Thứ Hai, 8 tháng 3, 2010

I Côrinhtô 11.1-16: "Ơn kêu gọi long trọng của Đức Chúa Trời dành cho nữ giới – Phần 2"



I CÔRINHTÔ – HỘI THÁNH GẶP RẮC RỐI
Ơn kêu gọi long trọng của Đức Chúa Trời dành cho nữ giới – Phần 2
I Côrinhtô 11.1-16
Tuần qua, tôi đã bắt đầu sứ điệp nầy nói tới các vai trò khác nhau của người nam người nữ trong Hội Thánh. Tôi đã nói cho bạn biết thể nào trong đời sống tôi các vai trò của nữ giới trong xã hội chúng ta đã thay đổi rất quyết liệt. Giờ đây nữ giới tiếp tục các vai trò truyền thống của họ, nhưng cũng có nhiều áp lực hiện đại được thêm vào cho họ. Tôi không dám chắc nữ giới đã được giải phóng; thay vì thế, họ đã được giao cho nhiều việc để làm. Như thế có phải là tiến bộ không?
Trong nửa thế kỷ vừa qua, đã có một sự xuất hiện các vai trò khác nhau của nam và nữ giới. Với mục tiêu bình đẳng của cả hai phái tính, những dị biệt tự nhiên giữa nam và nữ giới đều không còn được tính đến. Ở một số trường hợp, các kết quả cho thấy không đi tới đâu, trong những trường hợp khác nữa thì rất bi thảm. Kinh Thánh chép trong Sáng thế ký 1.27: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ”. Ngay cả những người chối bỏ uy quyền của Lời Đức Chúa Trời đều hiểu rõ rằng nam và nữ giới suy nghĩ khác nhau, cảm xúc và hành động khác nhau. Nữ giới làm tròn những vai trò mà không một nam giới nào có thể đảm nhận được. Người nam làm tròn các vai trò mà không một người nữ nào có thể đảm đương được. Rõ ràng luật tự nhiên và lý luận dạy cho chúng ta biết rằng nam và nữ giới là khác nhau và được trang bị cho các phần việc khác nhau.
Về mặt lịch sử cho thấy rằng nữ giới thường bị ngược đãi và lạm dụng bởi nam giới. Trong nhiều xã hội đời xưa, nữ giới bị coi rẻ hơn tài sản, giống như một con lừa hay con chiên. Họ là hạng tôi tớ hay nô lệ đối với chồng của họ. Tuy nhiên, khi chúng ta đọc lịch sử của Kinh Thánh, chúng ta thấy giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời, vai trò của nữ giới được nâng cao. Hãy đọc về các vị tộc trưởng xem. Hãy chú ý tình yêu của Ápraham dành cho người vợ xinh đẹp của mình là Sara. Hãy nhìn xem thể nào trái tim của Ysác đã nhảy nhót vì Rêbeca. Hãy xét xem thể nào Giacốp đã lao động những 14 năm để đòi cho kỳ được Rachên làm cô dâu của mình. Xuyên suốt lịch sử cứu chuộc đã có một sự thăng hoa trong vai trò của nữ giới, sâu xa hơn bất cứ đâu khác trong xã hội thế tục.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trong phản ứng đối với sự áp bức của quá khứ, các vấn đề của nữ giới đã bị đẩy ra trước mặt tiền của xã hội chúng ta. Tôn giáo thuộc thế giới trần tục của thời buổi kêu gọi chịu đựng. Bất kỳ người nào đề nghị chúng ta phải tiến sâu hơn với sự pha trộn giống bị cho là mù quáng không thể chịu được. Thái độ nầy lan vào trong Hội Thánh với nhiều cấp độ. Mặc dù Kinh Thánh nói rõ ràng rằng một trong những đức tính chính dành cho một vị Mục sư hay cấp lãnh đạo Hội Thánh, ấy là người phải là “chồng của một vợ”, nhiều Hội Thánh có các Mục sư và cấp lãnh đạo là nữ giới (I Timôthê 3.2). Mặc dù Kinh Thánh nói rõ: “Hỡi người làm vợ, phải phục chồng mình như vâng phục Chúa”, một phần lớn hệ phái Báptít lớn nhất cho rằng đây là sự dạy rất xưa không nên đem vào trong gia đình hiện đại.
Bạn có nhìn thấy nan đề chưa? Xã hội hiện đại, thậm chí Hội Thánh hiện đại không hiểu hay không đồng ý với những sự dạy rõ ràng của Kinh Thánh liên quan đến vai trò của nữ giới. Vì vậy họ nói các vấn đề nầy cần phải được giải thích theo ánh sáng của xã hội rồi vì thế chúng chẳng có ý nghĩa gì cho chúng ta hôm nay. Khi nói như thế, họ ám chỉ rằng các trước giả Kinh Thánh đã dạy dỗ các thói tục riêng và những ý kiến riêng trong xã hội của họ để thêm vào lẽ thật thiêng liêng đã được tỏ ra rồi của Đức Chúa Trời. Quan điểm nầy cho rằng Kinh Thánh là một tổng hợp ý kiến của con người, thói tục trong xã hội và lẽ thật thiêng liêng. Nếu chúng ta đồng ý như thế thì chúng ta phải đối mặt với việc quyết định đâu là dư luận không đáng tin và đâu là lẽ thật đời đời được Đức Chúa Trời cảm thúc!?! Khi quyết định nư thế là tự đặt mình làm quan xét đối với Lời của Đức Chúa Trời. Về mặt cơ bản, đây là một nổ lực để khiến Kinh Thánh nói ra những điều mà họ muốn Kinh Thánh phải nói. Nhưng chúng ta không tiếp cận Kinh Thánh theo một phương thức như thế. Chúng ta ngồi nơi chơn của Kinh Thánh. Chúng ta muốn toàn thể mưu luận của Đức Chúa Trời. Chúng ta nhớ rằng “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình” (II Timôthê 3.16).
Phải nhìn nhận phân đoạn Kinh Thánh nầy rất là khó. Tuy nhiên, khi chúng ta giải thích Kinh Thánh, chúng ta hiểu rằng có những phần ứng dụng ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhứt là huấn thị đặc biệt cho một nhóm người đặc biệt ở một thời điểm đặc biệt trong lịch sử. Cấp độ thứ hai, ấy là những huấn thị đặc biệt nầy thường chứa những nguyên tắc siêu văn hóa, luôn luôn áp dụng với mọi người trong từng xã hội.
Thí dụ, không có tranh chiến gì với thịt được đem cúng cho thần tượng. Tuy nhiên, khi Kinh Thánh nhắc tới vấn đề đặc biệt đó, Kinh Thánh dạy nguyên tắc của sự tự do Cơ đốc. Tương tự, trong phân đoạn Kinh Thánh nầy chúng ta đang bàn đến phần ứng dụng đặc biệt về sự nữ giới từ chối không chịu mang mạng che mặt trong sự thờ phượng chung của Hội Thánh. Không có một người nữ nào ở đây đang mang mạng che mặt hết. Rõ ràng, đây không phải là một nan đề cho chúng ta ngày hôm nay.
Tuy nhiên, các nguyên tắc bao quát mà chúng ta có thể áp dụng, ấy là nguyên tắc phục theo quyền bính và chấp nhận các vai trò khác nhau của nam và nữ giới. Chúng ta hãy ôn lại vắn tắt các câu 2-10 và kế đó chúng ta sẽ tiếp tục bằng cách xem xét từng chi tiết các câu 11-16. Ở câu 2, Phaolô đưa ra lời “ngợi khen” vì họ giữ gìn “những điều dạy dỗ” theo Kinh Thánh mà ông đã cung ứng cho họ trong 18 tháng ông ở lại với họ. Ở câu 3, ông đề ra khuôn mẫu của sự thuận phục. Ông dạy rằng “Đấng Christ là đầu mọi người”. Đấng Christ là đầu của Hội Thánh, mà còn có uy quyền trên hết thảy mọi người nữa. Một ngày kia mỗi đầu gối sẽ quì xuống trước quyền lãnh đạo của Ngài. Thứ hai, “người đờn ông là đầu người đờn bà”. Đây là phần rất khó.
Mặc dù Kinh Thánh dạy rằng “...không còn đàn ông hoặc đàn bà; vì trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một” và chúng ta là “vì họ sẽ cùng anh em hưởng phước sự sống” Đức Chúa Trời vẫn dựng nên chúng ta vì những vai trò khác nhau (Galati 3.28; I Phierơ 3.7). Nữ giới không thua kém đối với nam giới, nhưng họ là sự trọn vẹn của nam giới. Xác thịt của một người nữ tranh chiến với sự thuận phục. Tuy nhiên những người nữ tin kính học biết sống giàu ơn trong các vai trò của họ. Hãy xem Châm ngôn 31. Câu 3 nói cho chúng ta biết rằng “Đức Chúa Trời là đầu của Đấng Christ”.
Ngay cả Đấng Christ cũng phải thuận phục. Ngài nêu gương thuận phục cho hết thảy chúng ta. Câu 4 nói đến một người nam “làm nhục đầu mình” bằng cách thờ phượng với việc “trùm đầu lại”. Hình ảnh ở đây cho thấy một người mang mạng che mặt trong buổi thờ phượng. Tôi e bất kỳ người nam nào trong thành Côrinhtô đều đã làm vậy; Phaolô chỉ sử dụng hình ảnh ấy như một minh họa cho mục tiêu của ông. Đây sẽ là cung cách của người đàn ông giống như đàn bà khi mang mạng che mặt, giống như một người đàn ông mặc váy đi nhà thờ hôm nay vậy. Dường như là lố bịch thậm chí thiếu thẫm mỹ cho đàn ông khi hành động giống như đàn bà, tương tự thế thật là không tự nhiên cho nữ giới khi hành động giống như nam giới. Ở các câu 5-6 chúng ta đọc về mạng che mặt. Trong xã hội Hy lạp mạng che mặt của người nữ làm biểu tượng cho sự nàng thuận phục đối với chồng của mình. Nàng dành để vẻ đẹp của mình cho riêng một mình chàng mà thôi. Rõ ràng có một số phụ nữ đã cởi bỏ mạng che mặt của họ, thậm chí họ làm vậy khi bước vào nhà thờ. Mục đích, ấy là những người nữ tin kính không nên hành động giống như những người nữ sống theo đời nầy. Nàng cũng như chúng ta phải “cạo đầu” hay “hớt tóc”. Cho phép tôi nói một lần nữa trong tuần lễ nầy, rằng người nữ tin kính không nên ăn mặc giống như người nữ theo đời nầy. Những người chồng tin kính không muốn vợ của họ ăn mặc theo cách đó. Những người cha Cơ đốc sẽ nhìn thấy cách ăn mặc đó và cho rằng con gái của họ đã ăn mặc theo đúng mốt.
Câu 7 dạy nguyên tắc đặc biệt, một người đàn ông sẽ không trùm đầu mình lại vì trùm đầu sẽ giống như người đàn bà. Người được dựng nên theo “hình ảnh và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”. Người phải vui mừng trong nam tính của mình. Người phải nam tính trong từng cm một. Ăn mặc hay làm bất cứ điều chi giảm bớt nam tính của mình là sĩ nhục sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là Đấng mình được dựng nên theo ảnh tượng của Đấng ấy. Câu 7 chép: “đờn bà là sự vinh hiển của đờn ông”. Câu 8 chép: “Bởi chưng không phải đờn ông ra từ đờn bà, bèn là đờn bà ra từ đờn ông”. Đức Chúa Trời đã dựng nên Êva để làm cho Ađam được trọn vẹn. Ađam bất toàn nếu không có nàng. Câu 9 dạy rằng người đàn bà được dựng nên “vì cớ đàn ông”. Êva được dựng nên vì cớ Ađam. Trong mối quan hệ nầy, Đức Chúa Trời đã ban cho đàn ông chiếc áo choàng của chức năng lãnh đạo. Người đàn ông có quyền mà cũng có trách nhiệm nữa.
Đức Chúa Trời dựng nên người nữ để chăm sóc gia đình và trợ giúp cho người nam. Bất cứ khi nào các vai trò nầy đã được Đức Chúa Trời ấn định bị lu mờ đi, lộn xộn sẽ nổ ra. Một người đàn bà nào chiếm lấy quyền trên đàn ông, đặc biệt là chồng mình thực sự không bao giờ được hạnh phúc. Câu 10 chép: “Bởi đó, vì cớ các thiên sứ, đờn bà phải có dấu hiệu trên đầu chỉ về quyền phép mình nương cậy”. Những người nữ ở thành Côrinhtô đều mang mạng che mặt làm biểu tượng cho sự họ thuận phục và chấp nhận các vai trò mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Phaolô cũng nhắc nhở họ nên làm theo “vì cớ các thiên sứ”. Các thiên sứ đã nhìn thấy Lucifer cùng các kẻ theo hắn nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Họ ghét sự loạn nghịch. Kinh Thánh cũng dạy rằng họ có sở thích rất lớn nơi Hội Thánh và Hội Thánh công bố ân điển của Đức Chúa Trời cho các tạo vật thuộc hàng thiên sứ biết (I Phierơ 1.12; Êphêsô 3.8-10). Đối với một người nữ nổi loạn là làm mất lòng đội binh thiên sứ đang vây quanh chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy bước vào các câu còn lại trong phân đoạn Kinh Thánh nầy và học biết hai lẽ thật quan trọng: Nam Và Nữ Giới Phụ Thuộc Nhau và Nam Và Nữ Giới Khác Biệt Nhau Về Mặt Tự Nhiên.
I. Nam Và Nữ Giới Phụ Thuộc Nhau (các câu 11-12).
A. NAM VÀ NỮ GIỚI NƯƠNG CẬY NHAU (các câu 11-12a).
Câu 11 chép: “Song trong Chúa thì chẳng phải đờn bà ngoại đờn ông, cũng chẳng phải đờn ông ngoại đờn bà”. Một phần trong bản chất tội lỗi của đàn ông là phải quản trị đàn bà. Các nền văn hóa xưa, đặc biệt là văn hóa của Hy lạp và La mã đã áp bức nữ giới. Họ bị xem là tài sản của chồng họ và bị bán đi giống như thú vật. Cho nên không có gì là lạ khi lịch sử ghi lại tính phổ biến của giống cái trong các nền văn hóa xưa kia. Thực vậy, cái điều Phaolô nói tới đặc biệt trong phân đoạn Kinh Thánh nầy là thuyết nam nữ bình quyền đã lan tràn vào trong Hội Thánh. Trong thời của Chúa Jêsus, những người nam Do thái đã thường xuyên và dễ dàng sử dụng các luật ly dị. Họ coi khinh nữ giới giống như một lời cầu nguyện hay có như sau: “Con cảm tạ Ngài là Đức Chúa Trời vì con không sanh ra là một nô lệ, một người Ngoại bang, hay một người nữ”.
Dù vậy, câu nầy dạy cho chúng ta biết rằng đàn ông không trọn vẹn nếu không có đàn bà, nhưng đàn bà không thể trọn vẹn nếu không có đàn ông. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo khiến cho chúng ta phải sống phụ thuộc lẫn nhau. Khi mở ra các mối quan hệ của nam và nữ giới, sự thuận phục thích ứng có hai thái cực. Thứ nhứt, có chủ nghĩa sô-vanh triệt để thiên về người nam. Quan điểm nầy cho rằng người nam siêu việt đối với người nữ và người nữ chỉ tồn tại để phục vụ các nhu cần của người nam. Từ các nền văn hóa xưa kia cho đến văn hóa pop hiện đại, có người luôn luôn duy trì quan điểm nầy và xuyên tạc xấu về sự thuận phục theo Kinh Thánh.
Thứ hai, cực kia là thuyết nam nữ bình quyền. Một số người nữ không muốn chỉ phục sự cho nam giới. Họ muốn chiếm lấy vai trò của nam giới trong gia đình, trong Hội Thánh và trong cộng đồng. Thường thì đây là một phản ứng đối với quyền quản trị của nam giới không theo Kinh Thánh. Tuy nhiên, đây cũng là một thái cực mất cân đối, phi Kinh Thánh. Những người nữ tin kính luôn luôn đóng một vai trò quan trọng trong công việc của Chúa. Khi Hội Thánh nhóm lại trên phòng cao để chờ đợi sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, Công Vụ các Sứ đồ 1.14 thuật lại co chúng ta biết rất đặc biệt là phần nhiều trong 120 người đều là nữ giới.
Một trong những người nữ đã trở nên rất quan trọng trong Hội Thánh đầu tiên là một người nữ có tên là Mary. Bà là mẹ của Giăng Mác, là người đã cùng đi với Phaolô và Banaba rồi sau đó đã phục vụ Phierơ và đã viết sách Tin Lành mang tên ông. Công Vụ các Sứ đồ 12.12 chép về Mary: “Người suy nghĩ lại điều đó, rồi đến nhà Ma-ri, mẹ của Giăng, cũng gọi là Mác, là nơi có nhiều người đang nhóm lại cầu nguyện”. Có người tin “phòng cao” được nhắc tới trong Công Vụ các Sứ đồ 1 chắc chắn là nhà của Mary.
Tại thành Philíp, những kẻ trở lại đạo đầu tiên của Phaolô đều là nữ giới. Một trong số họ là Lyđi. Công Vụ các Sứ đồ 16.14 chép: “Chúa mở lòng cho người, đặng chăm chỉ nghe lời Phao-lô nói”. Ở câu 15 bà nói: “Nếu các ông đã đoán tôi là trung thành với Chúa, thì hãy vào nhà tôi, mà ở lại đó; rồi người ép mời vào”. Chúa đã mở lòng bà ấy, còn bà thì mở cửa nhà mình. Dường như Hội Thánh đã nhóm lại trong nhà của bà. Sau trận động đất, sự giải cứu Phaolô ra khỏi ngục và sự trở lại đạo của viên cai ngục, câu 40 chép: “Khi ra ngục rồi, hai sứ đồ vào nhà Ly-đi, thăm và khuyên bảo anh em, rồi đi”.
Ở thành Côrinhtô, Phaolô đã gặp đôi vợ chồng chuyên nghề may trại tên là Aquila và Bêrítsin. Họ làm việc chung với nhau trong nghề nghiệp và đặc họ đã giúp đỡ nhiều cho Phaolô. Về sau Bêrítsin đã được Chúa đại dụng để hướng dẫn phần thần học chưa toàn vẹn của nhà truyền đạo Abôlô. Công Vụ các Sứ đồ 18.26 chép: “Bê-rít-sin và A-qui-la nghe giảng, bèn đem người về với mình, giải bày đạo Đức Chúa Trời cho càng kĩ lưỡng hơn nữa”.
Khi Phaolô kết thúc sách Rôma, ông đã dành trọn chương cuối cho những lời lẽ riêng tư với bạn hữu và bạn đồng sự. Người đầu tiên được nhắc tói là một người nữ có tên là Phêbê. Rôma 16.1-2 chép: “Tôi gởi gắm Phê-bê, người chị em chúng ta cho anh em, người làm nữ chấp sự của Hội thánh Xen-cơ-rê. Hãy ân cần tiếp rước người trong Chúa chúng ta, một cách xứng đáng với thánh đồ, và hãy giúp đỡ người trong mọi dịp mà người sẽ cần đến anh em; vì chính người đã giúp nhiều kẻ, và cũng giúp tôi nữa”.
Có nhiều, nhiều phụ nữ đã được mô tả trong Kinh Thánh, họ đã đóng nhiều vai trò nòng cốt trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Lịch sử Hội Thánh thuật lại hàng triệu triệu người nữa. Tôi đã nhìn thấy trong chính chức vụ của tôi và tin thực sự trên khắp thế giới, có nhiều nơi nữ giới là xương sống của Hội Thánh. Có nhiều Hội Thánh trong đó nam giới làm việc nhỏ, còn nữ giới thì đảm trách công việc lớn. Nhiều Hội Thánh sẽ không tồn tại nếu không có công tác trung tín của những người nữ tin kính. Mẹ tôi là cấp lãnh đạo thuộc linh quan trọng nhất rất sớm trong cuộc đời tôi. Bà đã dạy tôi những câu chuyện Kinh Thánh và đã giúp tôi học thuộc lòng Kinh Thánh từ hồi còn nhỏ. Những giáo sư dạy lớp Trường Chúa nhựt cho Phụ nữ đã được xây dựng trên cái nền của mẹ tôi. Tôi sẽ không trở nên như người ngày hôm nay nếu không có ảnh hưởng và tình yêu thương của những người nữ tin kính.
Nữ giới phải phụ thuộc vào nam giới, phải, nhưng nam giới cũng phải phục thuộc vào nữ giới nữa. Nhận định theo Kinh Thánh tìm cách cân đối và chối bỏ những quan điểm cực đoan. Hãy chú ý một lần nữa trong câu 11: “Song trong Chúa thì chẳng phải đờn bà ngoại đờn ông, cũng chẳng phải đờn ông ngoại đờn bà”. Mệnh đề “trong Chúa” rất là quan trọng. Chúng ta tuyệt đối có sự bình đẳng “trong Chúa”. Là anh chị em chúng ta cùng nhau ở “trong Đấng Christ” và là những kẻ đồng kế tự với Ngài. Trong Hội Thánh, nữ giới quan trọng y như nam giới. Họ nắm giữ những vai trò tuy khác nhau, nhưng đồng quan trọng.
“Trong Chúa” en kurios cũng có ý nói “bởi sự chỉ định thiêng liêng”, nghĩa là, “theo ý chỉ của Chúa”. Nói cách khác, Đức Chúa Trời đã ấn định sự ấy theo cách nầy. Đó là ý chỉ của Ngài, quyết định của Ngài là người nam người nữ sẽ sống chung với nhau, làm việc chung với nhau và làm cho nhau được trọn vẹn. Giờ đây hãy chú ý câu 12a. Ở đây chép: “vì, như đờn bà đã ra từ đờn ông, thì đờn ông cũng sanh bởi đờn bà…”. Đức Chúa Trời đã dựng nên người nữ đầu tiên từ người nam. Nàng ra từ thân thể của chính người nam. Tuy nhiên, kể từ thời điểm đó, mỗi người nam đều ra từ thân thể của một người nữ. Đấy là một minh họa trọn vẹn của nguyên tắc phụ thuộc lẫn nhau.
B. HẾT THẢY CHÚNG TA ĐỀU NƯƠNG CẬY ĐỨC CHÚA TRỜI (câu 12b).
Câu 12b chép: “…và cả thảy đều ra bởi Đức Chúa Trời”. Nói cách khác, sự khôn ngoan, tình yêu thương và quyền phép của Đức Chúa Trời đang đổ ra trên mọi loài thọ tạo. Chúng ta phụ thuộc lẫn nhau nhưng hoàn toàn nương cậy vào Đức Chúa Trời. “Cả thảy” đặc biệt các vai trò khác nhau của người nam và người nữ “đều ra bởi Đức Chúa Trời”. Trước khi chúng ta chuyển sang phần tư tưởng sau cùng, chúng ta hãy xem I Timôthê 2.9-15 và chỉ ra vắn tắt ba điểm khác biệt trong các vai trò của nam và nữ giới trong Hội Thánh.
Sự khác biệt thứ nhứt nằm trong cách chúng ta ăn mặc. Phaolô nói trong các câu 9-10: “Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá, nhưng dùng việc lành, theo lẽ đang nhiên của người đàn bà tin kính Chúa”. Nữ giới cần phải cẩn thận trong cách họ ăn mặc vì họ ăn mặc như thế nào là một phần trong sự làm chứng của họ.
Điểm khác biệt thứ hai nằm trong cách thức chúng ta tiếp thu. Câu 11 chép: “Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng”. Đàn bà không được lớn tiếng hay khó chịu. Đàn bà không nên chiếm lấy hay thắc mắc công khai sự dạy của nam giới trong Hội Thánh vì làm vậy sẽ vi phạm sự thuận phục theo Kinh Thánh.
Điểm khác biệt thứ ba nằm trong cách chúng ta dạy dỗ. Câu 12 chép: “Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông; nhưng phải ở yên lặng”. Câu 15 chép: “Dầu vậy, nếu đàn bà lấy đức hạnh mà bền đỗ trong đức tin, trong sự yêu thương, và trong sự nên thánh, thì sẽ nhân đẻ con mà được cứu rỗi”. Nữ giới không được dạy dỗ nam giới. Tuy nhiên, một số giáo sư lỗi lạc nhất của tôi đều là nữ giới. Họ đã phụ giúp nắn đúc cuộc đời tôi từ khi còn nhỏ. Nữ giới được “cứu rỗi” từ chỗ thấp kém hơn nam giới bởi chính sự thực là họ ban sự sống cho những đứa con trai và dạy dỗ chúng thành người. Đàn ông dạy dỗ trong Hội Thánh, nhưng đàn bà dạy dỗ trong gia đình.
II. Nam Và Nữ Giới Khác Nhau Về Mặt Tự Nhiên (các câu 13-16).
A. CÁC VAI TRÒ KHÁC NHAU CỦA NAM VÀ NỮ GIỚI LÀ RẤT HIỂN NHIÊN (các câu 13-15).
Câu 13 chép: “Chính anh em hãy đoán xét điều nầy: đờn bà cầu nguyện Đức Chúa Trời mà không trùm đầu là hiệp lẽ chăng?” Nói cách khác, hãy biệt riêng thẩm quyền của Đức Chúa Trời ra và chỉ suy nghĩ cho hợp lý, hay xét đoán cho bản thân mình. Chính lẽ tự nhiên cho thấy rằng nam và nữ giới đã được dựng nên rất khác nhau.
Câu 14 hỏi: “Chính lẽ tự nhiên há chẳng dạy cho anh em biết đờn ông để tóc dài thì lấy làm hổ thẹn sao?” Bây giờ, đây là một câu đã được sử dụng để khuấy đảo cuộc trò chuyện. Khi tôi còn là một thanh niên trong thập niên 1970 thì để tóc dài là việc rất phổ thông. Bản thân tôi cũng từng có mái tóc để dài. Tôi đã nghe những nhà truyền đạo sử dụng câu nầy để tìm cách thuyết phục lứa tuổi thanh niên rằng mái tóc để dài là phi Kinh Thánh.
Tôi thích câu chuyện kể về chàng thanh niên kia trở lại thời buổi có mái tóc dài hơn cha mình ưa thích. Anh ta muốn có một chiếc xe và cha anh ta bảo anh ta cần phải cắt tóc đi nếu anh ta mong được giúp để mua chiếc xe. Anh ta đáp: “Nhưng cha ơi, Chúa Jêsus có mái tóc dài mà”. Cha anh ta đáp: “Đúng đấy con, nhưng Chúa Jêsus đã đi bộ bất cứ đâu Ngài muốn đến”.
Nói theo cách riêng tư, câu nầy chỉ có ý nói rằng nam giới theo lẽ tự nhiên thì có mái tóc ngắn hơn nữ giới. Không biết phải xác định mái tóc dài chừng nào nhưng Kinh Thánh chỉ nói cho chúng ta biết nếu đàn ông để tóc dài hơn người đàn bà thì đáng “hổ thẹn” cho người ấy. Một lần nữa, mục đích cho thấy rằng người nam theo lẽ tự nhiên trông khác hơn đối với người nữ và sẽ làm vinh hiển cho nam tính của họ chớ không phải làm giống theo phái nữ. MacArthur viết: “Nam và nữ giới đều có những triết lý riêng biệt trong nhiều cách thức. Một trong số đó nằm trong quá trình để tóc mọc trên đầu. Tóc phát triễn theo ba chặng đường — hình thức và mọc dài ra, chựng lại, rồi rụng xuống. Kích thích tố sinh dục nam dẫn tới chu kỳ đưa người nam đến chặng thứ ba sớm hơn người nữ. Kích thích tố sinh dục nữ khiến cho chu kỳ khựng lại ở chặng một trong một thời gian dài, khiến cho tóc người nữ mọc dài hơn tóc của người nam. Nữ giới hiếm khi hói đầu vì ít người lên tới chặng thứ ba. Triết lý nầy được phản ánh trong hầu hết các nền văn hóa trên thế giới trong tục lệ nữ giới tóc dài hơn nam giới”.
Ngược lại, câu 15 chép: “Nhưng, nếu đờn bà để tóc dài thì là lịch sự cho mình, vì đã ban tóc dài cho người, dường như khăn trùm vậy”. Giống như người nam sẽ làm vinh hiển cho nam tính của mình, người nữ sẽ làm vinh hiển cho nữ tính của mình. Mái tóc của nàng là một biểu tượng cho nữ tính của nàng. Mái tóc ấy là “lịch sự cho mình”. Mái tóc nâng cao vẻ đẹp của nàng. Mái tóc ấy được “ban cho người, dường như khăn trùm vậy”, một cái mạng tự nhiên. Vì vậy phần ứng dụng đặc biệt dành cho những người nữ trong thành Côrinhtô là phải mang mạng che mặt và phải thuận phục đối với chồng của họ. Nguyên tắc bao quát dành cho chúng ta và hết thảy các tín đồ ở khắp mọi nơi, ấy là chúng ta không nên từ bỏ các vai trò mà Đức Chúa Trời ban cho trong vai trò nam và nữ giới. Chúng ta phải làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời Ngài là Đấng dựng nên chúng ta và chúng ta phải sống phụ thuộc vào nhau.
B. MỘT CÂU TRẢ LỜI CHO TÌNH TRẠNG BẤT ĐỒNG (câu 16).
Câu 16 chép: “Bằng có ai muốn cãi lẽ, thì chúng tôi không có thói quen ấy, mà các Hội thánh Đức Chúa Trời cũng không có nữa”. Tôi thấy rất thú vị ở chỗ thậm chí trong thời của Phaolô, trước khi kinh Tân Ước được hoàn tất, đã có hạng người “cãi lẽ” trong các Hội Thánh, họ muốn tranh luận. Thực vậy, “cãi lẽ” ra từ chữ philoneikos (phileo – yêu; neiko – tranh cạnh) có ý nói “những kẻ thích tranh cạnh”. Có một số người THÍCH tranh luận.
Vì thế, nếu bạn muốn “cãi lẽ” về những vấn đề nầy, hãy nhìn biết rằng “chúng tôi không có thói quen ấy, mà các Hội thánh Đức Chúa Trời cũng không có nữa”. Khuôn mẫu theo Kinh Thánh về sự thuận phục được đề ra rõ ràng căn cứ theo mối quan hệ của Ba Ngôi Đức Chúa Trời (câu 3), phần ấn định thiêng liêng về người nam và người nữ (câu 7), trình tự của sự sáng tạo (câu 8), vai trò của người nữ (câu 9), sở thích của hàng thiên sứ (câu 10), và sự làm chứng hiển nhiên của tự nhiên (các câu 13-15). Hãy đóng ngoặc đơn: “Nếu ai muốn tranh luận về quan niệm thuận phục trong Kinh Thánh, bạn sẽ không tìm thấy sự bất đồng nào giữa vòng các sứ đồ hay trong bất kỳ một Hội Thánh nào của Đức Chúa Trời”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét