Thứ Hai, 1 tháng 3, 2010

"TA LÀ ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT VÀ SỰ SỐNG"



"TA LÀ ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT VÀ SỰ SỐNG" Căn đều Hai bên
Giăng 14.6-27
PHẦN GIỚI THIỆU. Cần phải nói rằng một dân ở tình trạng lệ thuộc giữ nguyên tắc dung thứ cho một trình độ phản ảnh qua câu nói như Philát thốt ra: "Lẽ thật là cái gì?" Loại quan niệm sai lạc rao giảng sự tha thứ mọi sự khiến cho người ta không biết đi đường nào trong cuộc sống của họ, và họ thường cảm thấy lạc lỏng vì họ đang bị hư mất!
Khi đối chiếu với ý tưởng hiện đại "mọi con đường đều dẫn tới Đức Chúa Trời" Chúa Jêsus đưa ra một lời kêu gọi vang dội hãy nhắm tới chân lý thực sự, rằng một mình Ngài là đường đi, lẽ thật và sự sống!
Không may thay, ngay cả những Cơ đốc nhân ngày nay, họ biết rõ câu nầy không nhất thiết phải chứng tỏ nó trong đời sống thực sự của họ. Câu nói nầy do Chúa Jêsus đưa ra không hề có nghĩa phải trở thành một câu học thuộc lòng đâu, câu nói ấy có một giá trị về mặt đạo đức!
MINH HOẠ. Một người bạn của tôi gặp gỡ một phụ nữ Cơ đốc kỉnh kiền, đời sống của bà ta là một mớ hỗn độn. Cuộc hôn nhân của bà ta đã đặt trên những vầng đá, bà ta đã có một sự tan vỡ, đời sống của bà ta trong xã hội nằm trong những đống đổ nát, tuy nhiên, khi bà ta đến yêu cầu bạn tôi giúp đỡ, bà ta đã mặc một chiếc áo tay ngắn có thêu hàng chữ: "Đấng Christ là câu trả lời". Ông ấy nhìn thẳng vào hàng chữ ấy rồi nói với bà kia: "Jean, tôi nghĩ bà nên bỏ đi ý tưởng Đấng Christ là câu trả lời. Ngài không hề phán như thế. Ngài phán: 'Ta là đường đi'. Tôi nghĩ rằng bà phải tìm kiếm câu trả lời cho nan đề của bà với Ngài " -- George Carey, Archbishop of Canterbury, in I Believe. Christianity Today, Vol. 39, no. 9.
Kinh Thánh dạy chúng ta rằng Đấng Christ không những là con đường chính đáng dẫn tới Đức Chúa Trời, mà là con đường duy nhứt dẫn tới Đức Chúa Trời, và là nguồn lẽ thật tối hậu, và là nguồn sự sống duy nhứt! Không những đây là một lẽ đạo phải tin theo, mà đó còn là một sự thực trong đời sống của chúng ta!
I. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN ĐỨC CHÚA CHA (14.6-11)
A. Phần khải thị (14.6-10)
1. Chúa Jêsus đã bảo cho các môn đồ của Ngài biết nơi mà Ngài sẽ đi rồi sau đó Ngài sẽ trở lại với họ, tất nhiên là họ đã yêu cầu cho biết cách nào tìm được CON ĐƯỜNG để đi tới đó.
a. Chúa Jêsus đã nói cho họ biết rồi, họ biết rõ đường đi, nhưng họ nhận là họ không biết.
b. Vì vậy Ngài dặn dò họ: "NGÀI LÀ ĐƯỜNG ĐI…"
2. Họ cứ suy nghĩ theo những giới hạn các phương hướng trong chuyến đi, và Ngài đang nói toàn về việc môn đồ hoá!
3. Chúa Jêsus công bố với họ rằng họ không cần lo về sự đi lạc, NGÀI LÀ ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT VÀ SỰ SỐNG!
MINH HOẠ. Cái điều nằm ở đàng sau và trước mặt chúng ta chỉ là những chuyện nhỏ khi đem sánh với những gì ở bên trong chúng ta. -- Ralph Waldo Emerson. Leadership, Vol. 12, no. 2.
4. Các môn đồ không hiểu Chúa Jêsus muốn nói gì vì họ đang suy nghĩ theo những giới hạn của “các sự kiện” trong khi Ngài đang phán theo những giới hạn của "đức tin".
a. Con đường dẫn tới thiên đàng không những nằm trong sự hiểu biết về các sự kiện, mà còn nằm trong sự nhận biết Đấng Christ nữa!
b. Kỹ nguyên thông tin chúng ta đang bước vào, nó nhấn mạnh tầm quan trọng vào việc thu thập các sự kiện, nhưng cái điều chúng ta thực sự có cần chính là LẼ THẬT!
MINH HOẠ. Trong ngành báo chí của chúng ta, tin tức thông thường trở thành tin quan trọng vì chúng ta có khuynh hướng đánh giá tầm quan trọng của các sự cố do chúng hiển hiện mới đây như thế nào!?! Chúng ta bị ám ảnh với các sự kiện đến nỗi chúng ta mất đi mọi cái chạm với lẽ thật -- Ted Koppel in a speech to the International Radio and Television Society, quoted in Harper's (Jan. 1986). Christianity Today, Vol. 32, no. 8.
5. Câu nói của Chúa Jêsus chỉ ra Ngài là ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT, và SỰ SỐNG đứng nghịch mạnh mẽ với xu hướng suy tưởng của thế gian, câu nói ấy loại bỏ hết mọi sự tưởng khác!
a. Câu nói ấy gây ấn tượng sâu sắc đến nỗi một là chấp nhận hai là chối bỏ giá trị ấy tận mặt!
b. Nếu thực, bất chấp câu nói ấy là đặt sự hư mất vào chính linh hồn của quí vị!
6. Đây là sự khải thị, có điều thực tế nào nằm ở đàng sau lời xưng nhận ấy không?
B. Thực tế (14.11)
1. Trong khi phấn đấu với sự khải thị nầy, họ xin Chúa Jêsus cho họ thấy Đức Chúa Cha, để sự khải thị thành ra hiện thực đối với họ.
a. Chúa Jêsus nói cho họ biết rằng họ đã thấy Cha khi họ đã thấy Ngài, Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con đồng đẳng với nhau, dù Thân Vị có khác.
b. Đức Chúa Trời không phải là một sự mầu nhiệm lớn lao khi chúng ta đã nhìn thấy Đấng Christ, Ngài là đại biểu trọn vẹn của Đức Chúa Trời theo hình thể con người.
2. Chúa Jêsus cũng mời họ chấp nhận sự khải thị nầy dựa theo thực tế, chỉ nhìn vào các phép lạ mà Ngài đã làm …nếu họ không thể tin theo lời nói của Ngài, khi ấy hãy xem xét các phép lạ mà họ đã chứng kiến và tin từ nơi chúng! (đọc 14.11)
a. Không những Chúa Jêsus là ĐƯỜNG ĐI, Ngài còn là LẼ THẬT nữa.
b. Điều nầy đã được tỏ ra qua các phép lạ mà Ngài đã làm, những điều ấy cung ứng minh chứng rất thuyết phục cho lời nói của Ngài.
MINH HOẠ. Nền văn hoá Tây phương đã tạo ra một sự thay đổi cơ bản trong chính nền tảng tôn giáo của nó. Chúng ta đã đánh đổi Đấng đã phán: "Ta là lẽ thật" (Giăng 14.6) để lấy lý thuyết khó tin của Freud cùng lời lẽ của nhiều môn sinh của ông ta. Tôn giáo mới của chúng ta nói với Bôn-tu Phi-lát: "Lẽ thật là cái gì?" và dạy rằng tình trạng của chúng ta là một trong những "nạn nhân nguyên thủy" hơn là "nguyên tội" -- Carol Tharp in a letter to the Chicago Tribune Magazine (Apr. 17, 1994). Christianity Today, Vol. 38, no. 7.
3. Đấng Christ là niềm hy vọng duy nhứt cho chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời…đây là sự thật!
II. CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN ĐỨC TIN (14.12-14)
A. Luật lệ (14.12)
1. Hãy chú ý câu nói của Chúa Jêsus trong tiểu đoạn kế: "QUẢ THẬT ta nói cùng các ngươi…."
a. Sau khi thiết lập Ngài là ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT, và SỰ SỐNG giờ đây Chúa Jêsus tiếp tục giải thích những luật lệ đã được gắn với Ngài và làm theo cùng những công việc mà Ngài đã làm – đó là ĐỨC TIN.
b. Một người không thể có một mối giao thông với Đấng Christ mà không có đức tin, và với đức tin phải có sự vâng phục làm theo chính những việc mà Đấng Christ đã làm.
MINH HOẠ. Kinh Thánh công nhận không có đức tin thì không thể dẫn tới sự vâng phục, Kinh Thánh cũng không công nhận bất kỳ một sự vâng phục nào không phát xuất từ đức tin. Hai mặt của một đồng tiền luôn đối ngược nhau -- A.W. Tozer. Leadership, Vol. 12, no. 4.
2. Chúa Jêsus nói ở đây rằng người nào có đức tin nơi Ngài sẽ làm những việc lớn hơn Ngài đã làm, chúng ta làm những việc lớn hơn Chúa Jêsus bằng cách nào?
a. Không phải trong những sự cố đơn giãn, nhưng kể từ khi Chúa Jêsus đã làm ra các phép lạ nầy khi còn ở trong loài xác thịt và vì thế bị giới hạn đối với không gian và thời gian chỉ trong khoảng thời gian một vài năm, những gì Ngài đang phán dạy nằm trong phạm vi những thế kỷ đã qua, các môn đồ Ngài cùng với nhau làm những việc lớn lao hơn mọi điều mà Ngài đã làm trong mấy năm trời Ngài còn ở đây trong hình thể con người.
b. Điều nầy có ý nói rằng Thánh Linh của Ngài sẽ mặc lấy quyền phép cho dân sự Ngài tiếp tục các công việc của Đức Chúa Trời ngay sau khi Ngài trở về cùng Đức Chúa Cha …và Ngài sẽ giải thích chỉ trong một vài câu cho thấy điều nầy thực sự như thế nào, qua việc ban cho "ĐẤNG YÊN ỦI KHÁC", là Đức Thánh Linh.
B. Quyền hạn (14.13-14)
1. Bước đi bởi đức tin và đi đúng đường mở ra cánh cửa cho các đặc ân trong sự cầu nguyện.
a. Chúng ta có thể cầu xin trong sự cầu nguyện và dám chắc rằng những lời cầu nguyện của chúng ta đã được nghe và đã được nhậm.
b. Tất nhiên, điều nầy không có nghĩa là chúng ta có thể có mọi sự chúng ta CẦN, như vậy có nghĩa là chúng ta sẽ có bất cứ điều chi khi chúng ta cầu xin "TRONG DANH CỦA NGÀI". Cầu xin TRONG DANH CỦA NGÀI có nghĩa là cầu xin những việc nằm trong sự nhất trí với ý chỉ và đường lối của Đấng Christ.
2. Chính theo chiều hướng nầy mà chúng ta có thể cầu xin "bất cứ điều chi" và NGÀI sẽ làm cho, "bất cứ điều chi" nằm trong sự nhất trí với tâm tình và tấm lòng của Đấng Christ.
III. CON ĐƯỜNG DẪN TỚI SỰ TỰ DO (14.15-27)
A. Tinh thần trách nhiệm (14.15-21)
1. Giờ đây, một mối giao thông với Đức Chúa Cha đã được thiết lập qua Đấng Christ, và Ngài cũng là nguồn của mọi lẽ thật, Chúa Jêsus xây qua các nhu cần trong tương lai của các môn đồ Ngài – nhu cần quyền phép để sống trong vai trò con cái của Ngài.
a. Việc đầu tiên Chúa Jêsus thực hiện rất rõ ràng, ấy là chúng ta không thể nói kính sợ Đức Chúa Trời và rồi KHÔNG giữ các điều răn của Ngài.
b. Một người không thể gọi mình (nam hay nữ) là một Cơ đốc nhân và có chiếc la bàn đạo đức của một tội nhân.
2. Chúa Jêsus phán rất ngay thẳng ở đây: "Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta"
a. Đây không phải là sự dạy trọn vẹn, mà là sự dạy cho những gì ở trước mặt.
b. Một Cơ đốc nhân thực nhiều lần di dịch xa cách khỏi thế gian cùng mọi giá trị của nó, rồi hướng tới Nước của Đức Chúa Trời cùng mọi giá trị của Nước ấy.
c. Trở thành công dân của bất kỳ quốc gia nào đòi hỏi các trách nhiệm nhất định.
3. Để giúp cho điều nầy ra khả thi, Chúa Jêsus hứa với các môn đồ Ngài rằng Ngài không để họ lại mà không có quyền phép làm cho điều nầy ra khả thi, dù Ngài sẽ trở về với Cha của Ngài, Ngài sẽ sai "ĐẤNG YÊN ỦI KHÁC" đến với họ - ấy là Đức Thánh Linh.
a. Từ ngữ "khác" ở đây có nghĩa là: "một Đấng khác cùng tầm cỡ đến một bên để giúp đỡ”.
b. Trong tiểu đoạn nầy, Kinh Thánh giới thiệu cho chúng ta Ba Ngôi Đức Chúa Trời một cách rõ ràng.
4. Chúa Jêsus đang nói cho họ biết rằng sự kêu gọi của họ phải sống có trách nhiệm sẽ được vùa giúp bởi Đức Thánh Linh. Chúng ta không thể sống cho Đức Chúa Trời một cách vâng phục mà không có sự vùa giúp của Ngài!
MINH HOẠ. Cách đây nhiều năm ngai vàng của nước Nga đã bị hai thanh niên chiếm lấy. Hai vị đồng Nga hoàng nầy còn rất trẻ, thế mà mỗi ngày họ định đoạt những thắc mắc rất quan trọng. Dân chúng lấy làm lạ nơi sự xét đoán của họ; họ không biết rằng ở đàng sau ngai vàng, có một bức màn che kín ở đó, là Công Chúa Sophia. Nàng đã bí mật cung ứng những câu trả lời. Người ta lấy làm lạ nơi các sứ đồ vì họ không biết bên trong các sứ đồ là Đức Thánh Linh đang cung ứng tri thức, sự khôn ngoan, quyền phép -- Robert C. Shannon, 1000 Windows, (Cincinnati, Ohio. Standard Publishing Company, 1997).
5. Chúa Jêsus không để họ lại giống như những đứa trẻ mồ côi đâu, một từ ngữ đúng nghĩa là: "không có sự an ủi" giống như từ ngữ nầy đã được sử dụng trong thời của Chúa Jêsus…vì vậy tầm quan trọng lời hứa của Ngài là ban cho họ "Đấng yêu ủi khác".
a. Khi Đức Thánh Linh đến Ngài sẽ giúp cho họ hiểu những gì họ có một thời gian khó nhọc không hiểu nổi trong lúc bây giờ.
b. Đức Thánh Linh cũng sẽ kết hiệp người tin Chúa với Đức Chúa Trời qua Đấng Christ.
c. Đức Thánh Linh sẽ làm cho tâm linh đã chết của chúng ta lại sống.
B. Phần thưởng (14.22-27)
1. Phần thưởng của đức tin nơi Đấng Christ sẽ kết quả trong lời hứa về sự đến của Đức Thánh Linh, và khi Ngài đến Ngài sẽ dạy cho họ mọi sự mà họ cần phải biết có liên quan tới sự cứu rỗi.
a. Sự biết nầy bao gồm sự làm cho rõ ràng những vụ việc mà Đấng Christ đã ra sức dạy dỗ họ trong lúc nầy nhưng họ không nắm bắt được.
b. Đây sẽ là một lợi ích rất lớn cho họ sau khi Đức Thánh Linh ngự đến, và việc gợi cho họ nhớ và hiểu biết Lời của Đức Chúa Trời nữa.
2. Chỉ hiểu biết một mình Lời của Đức Chúa Trời sẽ là một lợi ích lớn lắm, là điều mà chúng ta cần có hôm nay.
MINH HOẠ. Khi chiếc tàu thu thập tình báo, chiếc U.S.S. Pueblo, bị phía Bắc Hàn bắt giữ, thủy thủ đoàn bị nhốt tù. Người Bắc Hàn không cho phép những phu tù của họ có Kinh Thánh. Thủy thủ đoàn của chiếc Pueblo đọc Kinh Thánh với nhau bằng ký ức. Mỗi người nhớ lại những câu Kinh Thánh mà họ có thể nhớ. Họ viết chúng ra trên những mẫu giấy. Nếu quyển Kinh Thánh của quí vị có chứa những câu Kinh Thánh mà quí vị có thể nhớ, quí vị có thể nhớ được bao nhiêu câu nào? -- Robert C. Shannon, 1000 Windows, (Cincinnati, Ohio. Standard Publishing Company, 1997).
3. Phần thưởng khác đã được ban ra ở đây bởi Đấng Christ, ấy là họ sẽ có sự bình an!
a. Không phải là sự bình an giống như thế gian biết đâu, sự bình an ấy có bản chất tạm thời mà thôi.
b. Còn sự bình an chỉ có Đức Chúa Trời ban ra cho con người, sự bình an ấy là đời đời.
4. Loại bình an nầy có thể tồn tại dầu ở giữa tình trạng hỗn độn, sự bình an đời nầy chỉ tồn tại khi mọi sự thuận tiện trong hoàn cảnh.
5. Sự hiện diện của Đức Thánh Linh nơi người tin Chúa cung ứng cho chúng ta một cái nhân bình an cho toàn bộ đời sống của chúng ta!
MINH HOẠ. Thân thể của con người là một bộ máy rất đáng nhớ. Nó có thể duy trì một nhiệt độ thường trực 98o6F bất luận thời tiết ở bên ngoài có như thế nào! Trong trường hợp một người đang ở vĩ tuyến 66o Bắc, vòng Bắc cực hay ở nơi xích đạo, nhiệt độ thân thể của con người y như nhau. Có một cổ máy ở bên trong đang tạo ra sự khác biệt. Đức Thánh Linh ngự bên trong Cơ đốc nhân đang hoàn tất loại ổn định nầy theo những giới hạn của sức khoẻ thuộc linh. Dù chúng ta đối mặt với những thời điểm tốt hay xấu, dầu chúng ta bị thử thách hay nhận lãnh sự trưởng dưỡng thuộc linh, Đức Thánh Linh giữ chúng ta được ổn định ở bên trong -- Robert C. Shannon, 1000 Windows, (Cincinnati, Ohio. Standard Publishing Company, 1997).
6. Cũng vậy, trong mọi sự nầy; Đấng Christ là ĐƯỜNG ĐI, LẼ THẬT và SỰ SỐNG…và với lời hứa của Thánh Linh Ngài, chúng ta có thể lắng nghe lời của Ngài: "Đừng bối rối và đừng sợ hãi".
a. Đây là bông trái của những ai yêu mến, vâng theo Ngài và là người biết rõ đường đi, lẽ thật và sự sống!
b. Quí vị không phải lạc lỏng trong cuộc sống, quí vị đã tìm được đường chưa?
PHẦN KẾT LUẬN. Chúa Jêsus là con dường duy nhứt đến với những việc có vấn đề nhất trong vũ trụ. Tình trạng công bằng được bảo đảm bởi Đức Chúa Trời cho mọi sự nhưng có một con đường duy nhứt đến với Ngài, và cũng dễ tìm được Ngài khi chỉ có một con đường duy nhứt. Quí vị đang đi đường riêng mình hay đường của Đức Chúa Trời? Đi theo chiều không đúng trên con đường một chiều là rất nguy hiểm!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét