Thứ Hai, 8 tháng 3, 2010

I Côrinhtô 8.1-13: "Những khu vực xám – Phần 1"



I CÔRINHTÔ – HỘI THÁNH GẶP RẮC RỐI
Những khu vực xám – Phần 1
I Côrinhtô 8.1-13
Kinh Thánh rất đặc biệt vì chứa rất nhiều vấn đề. Chúng ta biết tuyệt đối chắc chắn rằng chúng ta không nên giết người, trộm cắp, nói dối, nói xấu, tham lam hay dính dáng đến gian dâm. Chẳng có gì tối nghĩa khi Kinh Thánh dạy rằng đời sống chúng ta cần phải được đánh dấu bởi sự thờ phượng Đức Chúa Trời, hiểu biết Ngôi Lời, yêu thương kẻ lân cận, và giàu ơn trong các mối quan hệ của chúng ta. Cả hai mặt tích cực và tiêu cực, Kinh Thánh cung ứng cho chúng ta nhiều sự dạy gồm cả trắng và đen.
Tuy nhiên, có nhiều vấn đề trong đó Kinh Thánh chẳng đưa ra một mạng lịnh nào rõ ràng cả. Chúng ta có thể gọi những chỗ nầy là “các khu vực xám”. Chúng không trắng mà cũng chẳng đen. Chẳng có câu trả lời nào là dễ dàng hết. Có những tín hữu thành thực, họ không đồng ý với cách thức lý giải chúng. Một số trường hợp uống rượu, hút thuốc và cờ bạc. Với nhiều hệ phái và nhà thờ, các vấn đề nầy bao gồm cả khiêu vũ, thời trang, xem xinê. Lý do chúng ta phấn đấu với “các khu vực xám”, ấy là chúng đặc biệt không bị cấm trong Kinh Thánh. Chúng ta không thể lấy uy quyền mà nói nghịch với chúng được.
Công vụ Các Sứ đồ 15 mô tả giáo hội nghị đầu tiên của Hội Thánh tại thành Jerusalem. Họ đã nhóm lại để bàn thảo rồi quyết định dân Ngoại khi trở thành Cơ đốc nhân có nên chịu phép cắt bì và tuân giữ Luật pháp Môise hay không, và hoà nhập với các dân Ngoại đã trở lại đạo có sai lầm hay không!?! Các sứ đồ cùng những trưởng lão đã nhóm lại với nhau, họ nghe phần làm chứng từ cả hai nhận định. Sau cùng, Giacơ, Mục sư và là trưởng lão lãnh đạo Hội Thánh tại thành Jerusalem đã nói: “Vậy, theo ý tôi, thật chẳng nên khuấy rối những người ngoại trở về cùng Đức Chúa Trời; song khá viết thơ dặn họ kiêng giữ cho khỏi sự ô uế của thần tượng, sự tà dâm, sự ăn thịt thú vật chết ngột và huyết” (Công vụ Các Sứ đồ 15.19-20). Đây là một “khu vực xám” cần phải được ổn định một lần đủ cả.
Trong Đấng Christ, chúng ta có sự tự do rất lớn. Chúng ta có sự tự do Cơ đốc. Chúa Jêsus phán trong Giăng 8.31-32: “Bấy giờ Ngài phán cùng những người Giu-đa đã tin Ngài, rằng: Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đồ ta; các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi”. II Côrinhtô 3.17 chép: “Vả, Chúa tức là Thánh Linh, Thánh Linh của Chúa ở đâu, thì sự tự do cũng ở đó”. Galati 5.1 chép: “Đấng Christ đã buông tha chúng ta cho được tự do; vậy hãy đứng vững, chớ lại để mình dưới ách tôi mọi nữa”.
Có hai thái cực trong “các khu vực xám” nầy. Thái cực thứ nhứt là HÌNH THÁI THIÊN VỀ VỚI LUẬT PHÁP. Người thiên về với luật pháp tin rằng mọi sự phải là trắng và đen, đúng hay sai. Người thiên về với luật pháp sống theo luật lệ thay vì theo Thánh Linh. Người thiên về với luật pháp tuân giữ những bảng danh sách mọi điều mà Cơ đốc nhân thật phải làm theo và không nên làm theo. Người thiên về với luật pháp xem đấy là công việc của họ và theo dõi mọi người sống chung quanh họ. Đời sống của người thiên về với luật pháp bị cai quản bởi luật pháp, chớ không bởi Đức Thánh Linh. Thiên về với luật pháp dập tắt sự tự do.
Thái cực kia là MÔN BÀI. Môn bài nhìn xem mọi sự là trắng. Đấng Christ đã tha thứ cho chúng ta mọi tội lỗi dù bạn đã phạm bao lâu, những gì Kinh Thánh không cấm đoán và bạn không cảm thấy tội lỗi về sự đó, thế là được rồi. I Côrinhtô 8 giúp chúng ta biết cân đối giữa hai thái cực nầy. Bạn có thể nhớ lại rằng người thành Côrinhtô đã viết gửi cho sứ đồ Phaolô một bức thư với nhiều thắc mắc. Ông bắt đầu chương 7 bằng câu nói: “Luận đến các điều hỏi trong thơ anh em…” (7.1). Suốt cả chương 7, ông xử lý với các vấn đề liên quan tới hôn nhân và đời sống độc thân. Tuy nhiên, giờ đây ông bắt đầu chương 8 với: “Luận đến của cúng các thần tượng…” Rõ ràng là người thành Côrinhtô đã có nhiều thắc mắc về hôn nhân, mà còn thắc về vấn đề “của cúng các thần tượng” nữa. Dường như họ đã bị chia ra về điều nầy, vì vậy họ muốn biết rõ sự dạy của Phaolô.
Để đáp lời, Phaolô đề ra ba lẽ thật về sự thờ lạy hình tượng rồi tiếp đến đưa ra một nguyên tắc để giúp cho tất cả các Cơ đốc nhân biết xử lý với “các khu vực xám”. Chúng ta không có thì giờ để bao quát hết toàn bộ phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, vì vậy chúng ta sẽ xem xét ba lẽ thật về sự thờ lạy hình tượng hôm nay rồi tuần sau sẽ nghiên cứu phần nguyên tắc.
I. Lẽ thật 1. Hiểu biết đem lại sự tự do (các câu 1-3).
A. THẮC MẮC DÀNH CHO PHAOLÔ LÀ “VỀ CỦA CÚNG CÁC HÌNH TƯỢNG” (câu 1a).
Mệnh đề nầy “của cúng các thần tượng” ra từ một chữ Hy lạp có nghĩa là “con sinh dâng cho hình tượng”. Đặc biệt có những thức ăn làm của lễ dâng cho hình tượng tiêu biểu cho các tà thần của Rôma và Hy lạp. Dân chúng trong đế quốc La mã đều theo đa thần giáo; họ thờ lạy rất nhiều thần. Có những vị thần thực vật, thần mùa màng, thần du lịch, thần công lý, thần phì nhiêu và cứ thế mà còn nhiều nữa. Họ cũng tin khoảng không kia đầy dẫy với tà linh, chúng tìm cách nhập vào và chiếm hữu con người. Một trong những cách thức mà tà linh nhập vào con người là trói buộc họ với thức ăn. Vì vậy những dị giáo nầy đã phát triển cách thực hành thánh hoá thịt của họ bằng cách trước tiên dâng nó cho các hình tượng. Cách thức nầy đã kiếm cho họ sự ưu ái với các thần của họ và nó thanh tẩy đồ ăn đối với các tà linh, làm cho thịt được an toàn khi ăn.
Con thú được dùng làm con sinh được chia ra làm ba phần. Phần thứ nhứt sẽ được thiêu trên bàn thờ như của lễ chính. Phần thứ hai được dâng cho các thầy tế lễ (giống như các thầy tế lễ của dân Israel). Phần thứ ba được đem về nhà bởi người thờ lạy sau khi được chúc phước bởi các thầy tế lễ và được chứng nhận là tự do đối với các tà linh. Tất nhiên là các thầy tế lễ không thể ăn hết tất cả thịt mà họ đã nhận lãnh, nên nó được đem ra bán ở ngoài chợ. Đây là phiên chợ bán thịt “thánh”.
Rõ ràng, chỉ có những con thú tốt nhứt mới được dùng làm của lễ, vì vậy thịt nầy phải được chọn trước tiên. Khi nó đã được xác nhận là tự do không thuộc về ma quỉ, nó sẽ được xem là có giá trị. Đây là thịt tốt nhứt sẵn có và được phục vụ tại các đám cưới, tiệc lớn và đủ loại tiệc tùng và các cơ hội khác nữa. Thật là khó khi tránh không ăn thịt đã được dâng cho các hình tượng.
Một nhóm tín đồ ở thành Côrinhtô đã vật vã với việc ăn thứ thịt nầy. Trong lý trí của họ, điều nầy sẽ là phạm thượng khi tiếp xúc với sự thờ lạy hình tượng. Đối với một số người, nó nhắc cho họ nhớ tới đời sống của họ trước kia khi họ còn thờ lạy các tà thần. Họ sợ nhiều người khác sẽ nghĩ họ đã chối bỏ Đấng Christ mà quay lại với tà giáo. Vẫn có nhiều người khác tránh né thứ thịt nầy vì nghĩ nó sẽ làm cho họ kém thuộc linh đi.
Nhóm Cơ đốc khác tại thành Côrinhtô hiểu rõ sự tự do của họ trong Đấng Christ. Họ không bị bối rối bởi thịt kia ra từ đâu!?! Đối với họ, thịt là thịt. Họ biết rõ các tà thần nầy không tồn tại và ma quỉ không thể làm ô uế thức ăn được. Họ tự do ăn và thưởng thức thịt nầy dù đã được dâng cho các hình tượng.
B. PHAOLÔ NÓI CHO CHÚNG TA BIẾT RẰNG “CHÚNG TA ĐỀU CÓ SỰ HAY BIẾT CẢ” (câu 1b).
Hãy nhìn vào câu 1: “Luận đến của cúng các thần tượng thì chúng ta biết mình đều có sự hay biết cả”. Tất cả các tín hữu tại thành Côrinhtô đã có “sự hay biết” rằng các tà thần đang được thờ lạy trong mấy đền thờ nầy đã không hiện hữu. Họ đã học biết lẽ thật của Đức Chúa Jêsus Christ. Họ đang sống theo những gì Chúa Jêsus đã phán dạy ở Giăng 8.32: “các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi”.
Một số người đã được giải phóng hoàn toàn bởi sự hay biết nầy. Sự họ nghiên cứu Kinh Thánh đã thuyết phục họ vì các tà thần nầy không hiện hữu, bất cứ thịt nào được kết với các của lễ đều vô hại và rất tốt khi thưởng thức. Thực vậy, văn mạch khiến tôi phải tin các tín hữu nầy không cứ cách nào đó đã kiêu căng trong niềm tin của họ. Họ có khuynh hướng nhìn xuống đối với anh chị em của họ, những kẻ không được an tâm với việc ăn thứ thịt nầy. Sự hay biết của họ đã làm cho họ ra tự xưng công bình và thái độ ấy làm cho họ hỉnh mũi lên đối với anh chị em của họ trong Hội Thánh.
C. PHAOLÔ NHẮC CHO CHÚNG TA NHỚ RẰNG “SỰ HAY BIẾT SANH KIÊU CĂNG” CÒN “SỰ YÊU THƯƠNG LÀM GƯƠNG TỐT” (các câu 1c-3).
Phaolô nói: “chúng ta biết mình đều có sự hay biết cả”. Nói cách khác, Hội Thánh cả thảy đều có “sự hay biết” rằng các tà thần nầy không hiện hữu. Tuy nhiên: “sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt”. Ồ, chúng ta cần sự thông biết về Lời Đức Chúa Trời là dường nào. Tôi đã ở trong chức vụ 20 năm rồi và tôi đã nghiên cứu Kinh Thánh trọn đời sống mình. Tuy nhiên, nếu có một sự thật mà tôi biết chắc, ấy là còn nhiều điều phải nhìn biết hơn là tôi đang biết trong lúc bây giờ nữa! Sự nầy giống như tôi đang leo lên các ngọn núi vậy. Tôi lên tới một đỉnh trong sự hiểu biết của tôi chỉ để nhìn thấy ở đàng xa kia có ngọn núi còn cao hơn cả chỗ tôi đứng đây nữa!
Sứ đồ lỗi lạc Phaolô cứ mãi khao khát sự thông biết về Đức Chúa Trời. Ông đã dâng mình vào sự học hỏi và áp dụng Lời của Đức Chúa Trời. Ông nói ở Rôma 15.4: “Vả, mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh Thánh dạy mà chúng ta được sự trông cậy”. Ông cầu nguyện trong Côlôse 1.9 cho họ được “… đầy dẫy sự hiểu biết về ý muốn của Ngài, với mọi thứ khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng nữa”. Ông cũng khích lệ họ ở câu 10 càng “càng thêm lên trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời”. Ở 3.10 ông bảo họ phải “đổi ra mới theo hình tượng [sự hay biết về] Đấng dựng nên người ấy”.
Hay biết về Lời của Đức Chúa Trời là rất quan trọng. Không may thay, chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mà trong đó, các cấp lãnh đạo Hội Thánh đang lặng đi không nói được Kinh Thánh. Thay vì thúc giục dân sự lên tới những đỉnh cao lạ lùng của sự thông biết Kinh Thánh, họ lại làm giảm đi sự khôn ngoan vô hạn của Đức Chúa Trời tới mẫu số chung thấp nhất. Vấn đề là người ta không thể làm theo những điều họ không biết. Họ không thể vâng theo những gì họ không hiểu. Chúng ta đang sống ở một thời điểm giống như thời buổi của Ôsê khi Đức Chúa Trời phán: “Dân ta bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết” (Ôsê 4.6a). Lý do mà nhiều tín hữu cứ vật vã khó nhọc với tội lỗi như vậy vì họ không “biết lẽ thật” và thế là họ không được “tự do” (đối chiếu Giăng 8.32).
Tôi rất biết ơn vì chúng ta có một nhà thờ đã được cung hiến cho việc tìm kiếm lẽ thật quan trọng của Đức Chúa Trời trong Lời không thể sai lầm, được Ngài cảm thúc! Chúng ta có một hội chúng rất sắc sảo về Kinh Thánh. Đồng thời, chúng ta phải canh chừng cẩn thận để chúng ta không “kiêu căng”. Phaolô nói: “Sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt”. Khi chúng ta không cân đối “sự hay biết” với “tình yêu thương”, chúng ta sẽ kiêu căng và ngạo mạn.
I Côrinhtô 13.4 chép: “Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo”. Sự thông biết thật về Kinh Thánh sẽ không sanh kiêu căng mà sanh ra sự khiêm nhường. Vì chúng ta biết rõ chúng ta là hàng tội nhân bị hư mất chỉ đáng bị xét đoán trong địa ngục và vì chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời trong ân điển lớn lao của Ngài, từ khi sáng thế đã chọn chúng ta để nhờ Đấng Christ mà được cứu, chúng ta đáng phải trở thành hạng người khiêm hạ sống trên bề mặt quả đất. Vì chúng ta hiểu rõ ý nghĩa thật của câu vì “Đức Chúa Trời yêu thương…” chúng ta cũng phải “yêu thương” như vậy. Có tấm gương nào về điều nầy đẹp hơn các chuyên gia tôn giáo trong thời của Chúa Jêsus không? Những người Do thái nầy chắc chắn đã biết rõ Cựu Ước. Từ thuở còn niên thiếu, họ đã học thuộc lòng các phân đoạn lớn trong kinh Cựu Ước. Họ đã mang những câu Kinh Thánh trên các tấm thẻ đựng trong mấy cái hộp nhỏ đeo trước trán của họ gọi là những lá bùa. Tuy nhiên, họ chẳng biết gì về tình yêu thương của Đức Chúa Trời cả. Hãy xem thí dụ quan trọng của Chúa Jêsus nói về người Samari nhơn lành kia. Người Lê vi và thầy tế lễ đã có sự hay biết rất lớn, nhưng họ chẳng biết gì hầu lo cho người nầy bị bỏ lại mà khỏi chết cả.
Hãy chú ý câu 2: “Nếu có ai tưởng mình biết điều gì, thật người ấy chưa biết như mình nên biết”. Câu nầy nghe rất hay, có phải không? Cơ đốc nhân nào đi vòng quanh với suy nghĩ mình đang nắm giữ lẽ thật, thực sự lại “chưa biết như mình nên biết”. Người ấy có sự hay biết đúng đắn song người ấy đang có sự hiểu biết chưa đúng. Thực vậy, như câu 9 chép, người ấy đã trở thành “dịp vấp phạm” cho nhiều người khác.
Câu 3 chép: “Nhưng nếu có một người yêu mến Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời biết người đó”. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời là dấu hiệu của ơn cứu rỗi chơn thật và tình yêu thương của Đức Chúa Trời luôn luôn được tỏ ra qua cách yêu thương những kẻ mà Đức Chúa Trời yêu thương. I Giăng 5.1 chép: “Ai tin Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, thì sanh bởi Đức Chúa Trời; và ai yêu Đức Chúa Trời là Đấng đã sanh ra, thì cũng yêu kẻ đã sanh ra bởi Ngài”. I Giăng 3.14 chép: “Chúng ta biết rằng mình đã vượt khỏi sự chết qua sự sống, vì chúng ta yêu anh em mình. Còn ai chẳng yêu thì ở trong sự chết”.
II. Lẽ thật 2. Hình tượng không có thật (các câu 4-7).
Câu 4 chép: “Vậy, về sự ăn của cúng tế các thần tượng, chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác”. Câu 1 chép: “chúng ta biết mình đều có sự hay biết cả”. Câu 4 giải thích những điều chúng ta biết, nghĩa là “thần tượng trong thế gian thật là hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác”. Kể từ sự Sa Ngã của con người, sự thờ lạy hình tượng đã trở thành một nạn dịch và nó đang tiếp tục dù trong kỷ nguyên hậu hiện đại nầy. Hình tượng đã được làm ra đủ kiểu từ đá, gỗ và các vật liệu quí báu. Tuy nhiên, chúng không có thật.
Nguyên nhân chính cho sự phán xét và sự lưu đày Israel là tình trạng tà dâm của Israel khi chạy theo hình tượng. Sau cuộc lưu đày, người Do thái không còn thờ lạy hình tượng nữa. Bài học đã được tiếp thu. Hãy lắng nghe Chúa phán qua tiên tri Giêrêmi: “Như kẻ trộm bị bắt, xấu hổ thể nào, thì nhà Y-sơ-ra-ên, nào vua, nào quan trưởng, nào thầy tế lễ, nào kẻ tiên tri, cũng sẽ xấu hổ thể ấy. Chúng nói với gỗ rằng: Ngài là cha tôi; với đá rằng: Ngài đã sanh ra tôi. Vì chúng đã xây lưng lại cùng ta, mà không xây mặt lại với ta. Đoạn, đến ngày hoạn nạn, chúng sẽ nói rằng: Hãy chỗi dậy, cứu lấy chúng tôi! Vậy chớ nào các thần mà các ngươi đã làm ra cho mình ở đâu? Nếu các thần ấy có thể cứu các ngươi trong kỳ hoạn nạn, thì hãy chỗi dậy mà cứu! Hỡi Giu-đa, vì số các thần ngươi cũng bằng các thành ngươi!” (Giêrêmi 2.26-28).
Hãu nhớ lại Công vụ Các Sứ đồ 19 và cuộc nổi loạn tại thành Êphêsô. Phaolô đã tức tối với đám thợ bạc đã tạo ra nhiều hình tượng chứa trong nhà. Bản án mà họ nghịch lại ông là “các ngươi lại thấy và nghe nói, không những tại thành Ê-phê-sô thôi, gần suốt hết cõi A-si nữa, rằng tên Phao-lô nầy đã khuyên dỗ và trở lòng nhiều người, mà nói rằng các thần bởi tay người ta làm ra chẳng phải là chúa” (câu 26). Thi thiên 115.3-8 chép: “Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm, hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, là công việc tay người ta làm ra. Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; Có tay, nhưng không rờ rẫm; Có chân, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào. Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó”.
Tuy nhiên, ngay cả trong thời đại tiến hoá của chúng ta, người ta đang thực hiện những cuộc hành hương đến các chùa “thánh”. Họ đốt đèn, hát những bài ca rồi trèo lên các bậc thang bằng hai đầu gối để in dấu những mảnh cẩm thạch và đá. Họ đi những khoảng cách xa để nhìn thấy một hình ảnh bị hoen rỉ ở mặt kia của đồng tiền. Tuy nhiên đây tất cả chỉ là công việc của bàn tay con người, chẳng có quyền phép để cứu giúp hay để làm hại ai cả.
Hãy chú ý câu 5: “Thật người ta xưng có các thần khác, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới đất, (bởi đó họ thờ nhiều thần nhiều chúa)”. Điều nầy nói cho chúng ta biết đôi điều về bản chất và số lượng của các hình tượng. Lịch sử thời cổ ghi lại hết danh sách nầy đến danh sách khác về “các thần” được dựng lên làm hình tượng và được con người thờ lạy. Lịch sử trong Kinh Thánh ghi lại danh xưng của các thần của người Ai cập, người Asiri, người Babylôn, người Canaan và nhiều dân khác nữa. Thậm chí ngày nay, Ấn độ giáo của Ấn độ số lượng thần của họ lên đến hàng ngàn.
Về những vị được gọi là “các thần” nầy, hầu hết đều chẳng là gì cả song chỉ là những đồ giả theo sự sáng tạo của lý trí và bàn tay của con người. Mặc khác, một số là những sự tỏ ra của ma quỉ nhưng chúng nhất định không phải là thần. Bây giờ hãy đọc câu 6: “về phần chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, là Đức Chúa Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra, và chúng ta hướng về Ngài; lại chỉ có một Chúa mà thôi, là Đức Chúa Jêsus Christ, muôn vật đều nhờ Ngài mà có, và chúng ta cũng vậy”.
Chúng ta không thờ lạy hình tượng được gọi là “các thần” mà chỉ thờ lạy “một Đức Chúa Trời” Ngài là “Cha, muôn vật bởi Ngài mà ra”. Ngài đã đến với chúng ta qua “một Chúa, là Đức Chúa Jêsus Christ” và “nhờ Ngài” mà chúng ta có sự sống. Đây là câu nói tuyệt vời nhất của vị sứ đồ về sự có một của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Có thể có nhiều tà thần đã được thờ lạy trong thế gian, nhưng “về phần chúng ta chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi” (câu 5).
Giờ đây Phaolô nói ở câu 7: “Nhưng chẳng phải mọi người đều có sự hay biết đó. Một đôi người vì nghĩ thường có thần tượng, nên khi ăn của cúng tế đó cho là của cúng tế thần tượng; thì lương tâm yếu đuối của họ bởi đó ra ô uế”. Mỗi tín hữu tại thành Côrinhtô không có sự hay biết trọn vẹn nầy. Nhiều tân tín hữu rõ ràng vẫn còn tin đã có nhiều thần khác. Họ không nắm bắt được sự thực là các thần khác mà họ hết lòng thờ lạy là không có thực. Họ tin theo Đấng Christ, tuy nhiên họ chưa nhìn biết các thần khác là không có thực. Họ biết rõ ĐÚNG là chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi; họ không hiểu Ngài ĐÚNG là Vị Thần duy nhứt có một.
Khi các tín hữu nầy đã ăn thứ thịt đã được cúng cho các hình tượng, họ đã cho “lương tâm mình ô uế”, tâm trí họ bị bối rối bởi chỗ mà có thịt đó. Họ không thưởng thức đúng thứ thịt ấy. Khi họ ăn thịt, họ “đã ăn của cúng tế đó cho là của cúng tế thần tượng”. Họ không thể thưởng thức thứ thịt ấy vì cớ ý nghĩa. Tại sao vậy? Vì “lương tâm yếu đuối họ bởi đó ra ô uế”. Việc ăn thứ thịt đó đã phá rối lương tâm yếu đuối của họ.
Quả là không khôn ngoan hay an toàn khi phá rối lương tâm của bạn. Lương tâm của bạn giống như một ngọn đèn báo trên bảng đồng hồ của xe hơi. Khi nó cháy sáng lên, thì có một vấn đề gì đó cần được nhắc nhở. Bất chấp nó sẽ dẫn tới tai hoạ. Nếu những tín hữu thành Côrinhtô “yếu đuối” nầy bất chấp lương tâm thì họ sẽ rơi vào chỗ nhầm lẫn, tức tối và có cảm giác tội lỗi. Rôma 14.23 nói tới chính vấn nạn nầy như sau: “Nhưng ai có lòng nghi ngại về thức ăn nào, thì bị định tội rồi, vì chẳng bởi đức tin mà làm; vả, phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi”. Sự dạy là nếu có việc gì dường như là sai đối với bạn, thì việc ấy là sai cho bạn. Giacơ 4.17 chép: “Cho nên, kẻ biết làm điều lành mà chẳng làm, thì phạm tội”.
III. Lẽ thật 3. Đồ ăn là đồ ăn (câu 8).
Câu 8 chép: “Vả, ấy chẳng phải là đồ ăn làm cho chúng ta được đẹp lòng Đức Chúa Trời; nếu chúng ta ăn, chẳng được ích gì, bằng không ăn, cũng chẳng tổn gì”. Việc ăn hay không ăn thức ăn thì chẳng có quan trọng gì về mặt thuộc linh đâu. Chữ “đẹp lòng” có nghĩa là “đem đến gần”. Ăn hay không ăn thịt đã được cúng cho thần tượng sẽ đem chúng ta đến gần Đức Chúa Trời. Làm theo những việc mà Đức Chúa Trời không cấm chẳng ăn thua gì trong mối quan hệ của chúng ta với Ngài. Đồ ăn là một trường hợp tốt về vấn đề nầy.
Sự hiểu biết chung chúng buộc chúng ta phải cẩn thận về việc chúng ta phải ăn cái gì và ăn bao nhiêu. Tham ăn là một tội lỗi. Tham ăn là thiếu tiết độ. Ăn không phải là tội. Ấy chẳng phải thứ chi chúng ta nuốt vào là tội lỗi đâu; mà điều chi thải ra từ tấm lòng hư hoại của chúng ta kìa. Chúa Jêsus phán ở Mác 7.15: “Chẳng sự gì từ ngoài người vào trong cơ thể làm dơ dáy người được; nhưng sự gì từ trong người ra, đó là sự làm dơ dáy người”.
Được nuôi dạy là một người Do thái nghiêm ngặt Phierơ đã giữ giới luật về chế độ ăn uống cho tới khi Đức Chúa Trời ban cho ông một sự hiện thấy về các loại thú vật. Chúa bảo Phierơ hãy dậy “làm thịt và ăn” (Công vụ Các Sứ đồ 10.10-16, 28). Phaolô đã viết cho Timôthê ở I Timôthê 4.4: “Vả, mọi vật Đức Chúa Trời đã dựng nên đều là tốt lành cả, không một vật chi đáng bỏ, miễn là mình cảm ơn mà ăn lấy thì được”.
Chúng ta không có thì giờ để tóm hết nguyên tắc ở các câu 9-13. Chúng ta sẽ lo phần nầy vào tuần tới. Tuy nhiên, trước khi chúng ta kết thúc, chúng ta hãy tự hỏi mình một số câu hỏi quan trọng:
1. Đâu là một số “khu vực xám” mà tôi đang vật vã với trong đời sống của tôi?
2. Tôi đang nương theo HÌNH THÁI THIÊN VỀ VỚI LUẬT PHÁP hay MÔN BÀI?
3. Có phải sự hay biết về Lời Đức Chúa Trời của tôi khiến cho tôi sanh kiêu ngạo hay làm cho tôi được khiêm nhường?
4. Có phải tôi đang phá rối lương tâm tôi bằng bất cứ phương thức gì không?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét