúng ta không thay đổi những quyết định trước đó của mình, nó sẽ trở nên rất thuận lợi cho chúng ta làm mạnh thêm sinh hoạt chống lại sự ngã lòng. Điều nầy có thể được thực hiện bằng cách khăng khăng nhiều hơn trong sự cầu nguyện, suy gẫm, xem xét, và xưng tội”.
Vì thế, chúng ta nên chờ đợi và cầu nguyện. Hiển nhiên là David đã học biết chờ đợi nơi Đức Chúa Trời (Thi thiên 5.3: 27.14; 33.20; 37.7, 34; 38.15). Ông đã chờ đợi trong cơ hội nầy, nhưng ông đã để cho lý trí ông dậy lên. Được cung ứng cho trong các hoàn cảnh của ông, xứ Philitin trông tốt hơn bóng cánh không thấy được của Đức Chúa Trời.
“Vậy, Đa-vít chổi dậy, cùng sáu trăm người theo mình, sang qua đến A-kích, con trai Ma-óc, vua Gát. Đa-vít và những kẻ theo người ở cùng A-kích tại Gát, mỗi người có gia quyến mình. Đa-vít có hai vợ theo, tức là A-hi-nô-am ở Gít-rê-ên và A-bi-ga-in, trước làm vợ của Na-banh ở Cạt-mên. Sau-lơ hay rằng Đa-vít trốn đến Gát, thì thôi đuổi theo người” (I Samuên 27.2-4).
TÌNH TRẠNG BẤT AN CỦA DAVID
David được an toàn trong xứ Gát, dù bất an có tăng lên. Mọi hoạt động của ông đều bị hạn chế. Ông phải giảm đi phần tự quản và độc lập của mình. Ông cảm thấy nhu cần phải ra khỏi thủ phủ của nhà vua, vì vậy ông đã xin Akích một địa điểm khác để sinh sống. Đây là lời cầu xin đó:
“Đa-vít nói cùng A-kích rằng: Nếu tôi được ơn trước mặt vua, xin hãy nhường cho tôi một nơi nào thuộc về các thành ở ngoài đồng bằng, để tôi ở đó. Vì tôi tớ vua ở trong đế đô với vua mà chi? Vậy, trong ngày đó A-kích ban Xiếc-lác cho người; bởi cớ ấy, Xiếc-lác thuộc về vua Giu-đa cho đến ngày nay. Thì giờ Đa-vít ngụ trong xứ dân Phi-li-tin là một năm bốn tháng” (I Samuên 27.5-7).
Sau cùng, David và đồng đội của ông có thể ổn định được rồi. Vì trong nhiều tháng trời, mạng sống của họ luôn luôn ở trong chỗ báo động đỏ và chiến đấu miệt mài. Giờ đây, họ đã có một góc nhỏ bình an. Con cái của họ có thể chơi đùa trong an toàn. Những người nam và nữ lớn tuổi có thể ngồi dưới ánh mặt trời và trò chuyện. Những người đàn ông có thể làm việc ở ngoài đồng thay vì nơm nớp với những cuộc bố ráp và cướp phá.
David và người của ông đã sống trong Xiếclác chẳng ai quấy nhiễu trong một thời gian, và mọi sự dường như xuông xẻ ở bề ngoài. Thế nhưng, đây là thời điểm cằn cỗi trong sự đồng đi của David với Đức Chúa Trời. Ông không viết một bài thơ và hát một bài ca nào trong xứ Xiếclác. Chàng ca sĩ tuyệt vời của Israel đã bị câm nín. David đã bị cuốn đi xa khỏi Chúa.
Nhưng sự trôi giạt của David không kết quả trong chỉ thất bại riêng tư thôi đâu – ông đã đặt bạn hữu ông trong cảnh hiểm nghèo thuộc linh. Xứ Philitin nằm ở ngoài cơ nghiệp của Đức Giêhôva, nơi ở của Đấng Chí Cao. Xứ ấy đầy dẫy hình tượng (II Samuên 5.21).
Khi David bị cuốn xa khỏi Đức Chúa Trời, ông thấy bất an ngày càng tăng – một trạng thái của lý trí luôn luôn nhận chúng ta chìm vào những rối rắm sâu sắc.
CUỘC BỐ RÁP KINH KHỦNG CỦA DAVID
“Đa-vít và những kẻ theo người đi loán đến đất dân Ghê-su-rít, dân Ghiệt-xít, và dân A-ma-léc, là những dân tộc từ lâu đời ở miền lân cận Su-rơ cho đến xứ Ê-díp-tô. Đa-vít phá hủy xứ nầy, chẳng để một người nam hay nữ còn sống; cướp lấy chiên, bò, lừa, lạc đà, và áo xống; đoạn, trở về cùng A-kích. A-kích hỏi: Ngày nay, ngươi đi xâm đoạt nơi nào? Đa-vít đáp: Trong miền nam đất Giu-đa, miền nam đất dân Ghê-ra-mê-lít, và miền nam đất dân Kê-nít. Đa-vít chẳng chừa một người nam hay nữ còn sống đặng dẫn về Gát; vì nói rằng, e chúng nó sẽ cáo chúng ta mà rằng: Đó là điều Đa-vít đã làm. Trọn lúc Đa-vít ngụ trong xứ dân Phi-li-tin, thường hay làm như vậy. Cho nên A-kích tin Đa-vít, mà rằng: Hắn làm cho hắn bị gớm ghiếc nơi Y-sơ-ra-ên, là dân sự hắn, nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời” (I Samuên 27.8-12).
David đã cướp phá hết làng nầy sang làng khác rồi phân phối chiến lợi phẩm cho bà con mình trong xứ Giuđa (I Samuên 30.26). Nhưng có một chú thích đáng phải để ý đến trong câu chuyện. David đã sử dụng một chính sách tiêu diệt – giết những người nam, người nữ, trẻ con, e chúng báo cáo về ông. Các động từ “phá hủy”, “chẳng để”, và “cướp lấy” là những từ mà các nhà văn phạm gọi là: “các động từ xảy ra nhiều lần” mô tả hành động theo thói quen. Tiêu diệt là “chính sách” của ông, giống như bản Kinh Thánh Hêbơrơ mô tả nó: “bao lâu ông sinh sống trong xứ Philitin”. David đã chạy theo con đường riêng trong một năm bốn tháng.
SỰ GIẢ DỐI CỦA DAVID
Là chư hầu của nhà vua, David có bổn phận phải tường trình về các trận đánh và phân chia một số chiến lợi phẩm lấy được từ những chiến thắng của mình. Akích đã hỏi ông: “Ngày nay, ngươi đi xâm đoạt nơi nào?” David nói dối: “Trong miền nam đất Giu-đa, miền nam đất dân Ghê-ra-mê-lít, và miền nam đất dân Kê-nít”.
David đã dấn thân vào một con đường đòi hỏi phải nói dối liên tục. Ông cứ mãi nói dối với Akích, một sự dối trá hoàn toàn bất xứng với bổn tánh của ông. Akích đã chấp nhận báo cáo của David, xem như đấy là bằng chứng cho thái độ thù hận đối với Israel, ông ta nghĩ rằng David đã tự mình xa lánh với đồng bào của mình và giờ đây đã hoàn toàn chịu phục sự ông ta. Ông ta nói: “Hắn làm cho hắn bị gớm ghiếc nơi Y-sơ-ra-ên, là dân sự hắn, nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời” (I Samuên 27.12).
Đây là một mệnh đề rất thú vị: “nên chắc hắn sẽ làm tôi tớ ta đời đời”. David, một linh hồn tự do của Đức Chúa Trời, đã bán mình phục vụ cho một vị vua tà giáo. T.S. Eliot nói: “Linh hồn trong trạng thái ức chế đi từ sai lầm nầy đến sai lầm khác, trừ phi nó được phục hồi bởi ngọn lửa luyện lọc”.
PHÚT CHÂN THẬT CỦA DAVID
Người Philitin tập trung các lực lượng của họ tại Aphéc để chiến tranh nghịch cùng dân Israel. Họ vốn biết rõ tình trạng phân rẽ trong vương quốc của Saulơ và đã thỏa lòng lắm khi nhìn thấy số lượng những kẻ mạnh sức ngày càng tăng thêm trong sự lìa bỏ Saulơ và đồng cảm với David và có lẽ cũng đồng cảm với quân đội Philitin.
Người Philitin bèn quyết định đánh một trận sau cùng. Vì vậy, họ đã cho tập trung mọi lực lượng của họ – cùng với David và người của ông – với dự tính tấn công Israel trên khắp đồng bằng Esdraelon. David buộc phải đi theo nhà vua ra chiến trận, mặc dù ông phải đánh trận chống lại đồng bào của mình, chống lại Saulơ Vua mình, và chống lại Giônathan, là bạn thiết của mình.
Có thể là ở điểm nầy tấm lòng của David bắt đầu xây sang Đức Chúa Trời, cầu xin Ngài gỡ ông ra khỏi tình trạng hỗn độn mà bản thân ông tự dính vào. Nếu thế, thì Đức Giêhôva lắng nghe ông.
F.B. Meyer đã viết: “Nếu bởi lầm lỗi và tội lỗi, bạn tự lui về trong một tình huống giả tạo giống như vầy, đừng thất vọng, vẫn phải hy vọng nơi Đức Chúa Trời. Hãy xưng ra rồi gạt bỏ tội lỗi của mình đi, và hãy hạ mình xuống trước mặt Ngài và Ngài sẽ dấy lên để giải cứu bạn. Bạn đã tự hủy diệt mình, nhưng ở trong Ngài sẽ là sự cứu giúp cho bạn đấy”.
Một cánh cửa hy vọng đã được mở ra. Ngay trong đêm gặp gỡ ấy, Đức Chúa Trời đã can thiệp. Chính người Philitin đã khẳng định rằng David và người của ông chẳng có phần gì trong chiến trận, vì vậy họ quay trở lại nơi cư ngụ của họ tại Xiếclác.
“Khỏi ba ngày, khi Đa-vít với những kẻ theo mình đến Xiếc-lác, thì dân A-ma-léc đã loán đến miền nam cùng Xiếc-lác, xông vào Xiếc-lác và đã phóng hỏa nó. Chúng bắt lấy các người nữ và hết thảy kẻ lớn nhỏ ở tại đó. Chúng nó chẳng giết một ai, song khi đi, có dẫn tù hết thảy. Khi Đa-vít và những kẻ theo người đến thành, thì thành đã bị lửa cháy; vợ, con trai, con gái của chúng đều đã bị dẫn tù. Bấy giờ, Đa-vít và những kẻ theo người đều cất tiếng lên khóc, khóc đến đổi không còn sức khóc nữa” (I Samuên 30.1-4).
David và người của ông đã trên đường đi khoảng 3 ngày và đã kiệt lực, đang mong mỏi gặp lại vợ con mình. Khi họ đến gần Xiếclác, họ nhìn thấy một cột khói trên đường chân trời, khi còn vài dặm nữa đến Xiếclác, thì thấy thành đã bị phóng hỏa, những phụ nữ và con nhỏ của họ đều bị bắt đi làm phu tù. Thay vì gặp gỡ nhau trong hạnh phúc, đã có im lặng và hoang vu thật là đáng sợ. Chỉ còn có vài người lớn tuổi còn ở đó để thuật lại câu chuyện. David và người của ông đã bật khóc cho tới chừng không còn sức khóc nữa.
Các đội quân của David xây lại và nhìn trừng trừng nơi ông với giận dữ im lặng. Có người muốn hành quyết ông. Bản thân David chịu trách nhiệm về sự mất mát của họ, và ông vốn biết rõ như vậy. Lẽ ra ông phải để một số người ở lại để trông chừng thành phố. Ông phải biết như thế. Ông đã làm cho ai nấy đều ngã lòng hết. Bạn có thể tưởng tượng nổi trống vắng khủng khiếp của ông.
Và rồi, đã có sự mất mát của chính cá nhân ông. Chẳng còn có hy vọng, chẳng có một triển vọng giải cứu nào cho tình hình nầy. Ông không thể đuổi kịp người Amaléc. Họ đã cởi trên lưng lạc đà và đã đi xa rồi. Khi chúng ta có hy vọng, chúng ta có thể chịu đựng. Khi hy vọng của chúng ta bị cướp mất, cuộc sống mất mát hết ý nghĩa của nó.
David vốn ý thức về sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời. Lương tâm ông đã tỉnh thức và khởi sự nói. David đã lãnh đạo một sinh hoạt gấp bằng hai – phản bội Akích và đột kích liên quân Philitin. Ông đã tàn sát nhiều làng mạc và rồi đã nói dối. Giờ đây, ngôi làng và gia đình của ông đều tan hoang. Đây là một trong những giờ phút tăm tối nhất trong cuộc đời của David.
SỰ ĂN NĂN CỦA DAVID
David đã bật khóc trong đau thương và thất vọng. Ông đã khóc cho tới chừng không còn sức khóc nữa. Một phản ứng hoàn toàn rất tự nhiên. Châm ngôn 15.13 chép: “Nhưng tại lòng buồn bã trí bèn bị nao sờn”. “Đa-vít bị sự hoạn nạn lớn, vì dân sự toan ném đá người, bởi hết thảy đều có tâm hồn đầy cay đắng, vì cớ mất con trai và con gái mình. Nhưng Đa-vít được sức mạnh nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình” (I Samuên 30.6).
“David bị sự hoạn nạn lớn”, nhưng ông đã “được sức mạnh nơi Giêhôva Đức Chúa Trời mình”. Bản Hêbơrơ đọc: “Ông tự có sức mạnh nơi Đức Giêhôva”. Đây là một trong những câu quan trọng nhất trong Kinh Thánh.
Một lần nữa, David đã xem Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của ông! Không nghi ngờ chi nữa, người của David đã nghe ông lặp đi lặp lại: “Đức Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi, hòn đá tôi, sự cứu rỗi của tôi”.
Mặc dù David đã làm tổn thương trầm trọng danh của Đức Chúa Trời bởi sự ông thất bại về đức tin và những sách lược phản bội và gây đau khổ, Đức Giêhôva vẫn là Đức Chúa Trời của ông. Và trong cơn khủng hoảng hiện tại, ông có thể đến nương dưới bóng cánh của Ngài.
Đức Chúa Trời không bao giờ bỏ đi ơn cứu giúp của Ngài, thậm chí khi chúng ta đã đem sự hủy hoại chất trên bản thân mình. Bất chấp điều chi chúng ta đã làm, chúng ta phải chạy đến với Ngài rồi nắm lấy bàn tay mạnh sức của Ngài. Người nào chạy đến với Đức Chúa Trời đem theo gánh nặng thất bại trong trí mình rồi thưa với Ngài: “Ngài là nơi nương náu của con” là người hiểu rõ tấm lòng giàu ơn của Đức Chúa Trời.
David “được sức mạnh nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình”. Ông phải quay trở lại với những lời hứa của Đức Chúa Trời về sự tha thứ và phục hồi, những gì thường làm cho ông được phấn khởi trong những lúc tăm tối của cuộc đời ông. Ông đã nhớ lại những bài thơ mà ông đã viết trong những ngày tối tăm kia giống như những ngày nầy đã phản ảnh sự thành tín của Đức Chúa Trời. Ông đã nhớ lại mình đã từng ở trong những tình huống tồi tệ hơn cả tình huống nầy và Đức Chúa Trời đã cứu giúp ông trong những lúc đó. Mặc dù đức tin ông đã được thử nghiệm rồi, đức tin ấy không rơi vào chỗ thất vọng. Trong phương thức nầy, ông tự khích lệ mình.
Mọi sự ở chung quanh David đều là thất bại và đổ nát. Nhưng Đức Chúa Trời đang ở gần. “Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi thiên 46.1). David đã được sức lực từ Đức Chúa Trời rồi trở thành trung tâm của sự bình an. Hãy nhớ lời lẽ của Phaolô: “Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ” (I Côrinhtô 16.13).
SỰ HỒI PHỤC CỦA DAVID
David, đến cuối cùng, đã thu lại mọi sự mà người Amaléc đã lấy đi, kể cả gia đình ông (I Samuên 30.18-19). Nhưng không phải mọi thất bại của chúng ta sẽ giống như thế đâu! Chẳng có một sự bảo đảm nào trong đời nầy chúng ta sẽ có lại gia đình mình, công ăn việc làm, tiếng tăm mà chúng ta đã đánh mất do sự rồ dại của chúng ta.
Chúng ta có thể đến với tận cùng những năm tháng của chúng ta một con đường dài xa cách mục tiêu của chúng ta. Có thể chúng ta nhìn biết nhiều thất bại hơn là thành công. Có thể chúng ta không có quyền lực hay thịnh vượng. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận sự thất vọng rồi để cho nó kéo chúng ta đến gần với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tìm thấy đúng lúc thất bại của chúng ta đã cung ứng cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc hơn về tình yêu và ân sũng của Đức Chúa Trời. Đấy là một việc rất sâu xa và có cần nhất.
Cần phải có một đức tin lớn để tin rằng mọi thất bại của chúng ta là vì ích lớn lao hơn. Nhưng đấy là sự thực. Chúng ta học biết nhiều từ thất vọng hơn là chúng ta tiếp thu từ thành công. Chúng ta đạt tới mức nhận biết Đức Chúa Trời và các đường lối của Ngài. Người nào chưa bao giờ thất bại chưa bao giờ biết được sự khai phá đó.
DAVID: Thắng hơn thất bại đạo đức
Tôi luôn nhìn thấy nhiều bạn bè mình sa ngã. Tôi lấy làm lạ, không biết sao họ cứ sa ngã luôn!?! Điều chi khiến cho một người đối xử tệ với cuộc hôn nhân của mình và mọi điều mà người ấy đã hết lòng lo liệu, một việc nhất thời chăng? Hãy lấy David làm thí dụ – vị vua lỗi lạc nhất của Israel, là người “vừa lòng Đức Chúa Trời”. Ông đã đem lòng mê đắm Bátsêba, người vợ trẻ, xinh đẹp của Uri.
Chuyện xảy ra lúc “năm mới, khi các vua thường ra tranh chiến” (II Samuên 11.1). Thực vậy, mùa xuân ấy nằm trong tình huống không thể tránh được, mọi năng lực của David đã nhắm vào một chỗ khác: “Một buổi chiều kia, Đa-vít chổi dậy khỏi giường mình, đi dạo chơi trên nóc đền vua” (câu 2).
Từ đó, ông đã có một cái nhìn bao quát thành Jerusalem và có thể nhìn xuống sân của vùng phụ cận. Khi ông quan sát cả thành phố, mắt ông rơi đúng chỗ một phụ nữ trẻ đang tắm. Câu Kinh Thánh cho biết, nàng rất xinh đẹp (câu 2).
Nếu người phụ nữ kia không đoan trang, bạn phải nhớ chẳng có một hệ thống nước máy nào trong thời buổi ấy. Tắm rửa thường diễn ra ngoài trời trong sân có hàng rào bao quanh.
David đã mê đắm! Ông sai người hỏi thăm cho biết người nữ ấy là ai (câu 3), và một trong những bạn hữu của ông đã làm cho ông phải thất vọng. Ông hỏi: Có phải “Ấy là Bát-Sê-ba, con gái của Ê-li-am, vợ của U-ri, người Hê-tít”? (câu 3). Nàng là một thiếu phụ đã có chồng – thực vậy, nàng đã lấy Uri, một trong những tráng sĩ của David, một thành viên trong đội cận vệ của David (II Samuên 23.39).
Tuy nhiên, David đã không chối từ. Ông “sai người đem nàng đến”. Việc sai lầm nầy dẫn đến sai lầm khác và “vua ngủ với nàng… nàng trở về nhà”. Sau đó, Kinh Thánh cho chúng ta biết: “Người nữ nầy … sai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai” (II Samuên 11.4-5).
David biết rõ mình đã gặp rắc rối lớn. Chồng của Bátsêba đã lao vào trận khi bao vây thành Rápba của dân Amôrít và phải kẹt lại trong mấy tháng. Ai cũng có thể đếm đến chín. Ở vùng đất khác, vua là Luật pháp, nhưng không như thế trong Israel. Không một ai cao hơn Lời của Đức Chúa Trời. Tà dâm là tội trọng.
Nhưng David, luôn luôn là một con người của hành động, đã vạch ra một chương trình hầu đẩy lùi mọi hậu quả của vụ việc nầy. Ông gửi lời cho Giôáp, theo lịnh ông triệu Uri về thành Jerusalem, bề ngoài là báo cáo về trận chiến, song trong thực tế là đưa ông ấy về nhà với Bátsêba. Khi người chiến binh nầy về tới, David lắng nghe mọi tường trình vắn tắt của ông ấy rồi truyền lịnh cho Uri phải về nhà: “Hãy đi xuống nhà ngươi và rửa chân đi” (câu 8), ông vừa nói vừa nháy mắt.
Thế nhưng, Uri “không về nhà mình, ngủ tại cửa đền vua cùng các tôi tớ vua” (câu 9). Khi David hỏi tại sao ông không về nhà, Uri đã giải thích: “Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!” (câu 11).
David đáp: “Hãy ở lại đây ngày nay, rồi mai ta sẽ sai ngươi đi. Vậy, U-ri ở lại tại Giê-ru-sa-lem ngày ấy và ngày sau. Đoạn, Đa-vít vời người ăn uống tại trước mặt mình, và làm cho người say; nhưng chiều tối, U-ri đi ra ngủ trên giường mình với các tôi tớ của người, chớ không có đi xuống nhà mình” (11. 12-13).
Uri không về nhà trong khi những người khác dưới quyền mình đã bị tẻ tách ra khỏi vợ và gia đình họ. Bất chấp mọi nổ lực lặp đi lặp lại của David khuyên nài Uri, người chiến binh Hêtít nầy đã từ chối. Mỗi tối, Uri đã cuộn mình trong túi ngủ ở ngoài sân của lính gát cung điện rồi ngủ với số lính gát nầy.
Thời gian trôi đi. Trong nổi thất vọng, David ký một hợp đồng cho đời sống mình, ra lịnh cho Giôáp phải “Hãy đặt U-ri tại hàng đầu, nơi hiểm nguy hơn hết của chiến trận, rồi hãy rút ra xa người, để người bị đánh và chết đi” (câu 15).
Giôáp, chẳng dại dột gì nên đã từ chối không làm theo huấn thị của David. Chương trình phản bội rõ ràng đến nỗi ông đã thay đổi như sau: “Vậy, khi Giô-áp vây thành, bèn đặt U-ri tại chỗ đã biết có lính mạnh bạo của thù nghịch gìn giữ. Người trong thành kéo ra đánh Giô-áp, có mấy người trong bọn tôi tớ Đa-vít ngã chết. U-ri, người Hê-tít, cũng chết” (các câu 16-17).
Khi ấy Giôáp sai người đến với David kèm theo báo cáo về trận đánh. Ông ta biết rõ David sẽ chỉ trích chiến thuật của mình và sự mất mát nhiều mạng sống, nhưng ông đã mau mắn báo cáo Uri đã tử trận (các câu 18-22). David không muốn Giôáp phải khó chịu nên ông nói: “gươm, khi giết kẻ nầy, khi giết kẻ khác” (câu 25).
Khi Bátsêba hay được chồng mình đã chết, nàng đã than khóc cho người. Khi thời kỳ than khóc ngắn ấy qua rồi, David “vời nàng vào cung; nàng trở nên vợ người, sanh cho người một con trai” (các câu 26-27).
David đã thực hiện vội vàng, nhưng hôn nhân đặt một dấu chấm sau cùng và hợp pháp cho vụ việc bẩn thỉu – hay David tưởng thế. Còn Đức Chúa Trời thì biết rõ, và “điều Đa-vít đã làm đó không đẹp lòng Đức Giê-hô-va” (câu 27).
Một năm trôi qua, trong suốt thời gian đó David về mặt thể chất và tình cảm đã trở nên xấu đi. Về sau ông mô tả cảm xúc nầy:
“Khi tôi nín lặng, các xương cốt tôi tiêu-tàn, Và tôi rên siếc trọn ngày; Vì ngày và đêm tay Chúa đè nặng trên tôi; Nước bổ thân tôi tiêu hao như bởi khô hạn mùa hè” (Thi thiên 32.3-4).
Lương tâm ray rứt của ông khiến cho ông thấy bất an và sầu muộn. Mỗi phút thức tỉnh đầy dẫy với đau thương. Lúc đêm xuống, ông trằn trọc và trăn trở. Nổi lo sợ đã hủy hoại sức lực của ông. Sự ngã lòng của ông được đào sâu với từng ngày trôi qua.
Hiển nhiên là David đã đối diện với những sự thực. Chính xác hơn, ông phải đối mặt với tiên tri Nathan, là người biết rõ sự thực. Nathan đã gài bẫy nhà vua xuất thân từ nghề chăn chiên nầy với một câu chuyện nói tới một gã nhà giàu kia có nhiều bầy chiên, nhưng lại là người bắt lấy chiên con của người khác để đãi khách (II Samuên 12.4).
David đã nổi giận, và lúc đầu ông đã phản ứng mạnh mẽ như là kẻ bị xúc phạm về đạo đức: “người đã phạm điều ấy thật đáng chết!”
Nhưng việc bắt một con chiên con chẳng phải là một sự xúc phạm chính trong Israel. Theo Xuất Êdíptô ký 22.1, một tên trộm bị buộc phải bồi thường gấp bốn lần cho nạn nhân. Khi ấy David nói: “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con không có lòng thương xót” (câu 5).
Nathan kết án ngay: “Vua là người đó! Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Ta đã xức dầu lập ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ta đã giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. Ta cũng ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao vào tay ngươi các vợ của chủ ngươi, lập ngươi làm vua của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và nếu điều đó không đủ, ắt ta sẽ thêm cho ơn khác nữa. Cớ sau ngươi đã khinh bỉ lời của Đức Giê-hô-va, mà làm điều không đẹp lòng Ngài?” (12.7-9).
Khi ông bị đưa đến chỗ phải đối mặt với sự đồi bại của mình, những lời biện hộ của David đã bị vỡ nát ra. Lấy hai bàn tay bụm lấy mặt, ông kêu lên: “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va”. Và Nathan đáp: “Đức Giê-hô-va cũng đã xóa tội vua; vua không chết đâu” (câu 13).
Trước sự công nhận của David, ông không ra sức để tự xưng công bình. Ông đã công nhận tội lỗi mình, và Đức Chúa Trời ngay tức khắc hủy đi cáo trạng nghịch cùng ông. David có thể ngước đầu mình lên. Về sau ông đã viết:
“Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi” (Thi thiên 32.5).
Như sứ đồ Giăng đã hứa: “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (I Giăng 1.9). Hạnh phúc là nhìn biết rằng tội lỗi của chúng ta đã được tha.
“Phước thay [hạnh phúc] cho người nào được tha sự vi phạm mình! Được khỏa lấp tội lỗi mình! Phước thay cho người nào Đức Giê-hô-va không kể gian ác cho, Và trong lòng không có sự giả dối!” (Thi thiên 32.1-2).
David đã gánh lấy các hậu quả kinh khủng vì cớ tội lỗi mình. Nathan đã nói trước David sẽ chịu khổ:
“Nên bây giờ, gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi, bởi vì ngươi đã khinh ta, cướp vợ U-ri, người Hê-tít, đặng nàng làm vợ ngươi. Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta sẽ khiến từ nhà ngươi nổi lên những tai họa giáng trên ngươi; ta sẽ bắt các vợ ngươi tại trước mắt ngươi trao cho một người lân cận ngươi, nó sẽ làm nhục chúng nó tại nơi bạch nhựt. Vì ngươi đã làm sự kia cách kín nhiệm, nhưng ta sẽ làm việc nầy trước mặt cả Y-sơ-ra-ên và tại nơi bạch nhựt… Nhưng vì việc nầy vua đã gây dịp cho những kẻ thù nghịch Đức Giê-hô-va nói phạm đến Ngài, nên con trai đã sanh cho ngươi hẳn sẽ chết” (II Samuên 12.10-12, 14).
David đã trả giá xứng đáng cho vài phút khoái lạc của ông. Sinh hoạt gia đình ông và sự nghiệp chính trị bị xé toạc ngay đường chỉ nối kể từ lúc đó trở đi. Mọi sự mà Nathan nói trước đã trở nên sự thực.
“Chớ hề dối mình; Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy” (Galati 6.7).
Nhưng David có thể chổi dậy từ chỗ sa ngã để bước đi với Đức Chúa Trời. C.S. Lewis viết: “Không một lượng sa ngã nào có thể thực sự làm cho chúng ta phải hư hỏng, nếu mỗi lần chúng ta biết tự chổi dậy. Tất nhiên chúng ta sẽ trở thành những đứa trẻ lấm lem và rách tả tơi ngay lúc chúng ta về đến nhà … Việc duy nhứt là mất đi tâm tánh của một người và nhượng bộ”.
LUẬT TRÌNH TỰ KHÔNG THỂ TRÁNH ĐƯỢC
Đọc câu chuyện của David và nhìn thấy bạn bè tôi sa ngã khiến tôi phải đến với một kết luận: Sự suy đồi về đạo đức hiếm khi là một lỗ thủng lớn; nó giống như một chỗ rò rĩ thật chậm – kết quả của một ngàn đam mê nhỏ. Rất ít người hoạch định một vụ tà dâm; họ quá độ vào trong vụ việc đó.
Nó bắt đầu với sự hấp dẫn. Nó chẳng phải là tư dục nhiều như sự mê say cuồng dại làm cho chúng ta phải chìm đắm. Chúng ta bị kéo đến với hạng người có ảnh hưởng và hiểu biết, ai đó chịu lắng nghe và dường như biết quan tâm. Chúng ta bị rủ rê bởi sự hấp dẫn đó rồi bị dẫn vào những cấp độ tinh vi hơn.
Sự hấp dẫn trở thành khả năng tưởng tượng: Chúng ta tự tưởng tượng với người ấy và cảm xúc thì rất ấn tượng. Những vụ việc được tưởng tượng luôn dường trông như thật. Đấy là sự lừa dối cơ bản của chúng.
Những sự tưởng tượng xoa dịu chúng ta, và niềm tin của chúng ta bị xói mòn. Khi ấy chúng ta đang ở trong một cái khuôn lý trí hay lắng nghe những khát khao của mình, và khi đã lắng nghe rồi chúng ta chẳng có ý chỉ để kháng cự lại. Chúng ta không thể né tránh việc công nhận những tư tưởng nổi cộm của chúng ta.
Thế rồi có những lần gặp gỡ và chia sẻ sự xung đột ở bên trong, nổi thất vọng vợ chồng, và những tổn thương sâu sắc khác. Và với sự chia sẻ đó, mối quan hệ bắt đầu được nâng lên. Đột nhiên chúng ta hai con người cô độc rơi vào nhu cần tình cảm của nhau.
Thế rồi một sự miễn cưỡng không thể tránh được xảy đến, và với sự miễn cưỡng đó là nhu cần xưng công bình cho sự việc. Chúng ta không thể sống với sự bất hòa. Chúng ta phải hợp lý hóa cách xử sự của mình bằng cách đổ thừa cho ai đó hay việc chi khác – các áp lực công việc của chúng ta hay những hạn chế của bạn đời mình. Việc làm sai trái của người khác trở thành lý do của chúng ta. Mọi sự phải được thực thi trông rất tốt đẹp.
Nhưng tấm lòng của chúng ta biết rõ. Có những giây phút ý chí của chúng ta phải suy yếu đi và chúng ta mong muốn sắp đặt mọi việc sao cho ngay ngắn. Nếu chúng ta không sắp đặt được, khi ấy hãy lắng nghe tấm lòng mình, ở đó có một sự chai cứng y như kim loại vậy, và kế đó là suy sụp. Việc làm sai trái của chúng ta thay đổi, thay đổi hình thái và chất lượng của nó, nhắm vào việc tự yêu mình và tàn nhẫn kinh khủng lắm. Chúng ta không quan tâm ai sẽ bị tổn thương bao lâu chúng ta nhận được những gì mình mong muốn.
Và sau cùng, có sự vạch trần xảy đến không thể tránh được. Trước tiên, chúng ta chối: “chẳng có ai khác”. Kế đó, chúng ta che đậy: “Chỉ là lý thuyết xuông thôi mà”. Và cuối cùng, sự lừa dối của chúng ta được hô lên từ mái nhà. Chẳng có gì giấu được so với ánh sáng.
Khi mọi đường khâu của chúng ta được mở ra và những việc làm xấu xa của mình đã bị bày tỏ, Đức Chúa Trời nhắc chúng ta nhớ tới thập tự giá của Ngài, ơn tha thứ của Ngài, và ân điển không chi sánh được của Ngài. Khi ấy, Ngài khởi sự làm cho chúng ta được nên mới. Nhưng chỉ có một cách để nhìn biết ơn tha thứ đó: công nhận tính ghê khiếp của tội lỗi và từ ngữ bị coi là lỗi thời kia: ăn năn. Chúng ta phải ghét bỏ những gì chúng ta đã làm, rồi xây khỏi nó với sự ghét cay ghét đắng.
Đấy là những gì Phaolô gọi là: “sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn” (II Côrinhtô 7.10). Sự buồn rầu không theo ý Đức Chúa Trời là sự buồn rầu sẽ có, hay sự buồn rầu phải gánh chịu những hậu quả sẽ có. Kết quả càng làm cho lầm lỗi, lo sợ, và tình trạng vô vọng sẽ được tăng nhiều thêm. Mặt khác, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời là sự buồn rầu đối với chính tội lỗi và sự tổn tại mà nó gây ra cho nhiều người khác. Sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời tự nó khẳng định muốn làm cho mọi việc ra ngay thẳng.
Đây là cách thức Phaolô muốn phải có: “Vậy, hãy xem, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự ân cần [muốn vâng lời] trong anh em là dường nào! Lại có sự chữa chối [về việc làm sai trái], buồn giận [nghịch lại với điều ác], răn sợ [sa ngã vào tội lỗi nữa], sốt sắng [muốn được thanh sạch], nông nả [dành cho những kẻ bị tổn hại bởi tội lỗi], trách phạt [công bình] là dường nào!” (II Côrinhtô 7.11).
Giống như bản thân David đã học được: “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi thiên 51.17). Đức Chúa Trời thấy rõ những tiềm năng thậm chí trong tình trạng ô uế của chúng ta, tha thứ tội lỗi của chúng ta, làm cho mọi sai trái của chúng ta mất đi tác dụng, rồi sắp đặt khiến cho chúng ta ra tốt hơn chúng ta từng sống trước đó.
Vì thế, thay vì cứ than khóc cho tình trạng bẽ mặt của mình, chúng ta phải tiến tới. Tội lỗi có thể có những hậu quả mà với chúng chúng ta phải sống cho phần đời còn lại của mình, nhưng tội lỗi đã được ăn năn có thể tác động làm ích cho. Đức Chúa Trời lấy điều tệ hại nhất mà chúng ta có thể làm ra rồi biến nó thành phần ích mà Ngài đã hứa cho. Ngài là Đức Chúa Trời của những sự rồ dại và thất bại và là Đức Chúa Trời của cơ hội khác.