Từ Sự Sáng Tạo Đến Thập Tự Giá
Giôsép
Mục sư Bob Deffinbaugh
Sáng thế ký 37:1—50:26
Phần giới thiệu
Trong mấy năm, tôi tích cực dấn thân và chức vụ giảng đạo ở nhà tù, dạy các chuyên đề trong nhà tù cho Hội Thông Công Nhà Tù (Prison Fellowship) trong một vài trại giam trên khắp xứ. Tôi biết rõ trong một số nhà tù, có những người có trình độ đọc kém hơn mức trung bình; có người thậm chí không đọc được tiếng Anh nữa. Tôi được báo cho biết vì cớ điều nầy, khoảng thời gian chú ý của một số bạn tù bị hạn chế chỉ trong một vài phút đồng hồ, và vì thế tôi cần phải xen liên tục các sinh hoạt để bắt lấy sự chú ý của số người đến tham dự đó. Sự việc đã xảy ra cho tôi, câu chuyện nói tới Giôsép trong sách Sáng thế ký sẽ là phương thức tốt để truyền đạt với những người tham dự chuyên đề, và vì thế tôi thực hiện theo cách của tôi từ Sáng thế ký 37 đến Sáng thế ký 45, tất cả chỉ đúng cho một ngày cuối tuần. Những gì tôi tìm được thật đáng kinh ngạc. Câu chuyện nầy đã bắt lấy sự thú vị và chú ý của họ đến nỗi họ đã lắng nghe hơn mỗi lần một giờ đồng hồ, nếu cần thiết.
Tôi cũng để ý thấy một sự thay đổi đáng kể đã diễn ra trong suốt diễn tiến của chuyên đề. Lúc đầu, ai nấy đều có khuynh hướng đồng hóa với Giôsép, là nạn nhân vô tội đã bị các anh mình phản bội. Thậm chí những người nào phạm tội đều có khuynh hướng đồng hóa với kẻ chịu trách nhiệm bỏ tù họ và hướng cơn giận nhắm vào những kẻ ấy. Khi các anh của Giôsép đến tại Aicập và Giôsép đối xử khó khăn với họ, có một ý thức về sự khoái trá và thỏa mãn: “Phải đấy, Giôsép khó khăn với họ, và họ đáng phải chịu như thế!” Nhưng khi câu chuyện nói tới Giôsép đi tới phần kết của nó, khán giả của tôi đạt tới chỗ nhìn thấy cách xử sự của Giôsép với các anh mình không bị tác động bởi sự báo thù, mà bởi tình yêu thương. Họ bắt đầu nắm bắt được vai trò chính mà Giuđa đã đóng trên tấn bi kịch nầy, và có người bắt đầu đồng hóa mình với Giuđa nhiều hơn là với Giôsép. Là những người đã chứng kiến thái độ của Giôsép đối cùng những kẻ tống mình vào tù, họ đã bị kích thích. Khi họ nhìn thấy ông công nhận quyền tể trị của Đức Chúa Trời, họ lấy làm hấp dẫn. Khi họ đọc về sự tha thứ cho các anh của Giôsép, là những kẻ đã bán ông vào vòng nô lệ, họ lấy làm ngạc nhiên. Câu chuyện nầy có một sứ điệp đầy năng quyền không những nói tới hạng tù phạm, mà còn nói tới từng người một trong chúng ta.
Câu chuyện nói tới Giôsép là một trong những tấn bi kịch hay nhất trong Kinh thánh. Một thanh niên được cha mình ưu ái và kết quả là bị các anh mình thù ghét. Các anh đã mưu tính đích thân họ phải tống khứ Giôsép, và bán ông làm nô lệ cho một thương buôn người Íchmaên, bị dẫn sang Aicập. Giôsép được sự ưu ái của Phôtipha, là người chủ Aicập của mình, điều nầy khiến cho Giôsép trở thành nhân vật có quyền lực nhất dưới quyền của Phôtipha. Giữ lòng trung tín với chủ mình bằng cách chối bỏ những lần tiếp cận của vợ người khiến cho nàng nỗi giận, và khiến cho Giôsép phải bị nhốt tù vì những lời vu cáo. Chắc chắn là Giôsép đã được nâng lên địa vị cao nhất thứ nhì ở trong xứ, và rồi Đức Chúa Trời sử dụng một nạn đói kém để đem các anh của ông sang Aicập. Ông có cơ hội trọn vẹn để thực thi sự báo thù, song ông không làm như thế. Cách xử sự của Giôsép với các anh của ông chắc chắn sẽ đưa họ đến với sự ăn năn, và vì thế họ sẽ làm hòa lại như một gia đình. Giôsép đóng vai chính trong lịch sử của dân Israel, và tấm gương của ông có nhiều điều dạy dỗ cho chúng ta nữa.
Bị phản bội
Sáng thế ký 37
Chắc chắn là câu chuyện nói tới Giôsép khởi sự trước Sáng thế ký 37. Mười hai con trai của Giacốp là dòng dõi của bốn người mẹ. Sự ganh đua giữa hai người vợ và hai người hầu của Giacốp đã gây ra nhiều bất đồng trong gia đình. Giôsép, cùng với em út mình là Bêngiamin, là con cái duy nhứt của Rachên, là người vợ được ưu ái của Giacốp. Tám người anh kia của Giôsép đều là con trai của Lêa, người vợ không được Giacốp yêu thương, và hầu của nàng là Xinhba (xem Sáng thế ký 34:22b-26). Mọi sự quá hiển nhiên cho mấy người anh nầy, ấy là Giacốp yêu thương Giôsép — “đứa con trong lúc tuổi già” — nhiều hơn hết thảy họ gộp lại (37:3-4), và vì lý do nầy, họ thù ghét Giôsép.
Có nhiều yếu tố khác phụ vào, thêm nhiên liệu cho thái độ thù ghét của các anh đối với Giôsép. Giacốp (Israel) không khéo léo khi sử dụng đứa con trai 17 tuổi đi dọ thám các con trai kia của ông và Giôsép sẽ báo cáo riêng cho ông biết (37:2, 13-14). Cha của ông cũng ban cho Giôsép một cái áo choàng nhiều màu sắc, áo nầy là dấu hiệu của quyền lực và quyền ưu tiên trên các anh của ông (37:3). Thêm vào với điều nầy, Giôsép lại chẳng khéo léo trong cách ông quan hệ với các anh của mình. Điều nầy phù hợp với sự thơ ngây của tuổi trẻ, nhưng các anh của ông đã giận dữ nhiều bởi các báo cáo của ông về hai điềm chiêm bao, cả hai đều là biểu tượng cho uy quyền của ông cao hơn họ, và thậm chí cao hơn cha mẹ của họ nữa. Hiển nhiên là các anh của Giôsép không thể nói tử tế với ông được (37:4).
Vì một lý do nào đó, Giôsép bị giữ ở nhà khi các anh mình đưa bầy gia súc của cha họ đi ăn cỏ gần Sichem. Israel vốn bất an về những sự việc đã xảy ra ở Sichem, và nổi sợ của ông không phải là do bịnh hoạn đâu. Đây là chỗ mà Giacốp đã mua một miếng đất (33:19). Đây cũng là chỗ mà hai con trai của Giacốp, Simêôn và Lêvi, đã giết chết Sichem (là người đã cưỡng hiếp em gái họ là Đina) và những người nam trong thành, bắt đi những phụ nữ, trẻ em, và gia súc của Sichem làm chiến lợi phẩm (Sáng thế ký 34). Chắc chắn đây là một nơi rất nguy hiểm cho những người con nầy của Giacốp phải coi chừng, và vì thế Israel sai Giôsép đến Sichem để kiểm tra các anh mình.
Như câu chuyện cho biết, các anh của Giôsép đã chuyển sang Đôthan, gần 20 dặm về phía Bắc và xa cách đối với con mắt quan phòng của Giacốp. Thật là may mắn, có người gặp Giôsép đang lang thang trong đồng ruộng quanh Sichem. Ông ta cho biết đã nghe các anh của Giôsép nói rằng họ sẽ chuyển tới Đôthan, vì vậy Giôsép phải tới đó mới gặp được họ. Khi các anh ngước mắt lên, nhìn thấy ai đó đang tới gần ở một khoảng xa xa, chẳng có thắc mắc gì về người ấy là ai hết. Cáo áo choàng phân biệt nhiều màu sắc kia, với hai tay áo, đã chỉ ra Giôsép. Họ có nhiều thời gian để nhất trí giữa vòng họ, đây là cơ hội bằng vàng để tống khứ ông đi. Ít nhất có mấy người trong vòng các anh muốn giết chết Giôsép rồi kết thúc mọi việc.
Rubên không đồng ý với chương trình nầy. Ông muốn tha mạng cho Giôsép, nhưng dường như mọi động lực của ông chỉ là tự phát mà thôi. Rốt lại, ông là người lớn nhứt trong các con trai của Israel, và ông sẽ chịu trách nhiệm vì không coi chừng Giôsép. Vì cớ điều nầy, ông đã tìm cách tha mạng cho Giôsép. Ông thuyết phục các em mình ném Giôsép xuống cái giếng ở gần đó, với suy nghĩ rằng ông sẽ trở lại và đem đứa trẻ lên sau đó. Thật là may mắn, cái giếng đã bị cạn khô nên Giôsép không bị chết đuối.
Rubên bỏ đi – có lẽ quay lại coi chừng bầy gia súc – khi các em ông ngồi xuống để dùng bữa, ở đâu đó gần cái giếng, có lẽ ở một khoảng cách nghe thấy được, họ vừa ăn vừa nghe thấy tiếng kêu cứu của em mình. Đôthan nằm trên con đường thương mại sang Aicập, và chuyện “sắp xảy ra” khi họ đang ăn, họ ngước mắt lên nhìn thấy một đoàn lạc đà của người Íchmaên đang tới gần. Bầy lạc đà của họ đang chuyên chở các thứ hàng hóa, dầu thơm, và nhũ hương, một chi tiết sẽ được xem xét về sau.
Chính tại điểm nầy mà Giuđa đề nghị một giải pháp thích đáng hơn cho nan đề của họ. Thay vì giết chết Giôsép, tại sao không bán ông đi làm nô lệ? Họ phải tống khứ ông, tuy nhiên họ sẽ không phạm tội làm đổ huyết của ông. Và, để làm cho điều nầy trở thành một cơ hội nhiều thử thách hơn, đồng thời họ có thể làm ra một ít tiền bạc cho bản thân họ. Điều nầy dường như hoàn tất hết các mục tiêu của họ tốt hơn là giết chết Giôsép. Một khi Rubên không có mặt ở đó để chống đối, lời để nghị của Giuđa đã được thực hiện. Họ kéo Giôsép ra khỏi giếng rồi trao ông cho người Íchmaên, những người nầy trả cho họ 20 miếng bạc (37:28). Một thời gian sau, Rubên trở lại giếng để phóng thích cho Giôsép, chỉ thấy ông không còn ở đó nữa. Rubên đã nói điều nầy cho các em ông biết, và chúng ta không được cho biết họ có xưng ra điều họ đã làm hay không nữa!?! Tất cả họ đều xé rách áo choàng của Giôsép rồi nhúng nó trong huyết của con dê, làm cho nó ra giống với Giôsép đã bị giết và bị một con thú hoang ăn thịt rồi.
Thật là lạnh lùng, các anh đã trao cái áo choàng bị nhúng trong huyết kia vào trong tay của cha họ, rồi hỏi ông đấy có phải là cái áo của Giôsép không!?! Họ để cho cha họ rơi vào phần kết giả dối của họ – rằng Giôsép đã bị giết và bị một con thú hoang ăn thịt rồi. Tôi lấy làm lạ, không biết có một sự thỏa mãn nào cho các con trai của Israel hay không khi họ nhìn thấy cha của họ đang than khóc về sự mất mát đứa con trai yêu dấu của mình. Họ đã nổ lực để yên ủi ông, song ông không bằng lòng với sự yên ủi đó.
Đồng thời, trở lại với trại chăn nuôi
Sáng thế ký 38
Sáng thế ký 38 ở cái nhìn đầu tiên, dường như là một chương được đặt không đúng chỗ, nhưng điều nầy chẳng có gì quan trọng. Tại sao Môise thay đổi mục tiêu từ Giôsép ở chương 37 sang Giuđa ở chương 38, chỉ để trở lại một lần nữa với Giôsép ở chương 39 và các chương nối theo sau? Thứ nhứt, chúng ta phải in trong trí rằng Giacốp không bao lâu nữa sẽ công bố rằng Đấng Mêsi được hứa cho sẽ đến qua dòng dõi của Giuđa (Sáng thế ký 49:8-12). Thứ hai, chúng ta sẽ nhớ lại rằng chính Giuđa là người đề xuất với các anh em nên bán Giôsép vào vòng nô lệ, thay vì giết Giôsép (37:26-27). Thứ ba, tính cách phi đạo đức của Giuđa ở chương 38 sẽ góp phần như cái phông, ngược lại với sự thanh sạch về mặt đạo đức của Giôsép sẽ được đối chiếu ở Sáng thế ký 39. Thứ tư, chương 38 đề ra bối cảnh sự hội hiệp của Giôsép với các anh của minh ở chương 42 cùng các chương khác nối theo sau. Khoảng 22 năm tính từ thời điểm Giôsép bị bán đi làm nô lệ đến thời điểm các anh của ông đến tại Aicập, tìm cách mua gạo. Chương 38 bao phủ chính thời điểm nầy, nhưng tập trung vào Giuđa và các xử sự của ông ta trong đất Canaan. Trong cùng thời điểm 22 năm như thế nầy (khoảng), Giuđa rời khỏi gia đình, lấy một phụ nữ người Canaan làm vợ, và có ba con trai, hai đứa trong số chúng đều đủ tuổi để thành hôn, và quá gian ác đến nỗi Đức Chúa Trời cất đi mạng sống của chúng.
Muốn hiểu lý do tại sao Giuđa rời khỏi gia đình thì không khó đâu. Đúng là rất đau buồn khi nhìn thấy Giacốp ghìm mình trong buồn rầu, từ chối không chịu yên ủi (37:35). Ápraham vốn rất cẩn thận khi cưới một người vợ không phải là dân xứ Canaan cho con trai mình là Ysác (chương 24). Ysác và Rêbeca đã không cẩn thận, nhưng Đức Chúa Trời tể trị cung ứng cho Giacốp hai người vợ từ anh của Rêbeca là Laban, ở Phađan Aram (Sáng thế ký 29). Giuđa sẵn sàng rời khỏi gia đình rồi cưới một người nữ Canaan làm vợ (38:1-2). Nàng có ba người con trai. Khi người con trai đầu lòng đã đủ tuổi, Giuđa cưới một người vợ Canaan cho nó có tên là Tama. Con trưởng của Giuđa là Êrơ, độc ác trước mặt Đức Chúa Trời và Chúa cất mạng sống của người đi (38:7). Giuđa dạy đứa con thứ hai của mình là Ônan, phải lấy Tama làm vợ và dấy lên một dòng dõi cho người anh quá cố của mình, nhưng người ngăn Tama không sanh con được. Giuđa rất sợ mất đứa con út là Sêla, vì vậy ông yêu cầu Tama về sống ở quê nhà cho tới chừng đứa trẻ đủ tuổi.
Sau khi trải qua một thời gian, vợ của Giuđa chết đi và Tama nhìn biết rằng Giuđa sẽ không ban nàng cho Sêla, là người con còn sống duy nhứt của ông. Dường như nàng biết Giuđa rất rõ, vì nàng tự đội lốt làm một kỵ nữ rồi đứng dọc theo con đường mà nàng biết Giuđa sẽ bắt lấy để tới Thimna, cùng với bạn ông là Hira. Những sự mong đợi của Tama đã được làm cho phu phỉ bởi Giuđa, là người đã dùng nàng trong vai trò kỵ nữ, rồi để lại một số của cải của mình như một bảo đảm phải trả tiền. Tama đã che giấu lai lịch mình bằng cách che mặt lại, và vì thế Giuđa không hề biết lai lịch của bạn tình mình đêm đó. Một thời gian sau, Giuđa mới hay rằng con dâu của ông đã có thai, và Giuđa đã căm phẫn. Ông khẳng định rằng nàng sẽ phải chết vì tính cách phi đạo đức của nàng. Khi ấy Tama mới trình ra con dấu của Giuđa (đồ vật xưa giống như bằng lái xe của tài xế hay Thẻ An Sinh Xã Hội ngày nay), dây và cây gậy của ông – tất cả các món y như dấu tay vậy. Giuđa xưng rằng Tama thật công bình hơn ông. Nàng là một người đã tìm cách bảo hộ dòng dõi của ông. Nàng đã sanh đôi cho Giuđa, và Phêrết sẽ là người qua ông dòng dõi Đấng Mêsi sẽ tiếp đến, không một lời cảm ơn nào cho Giuđa hết (xem Sáng thế ký 46:12; Rutơ 4:12).
Tại sao Môise gộp câu chuyện nầy ở đây vào giữa câu chuyện nói tới sự phản bội đối với Giôsép? Lý do rất rõ ràng và rất thuyết phục: Nếu Israel cứ ở lại trong xứ Canaan, và nếu họ hành xử giống như Giuđa, sẽ chẳng có một quốc gia Israel phân biệt ra đi chiếm lấy Đất Hứa đâu. Người Do thái sẽ hoàn toàn bị đồng hóa thành xã hội và dòng giống người Canaan. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời dẫn dân Do thái xuống Aicập. Người Aicập rất tởm người Hêbơrơ và chẳng muốn làm gì với họ hết. Với một ngoại lệ duy nhứt (Bà Phôtipha), họ không bằng lòng dính dáng vào các mối quan hệ mật thiết với dân Hêbơrơ. Ngay cả nếu Giuđa cùng các anh em người bằng lòng sống phi đạo đức, người Aicập không bằng lòng – sống phi đạo đức với người Hêbơrơ, ít nhất là như vậy. Câu chuyện nói tới Giuđa và Tama giải thích lý do tại sao Đức Chúa Trời đã cách ly dân Do thái ở Aicập trong 400 năm.
Cái giá của sự thuần khiết
Sáng thế ký 39:1-20
Sáng thế ký 39 là một trường hợp thuần khiết về tình dục. Giôsép được Phôtipha mua lấy từ những người Íchmaên, một nhân vật có quyền lực và giàu có. Phôtipha là một tôi tớ của Pharaôn. Ông sở hữu một nông trang rộng lớn và sinh lợi nhiều lắm. Lúc đầu thì có lẽ Giôsép bị buộc phải lao động với các bầy gia súc. Trải qua một thời gian, thì Phôtipha nhận thấy rõ ràng là bàn tay của Đức Chúa Trời đã ở trên Giôsép – mọi sự ông chạm đến dường như đổi thành vàng. Trước đó rất lâu, Phôtipha đã đặt mọi sự dưới quyền của Giôsép. Những quyết định duy nhứt Phôtipha đưa ra liên quan tới những gì ông muốn có cho bữa ăn tối mà thôi (39:6).
Vấn đề, ấy là Bà Phôtipha (một phụ nữ mà không được nói đến tên – bà ta chỉ được đề cập tới là vợ của Phôtipha) bắt đầu để ý đến Giôsép. Bà ta đã tìm nhiều cách thức khác nhau để quyến dụ ông, nhưng Giôsép cố ý lẫn tránh bà ta. Một ngày nọ bà ta gài bẫy Giôsép ở nhà một mình, ở đó bà ta một lần nữa tìm cách quyến dụ ông. Ông thấy cần thiết phải trốn chạy, để lại áo ngoài của mình trong cái túm lấy của bà ta (hãy chú ý thể nào cái áo choàng của Giôsép luôn luôn đưa ông vào chỗ rắc rối). Khi ấy bà ta vu cáo Giôsép tấn công bà ta, và Phôtipha, chồng bà ta, đã ném Giôsép vào trong ngục. Giôsép chẳng lạ lẫm gì từ chỗ ở “ban quản trị” đến với nhà tù, vì hết thảy chúng đều ở cùng trong một ngôi nhà. Trong những ngày ấy, nhà tù thực sự là loại ngục tối, ở dưới ngôi nhà của một quan chức giống như Phôtipha. Thực vậy, Phôtipha là “quan thị vệ của Pharaôn” (39:1; 40:3). Ở trong tù, cũng như ở trong ban quản trị, tay của Đức Chúa Trời tiếp tục ở cùng Giôsép.
Từ nhà tù đến cung điện
Sáng thế ký 39:21—41:57
Ở trong tù, thật là dễ cho Giôsép đắm mình trong chỗ tự thương hại. Có thể ông sẽ nhũ thầm: “Đâu là tốt đẹp khi tin cậy Đức Chúa Trời và làm điều chi là phải chứ? Ôi, sống như thế chỉ đưa ta vào chỗ rắc rối mà thôi”. Thay vì thế, Giôsép dấn thân phục vụ cho tha nhân, và trước đó đã lâu, tay của Đức Chúa Trời một lần nữa rất rõ ràng trong cuộc đời của Giôsép. Chủ ngục đã dành cho Giôsép một chỗ tự do, đặt ông cai quản hết mọi tù phạm. Ông đã điều hành nhà ngục (39:21-23). Chính trong khoảng thời gian nầy có hai tù phạm được thêm vào dưới sự quản lý của Giôsép. Một người là quan tửu chánh của Pharaôn (sát nghĩa, là người cầm chén cho ông ta), còn người kia là quan thượng thiện của ông ta. Cả hai đều đang trả giá cho việc làm xúc phạm chủ của mình. Môise đưa ra một lời bình rất hay về mối quan hệ của Giôsép với hai nhân vật nầy:
“Quan thị vệ cắt phần Giô-sép hầu việc hai quan đó; họ bị ngồi ngục một ít lâu” (Sáng thế ký 40:4, phần nhấn mạnh là của tôi).
Bản Kinh thánh NASB dịch: “Và quan thị vệ đặt Giôsép vào quyền quản lý họ, và Giôsép coi sóc họ”. Việc quan trọng phải nhìn thấy ở đây, ấy là Giôsép thực sự “hầu việc” hay “phục vụ cho” hai nhân vật nầy, họ đã ở dưới quyền của ông. Tôi tin đây là chỗ mà Giôsép đã thất bại trước đây trong mối quan hệ của ông với các anh mình. Cha của ông đã ban cho ông thẩm quyền trên các anh mình, nhưng ông không sử dụng vai trò lãnh đạo của mình như một cơ hội để hầu việc họ.
Ở trong tù rất là dễ nhìn thấy nỗi khổ của người khác, đặc biệt nếu bạn đang đau khổ. Vào một sáng kia, Giôsép đã để ý thấy cả hai quan tửu chánh và quan thượng thiện rất chán chường, và ông đã hỏi han họ điều chi làm cho họ phải bối rối như vậy. Họ nói cho Giôsép biết cả hai người đều có điềm chiêm bao khác nhau vào ban đêm, song chẳng có ai nói cho họ biết chúng có nghĩa gì!?! Giôsép nhắc cho họ nhớ, những sự giải thích thuộc về Đức Chúa Trời, rồi khích lệ họ nói cho ông biết điềm chiêm bao của họ. (Chắc chắn điều nầy cho thấy rằng họ đều ý thức về mối quan hệ của Giôsép với Đức Chúa Trời). Quan tửu chánh nói trước, và Giôsép nói cho ông ta biết Đức Chúa Trời sắp sửa phục chức lại cho ông ta được ơn với Pharaôn. Giôsép khi ấy yêu cầu quan tửu chánh nhớ đến sự ông bị đối xử bất công và vì ông mà nói lời tử tế với Pharaôn, song quan tửu chánh đã quên phứt về ông cho đến tròn hai năm. Chiêm bao của quan thượng thiện thì lại khác, cũng như kết quả của nó. Chiêm bao của ông ta cho thấy rằng Pharaôn sẽ hành hình ông ta. Không cần phải nói, Giôsép đã không yêu cầu vị quan nầy phải nhớ đến ông trước mặt Pharaôn.
Khi ấy là tròn hai năm trước khi quan tửu chánh đưa tên của Giôsép ra trước mặt Pharaôn. Pharaôn có hai điềm chiêm bao đã làm cho ông phải bối rối lắm. Chiêm bao đầu tiên nói tới bảy con bò mập mạnh, bị nuốt lấy bởi bảy con bò xấu xí ốm yếu. Chiêm bao thứ hai nói tới bảy gié lúa chắc, tốt tươi bị bảy gié lúa lép nuốt lấy. Không một người nào trong số bác sĩ của Pharaôn có khả năng giải thích ý nghĩa của các điềm chiêm bao nầy, nhưng quan tửu chánh nhớ lại chàng thanh niên Hêbơrơ là người đã giải thích điềm chiêm bao của ông, cùng với điềm chiên bao của quan thượng thiện, trong khi cả hai còn ở trong tù. Pharaôn cho đòi Giôsép đến, ông nói rõ rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng đã ban sự giải thích các điềm chiêm bao.
Lời lẽ của Giôsép đã đem lại sự yên ủi và khích lệ cho Pharaôn, ông ta đã ý thức được điều gì đó rất đáng ngại về hai điềm chiêm bao của mình. Hai điềm chiêm bao đề cập đến cùng những biến cố. Sẽ có bảy năm dư dật, nối theo sau là bảy năm đói kém trầm trọng. Những năm đói kém sẽ tiêu thụ hết sự dư dật của bảy năm dư dật. Sự thực cho thấy rằng hai điềm chiêm bao đã khẳng định điều nầy chắc chắn sẽ xảy đến. Giôsép giờ đây thêm vào phần giải thích hai điềm chiêm bao nầy một giải pháp cho nan đề mà chúng đã nói trước. Ở đây, chúng ta có thể nhìn thấy các ân tứ quản trị của Giôsép trong chỗ thật năng động. Nhà vua nên chỉ định ai đó lo sửa soạn cho tai vạ nầy, trước khi những năm đói kém sẽ giáng xuống xứ Aicập. Hãy để cho nhân vật nầy tích trữ lúa gạo từ những năm được mùa, và rồi phân phối nó trong các năm mất mùa.
Tôi không tin Giôsép đã đệ trình chương trình nầy cho Pharaôn, cùng với tấm thẻ thương mại của ông, hy vọng được thuê làm phần việc nầy. Tôi không nghĩ Giôsép từng hình dung mình sẽ được chọn cho một phần việc như thế. Một lần nữa, Giôsép chỉ đang ra sức phục vụ cho nhà vua mà thôi. Giôsép cũng không tìm cách mặc cả với Pharaôn để ông được phóng thích: “Được thôi, tâu Pharaôn, tôi biết rằng tôi có thể giải thích hai điềm chiêm bao của Vua, nhưng ông cũng nên giúp đỡ cho tôi … .” Giôsép đã tìm cách làm đại diện cho Đức Chúa Trời của ông bằng phương thức ông đã hầu việc cho những kẻ có quyền bính trên ông. Pharaôn có thể nhìn thấy Giôsép đã nói đúng và sự khôn ngoan của ông có nguồn gốc rất thiêng liêng:
“Các lời nầy đẹp ý Pha-ra-ôn và quần thần. Pha-ra-ôn phán cùng quần thần rằng: Chúng ta há dễ tìm một người như người nầy, có thần minh của Đức Chúa Trời được sao? Pha-ra-ôn phán cùng Giô-sép rằng: Vì Đức Chúa Trời xui cho ngươi biết mọi việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh trí-huệ như ngươi nữa. Vậy, ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng theo lời ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi” (Sáng thế ký 41:37-40).
Mấy câu nầy hướng tới phần cuối của chương 41 rất quan trọng cho sự hiểu biết của chúng ta về những gì sẽ xảy ra khi các anh em của Giôsép đến tại Aicập, tìm kiếm lúa gạo cho gia đình của họ:
“Trước khi đến năm đói kém, thì Ách-nát, con gái Phô-ti-phê-ra, thầy cả thành Ôn, sanh cho Giô-sép hai con trai. Giô-sép đặt tên đứa đầu lòng là Ma-na-se, vì nói rằng: Đức Chúa Trời đã làm cho ta quên điều cực nhọc, và cả nhà cha ta. Người đặt tên đứa thứ nhì là Ép-ra-im, vì nói rằng: Đức Chúa Trời làm cho ta được hưng vượng trong xứ mà ta bị khốn khổ” (Sáng thế ký 41:50-52).
Giôsép đặt tên cho con cả mình là Manase, nghĩa là “làm cho quên đi”. Đức Chúa Trời đã khiến cho Giôsép phải quên đi mọi đau khổ của ông nơi tay các anh mình (câu 51). Đứa con kế Giôsép đặt tên là Épraim, có nghĩa là “hưng vượng”. Đức Chúa Trời đã khiến cho Giôsép được hưng vượng trong vùng đất đau khổ của ông. Giôsép không có một sự giận dữ nào đối cùng Đức Chúa Trời hay đối cùng các anh mình. Điều nầy có nghĩa là khi họ đến tại Aicập, ông có thể xử lý với họ bằng tình yêu thương, chớ không phải bằng sự báo thù.
Khi đói kém đến, Aicập đã sẵn sàng cho vấn nạn ấy, nhiều lời cảm ơn cho Giôsép. Không những người Aicập đến với Giôsép để có gạo ăn, mà còn những người đến từ các xứ khác nữa, kể cả xứ Canaan. Một sáng kia, khi hột gạo cuối cùng hết rồi, Giacốp đã nặng nhọc nói với các con trai mình:
“Gia-cốp thấy xứ Ê-díp-tô có lúa bán ra, bèn nói cùng các con trai mình rằng: Sao bay ngơ ngẩn nhìn nhau vậy? Lại rằng: Nầy, cha nghe dưới xứ Ê-díp-tô có lúa bán; bay hãy xuống đó mua lúa cho chúng ta, hầu cho chúng ta sống và khỏi chết, chớ!” (Sáng thế ký 42:1-2).
Dường như Giacốp tỏ ra bực tức và không còn kiên nhẫn được nữa với các con trai mình. Sở dĩ có điều nầy là vì họ cũng nhìn biết rằng có gạo ở Aicập, nhưng lại chẳng bằng lòng đi đến đó? Có phải tội lỗi và nổi lo sợ của họ thích ứng với cách mà họ đã đối đãi với em mình không? Tôi có khuynh hướng nghĩ như thế.
Tất cả các con trai của Giacốp lên đường xuống Aicập, trừ ra Bêngiamin. Giacốp đã mất một trong hai đứa con của Rachên trong khi ông không thấy đường và ở trong sự chăm sóc của các anh nó; ông không bằng lòng liều mất đứa khác nữa. Khi mười người con của Giacốp đến trước mặt Giôsép, là “quan cai trị trong nước” (42:6), họ sấp mình xuống trước mặt người, vô tình làm ứng nghiệm lời tiên tri trong các điềm chiêm bao của Giôsép trước đây (37:5-11).
Nhiều người bị cám dỗ muốn nhìn thấy phản ứng của Giôsép trong sự báo thù xứng đáng. Sự gay gắt của ông những tưởng là cách làm cho các anh ông phải trả giá cho tội lỗi của họ chống nghịch họ. Nhận định nầy không thể chấp nhận được, vì phân đoạn Kinh thánh quá rõ ràng về vấn đề nầy. Thứ nhứt, nếu Giôsép thực sự muốn làm cho các anh mình phải đau khổ, ngay lập tức ông sẽ tỏ lai lịch mình cho họ biết. Nếu Giôsép muốn làm cho các anh mình phải kinh khủng, ông sẽ khiến cho họ nhìn biết ông là ai, là quan cai trị xứ Aicập, và khi ấy ông sẽ khiến cho họ phải đau khổ. Thứ hai, Kinh thánh cho chúng ta biết rằng trong khi các anh của ông không nhận ra Giôsép, ông đã nhận ra họ, và ông nhớ đến các điềm chiêm bao của mình (42:7, 9). Tôi hiểu điều nầy có ý nói Giôsép không những nhìn biết Đức Chúa Trời đã khiến cho ông trở thành lãnh đạo của gia đình mình, nhưng chức năng lãnh đạo nầy sẽ tìm kiếm mọi lợi ích tốt nhứt cho gia đình. Ấy chẳng phải sự báo thù mà Giôsép đã tìm kiếm, mà là sự ăn năn. Thứ ba, Kinh thánh cho chúng ta biết sự đối xử gay gắt của ông đối với các anh mình là một sự giả vờ:
“Giô-sép thấy, nhìn biết các anh mình; nhưng giả làm mặt lạ cùng họ, nói một cách xẳng rằng: Các ngươi ở đâu đến? Đáp rằng: Ở xứ Ca-na-an đến đặng mua lúa” (Sáng thế ký 42:7).
Thứ tư, trong một vài cơ hội, chúng ta thấy các cảm xúc thật của Giôsép đối cùng các anh mình được tỏ ra. Hai lần Giôsép phải đi riêng ra mà khóc (42:24; 43:30). Thứ năm, mọi hành động của Giôsép đối cùng các anh mình không phải là hận thù, mà là giàu ơn. Hai lần ông bảo họ trở về nhà cùng với lúa gạo mà họ đã mua và với số tiền để lại trong bao bì của họ. Bữa ăn ông dọn cho họ là một sự ban cho ân điển khác nữa. Thậm chí nổi khổ mà ông đã gây ra cho các anh mình là sự rộng lượng với mục tiêu của nó là đưa các anh mình đến với sự ăn năn, vì vậy họ có thể làm hòa lại.
Mọi hành động của Giôsép đối cùng các anh mình, trong những lần thăm viếng thứ nhứt và thứ nhì ở Aicập, đã được sắp xếp rất cẩn thận và được tổ chức để bày ra kết quả mà ông đã dự trù. Khi Giôsép tố cáo các anh mình là thám tử, họ lấy làm kinh khủng và đã thốt ra thông tin về cha của Giôsép cùng em út mà ông muốn biết, tuy nhiên các anh ông chẳng nhìn ra thực sự ông là ai!?! Giôsép có thể cật vấn cẩn thận các anh mình về các vần đề của “gia đình”, dưới chiêu bài bảo vệ xứ Aicập tránh các thám tử.
Sau khi đã hay được cả Giacốp và Bêngiamin đều còn sống, Giôsép muốn hoàn thành chặng kế tiếp trong chương trình của ông – đưa Bêngiamin xuống Aicập. Mục đích của điều nầy không bao lâu nữa sẽ ra rõ ràng. Các anh của Giôsép đã khẳng định họ là mười anh em, chớ không phải thám tử đâu, và họ còn có người em khác ở quê nhà. Giôsép đã tạo ra điều đó, thế nên ông muốn đặt sự thật của lời nói họ vào cuộc thử nghiệm. Họ nói họ có một người em út, vì vậy để họ minh chứng điều đó bằng cách đem người em út đó cùng đi với họ khi họ đến vào lần tới. Và đề biết chắc họ sẽ trở lại, ông sẽ giữ lại một người anh làm tù phạm. Lúc đầu, Giôsép đã đe dọa giữ hết các anh trong tù và chỉ để cho một người trở về mà thôi. Ông vốn biết rõ điều nầy sẽ khiến họ khó mà chuyển tải được một lượng lúa như thế, và vì thế ông giảm bớt số tù phạm lại còn có một người – là Simêôn (42:24).
Phản ứng của các anh Giôsép trước sự tống giam họ và với lời lẽ của Giôsép là rất quan trọng cho câu chuyện:
“Họ bèn nói với nhau rằng: Quả thật chúng ta cam tội cùng em ta rồi; vì lúc trước ta thấy tâm hồn nó buồn thảm khi nó xin nhờ ơn, nhưng ta không khứng cho; vậy nên tai vạ nầy mới xảy đến cho chúng ta. Ru-bên đáp rằng: Anh há không có nói cùng các em rằng: Chớ phạm tội nầy cùng đứa trẻ đó sao? Nhưng các em không nghe; nên bây giờ huyết nó đòi chúng ta thường lại” (Sáng thế ký 42:21-22).
Hơn 20 năm sau khi họ phạm tội nghịch cùng em của họ là Giôsép, các sự cố trong ngày ấy đã sống động trong lý trí của họ. Họ nhớ lại lời van xin của ông và sự họ hoàn toàn thiếu lòng thương xót. Họ hiểu đây là loại “ngày hồi tưởng” đến tội lỗi của họ. Tôi muốn lập luận là họ thành thật hối tiếc về những gì đã xảy ra, nhưng họ chưa ăn năn trọn vẹn. Sự nầy sẽ đến đúng kỳ.
Giôsép đã đứng gần đó và nghe hết lời lẽ của họ, nhưng họ chẳng có ý niệm gì về việc ông có thể hiểu được họ đang nói tới điều gì. Ông bị chạm đến thật sâu sắc bởi lời lẽ của họ và phải rời khỏi đó để ông có thể bật khóc (42:23-24). Giôsép đã trói Simêôn trước mắt họ để gây ấn tượng cho họ với quyết tâm của ông muốn nhìn thấy Bêngiamin khi họ trở lại. Khi ấy ông ra lịnh về các bao lúa của họ phải được đong đầy và các khoản chu cấp cho họ khi đi đường.
Lúc đó, các anh mới thực thi chuyến hành trình của họ, chắc chắn đã bàn bạc những gì họ sẽ phải thưa với cha của mình. Một trong các anh đã mở bao của mình ra khi họ dừng lại nghỉ tối và bị sốc khi thấy bạc của mình vẫn còn ở trong bao lúa. Bạn sẽ nghĩ rằng bất kỳ con trai nào của Giacốp sẽ vui mừng lắm. Sự thể giống như đặt số tiền vào máy bán hàng tự động, nhận được những thứ bạn đã chọn, rồi sau đó thấy đồng tiền của mình chạy trở ra vậy. Nhưng các anh lại mất tinh thần trầm trọng thêm. Nhìn nhau, họ nói: “Đức Chúa Trời đã làm chi cho chúng ta đây?” (42:28). Họ hoàn toàn thất bại không nhìn thấy sự tử tế của Giôsép trong việc nầy và chỉ nhìn thấy bàn tay phán xét của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chẳng làm một gì quan trọng cho họ; Ngài đã làm một việc khủng khiếp cho họ.
Họ trở về quê nhà rồi thuật lại cho cha họ biết mọi sự đã xảy ra cho họ ở Aicập. Giacốp chắc chắn đã để ý thấy Simêôn không có trong số họ, và họ đã giải thích lý do tại sao viên quan cai trị xứ Aicập đã giữ Simêôn làm tù phạm. Cuộc bàn luận nầy đã diễn ra khi mấy bao lúa được mở ra. Khi mấy cái bao được mở ra, các anh mới khám phá ra mỗi người trong số họ đều có số tiền của họ ở trong bao, và họ đâm lo âu. Giacốp chỉ có thể nghĩ đến bản thân mình:
“Gia-cốp, cha họ bèn nói rằng: Bay làm mất các con tao; Giô-sép đã mất biệt, Si-mê-ôn cũng mất biệt; mà bây giờ, lại muốn dẫn Bên-gia-min đi nữa sao! Các nông nỗi nầy đều đổ lại cho tao hết!” (Sáng thế ký 42:36).
Giacốp có thể không phạm thêm sai lầm. Sự đánh giá của ông về tình huống thực sự là đối ngược với thực tế. Ông chẳng quan tâm về Simêôn nhiều cho bằng ông quan tâm đến bản thân mình. Ông đổ thừa các con trai ông về việc ông mất mát Giôsép, còn bây giờ, đến Simêôn, và ông đổ thừa họ cũng muốn lấy đi đứa con út của ông là Bêngiamin. Các con trai ông “đã khiến cho mọi sự hiệp lại nghịch lại ông”, hay ông nghĩ như thế.
Rubên giờ đây bước tới với lời lẽ yên ủi chắc chắn nầy:
“Cha hãy giao em nơi tôi, tôi sẽ dẫn về cho. Ví bằng chẳng dẫn em về, thì cha hãy giết hai đứa con trai tôi đi” (42:37).
Chẳng có gì được nói thêm nữa về vấn đề nầy trong giây phút ấy, vì Giacốp thẳng thừng từ chối không cho họ đem Bêngiamin theo với họ. Trong lý trí của Giacốp, sẽ chẳng còn luận bàn chi nữa về vấn đề nầy.
Nạn đói cứ bám lấy mãi, và nguồn tiếp tế gạo cứ tiếp tục cạn kiệt. Sau cùng, lúa mà họ mua về ở Aicập cũng đã cạn rồi. Phản ứng của Giacốp trước cuộc khủng hoảng nầy đã tỏ ra sự thất bại hoàn toàn của ông trong vai trò cấp lãnh đạo thuộc linh. Tôi muốn mượn một việc từ loạt bài giảng trước đây về Sáng thế ký, vì nó cho thấy rằng Giacốp là một cấp lãnh đạo nghèo nàn ngay thời điểm nầy trong cuộc đời của ông.
Bảy điều luật lãnh đạo của Giacốp
Trì hoãn: Bất cứ nan đề nào phát sinh hôm nay được xử lý tốt nhứt vào ngày mai. Giacốp đã trì trệ không hành động quyết liệt về vấn đề để cho Bêngiamin xuống Aicập cho tới chừng tình huống lên tới chỗ khủng hoảng.
Thu nhỏ: Chẳng có nan đề nào dường như là tồi tệ hết. Nếu nguyên tắc thứ nhứt để lộ ra sự thiếu sót về “trí lực”, nổ lực thứ nhì là thu nhỏ nan đề lại tới điểm mà ở đó khó mà nghĩ tới. Nếu nan đề chưa phải là trầm trọng, thế thì cứ kể nó là vô hạn định.
Nói dối: Trong một cơn khủng hoảng, thành thật thường không phải là cách tốt nhứt. Giacốp vẫn có nhiều sự dối gạt cũ ở trong ông. Ông tin rằng mối liên lạc tốt chỉ tạo ra nhiều nan đề. Ông nghĩ rằng có ít người khác biết về ông, thì họ cũng nên biết ít về ông và gia đình nữa. Các con trai của Giacốp vì thế bị quở trách khi họ nói cho Giôsép biết bất kỳ sự kiện nào về gia đình.
Luôn luôn tìm kiếm con số 1. Chức năng lãnh đạo của Giacốp đã tập trung vào việc tìm kiếm lợi ích riêng của ông. Chính Giuđa là người đã thúc giục cha mình suy nghĩ đến nhiều người khác thay vì nghĩ đến chính bản thân ông (đối chiếu câu 3).
Đổ trách nhiệm cho người khác: Điều nầy là khả thi, hãy nhìn vào người khác nhận lãnh sự đổ thừa vì cớ lỗi lầm của bạn xem. Giacốp tìm cách đặt trách nhiệm vì những rắc rối của mình lên Giuđa cùng các anh em người, vì họ đã nói ra sự thật (43:6). Một cấp lãnh đạo tốt là người bằng lòng nhận lấy trách nhiệm vì mọi lỗi lầm của mình.
Hối lộ: Nếu mọi nổ lực của chúng ta muốn giải quyết một nan đề thất bại, hãy thêm tiền bạc vào. Giacốp hy vọng rằng quà cáp của ông, cùng với phần chi trả gấp hai, sẽ giúp đạt được những cứu cánh mà ông ao ước.
Mặc lấy tôn giáo vào: Hãy kêu cầu Đức Chúa Trời xin giúp đỡ, nhưng đừng hy vọng quá. Chẳng có gì là tình cờ khi Giacốp nhắc tới Đức Chúa Trời vào lúc sau cùng. Sự thể dường như xảy ra cho ông (cũng như đã xảy ra cho Giôsép) rằng Đức Chúa Trời đã dính dáng năng động vào mọi rối rắm của ông. Ông ước ao rằng Đức Chúa Trời sẽ ở cùng các con trai ông chỉ với nổ lực sau cùng đó, khi đấy là tuyến phòng thủ đầu tiên của ông. “Hố chiến đấu tôn giáo” không có gì là mới mẻ hết, đây cũng chẳng phải là một việc của quá khứ. Lời lẽ của Giacốp: “Còn phần cha, nếu phải mất con, thì cha chịu phận vậy!” (43:14), không phải là một sự bày tỏ của đức tin lớn, mà nghe như là định mệnh thuyết vậy.
Đáp ứng của Giacốp trong cơn khủng hoảng gia đình nầy rất đáng thương. Ông thực hiện mọi sự khả thi để tránh đối diện với nan đề. Ông nổ lực bảo các con mình thực hiện một phần việc rất khó, vì lẽ đó đặt họ vào một sự liều lĩnh rất lớn. Mối quan tâm lớn của ông là cho bản thân mình và vì ích của riêng mình. Ông bị buộc phải hành động. Giacốp không phải là anh hùng trong các chương nầy. Giôsép chắc chắn là vị anh hùng đó, đã minh họa cho chức năng lãnh đạo tin kính. Nhưng có cấp lãnh đạo khác bắt đầu nổi lên ở chương 43 – ấy là Giuđa, người anh đã đề nghị bán Giôsép vào vòng nô lệ, là người đã lấy vợ người xứ Canaan, và làm cha bất đắc dĩ cháu nội của mình (như đã xảy ra) qua Tama.
Giacốp rất đáng thương khi ông than vãn về cách các con ông đã ngược đãi ông bằng cách nói cho “viên quan cai trị xứ Aicập” biết về Bêngiamin. Giờ đây Giuđa đứng lên, nắm lấy quyền chủ động tình huống rồi tử tế trách cha mình:
“Giu-đa thưa: Người đó có nói quyết cùng các con rằng: Ví em út không theo xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta. Nếu cha cho em đi với, thì chúng tôi mới xuống Ê-díp-tô mua lương thực cho cha được. Bằng không, thì chúng tôi chẳng trở xuống đâu, vì người đó đã nói rằng: Ví em út không theo xuống với các ngươi, thì sẽ không bao giờ thấy mặt ta. Y-sơ-ra-ên quở rằng: Sao bay khéo tệ cùng tao, mà tỏ cho người ấy rằng bay còn một em nữa? Thưa rằng: Người đó hỏi kỹ càng về chúng tôi, và về bà con chúng tôi rằng: Thân-phụ các ngươi còn sống chăng? còn có một người anh em nào nữa chăng? Chúng tôi có đáp các lời hỏi đó. Há dễ biết người đó sẽ dặn chúng tôi rằng: Hãy đem em út xuống đây, sao? Giu-đa lại thưa cùng Y-sơ-ra-ên cha mình, rằng: Hãy cho đứa trẻ theo con, thì chúng tôi sẽ đứng dậy đi, hầu cho chúng ta, nào các con, nào cha, nào các cháu của cha đây đều được sống và khỏi chết. Con sẽ bảo lãnh em cho; cha sẽ cứ nơi con mà đòi em. Nếu không dẫn em về không để em trước mặt cha, thì con đây sẽ cam tội cùng cha mãi mãi. Vả, nếu không có điều dùng dằng, thì chúng tôi đã đi và về được hai lần rồi” (Sáng thế ký 43:3-10).
Giuđa cùng các anh em mình chắc chắn đã phạm tội trong việc bán em mình là Giôsép vào vòng nô lệ, nhưng họ không phải là những người đặt gia đình mình vào chỗ liều lĩnh trong thời điểm đó. Họ chỉ nói cho “viên quan cai trị xứ Aicập” biết sự thật khi ông ta ép khó họ về các chi tiết đặc biệt về gia đình họ. Chính Giacốp là người đã từ chối đối diện với tình huống, và ông đã từ chối cho phép con trai út mình đi. Ông đã chờ quá lâu mà chẳng hành động chi hết. Và bây giờ, ông còn muốn các con trai ông phải đối diện với “viên quan cai trị xứ Aicập” mà không làm thỏa mãn đòi hỏi của ông ta về việc đem người con út theo với họ. Điều nầy thật là vô nghĩa, và Giuđa nói rõ rằng họ sẽ không xuống Aicập nữa nếu không có Bêngiamin. Bản thân Giuđa trở thành người bảo đảm cho sự trở về an toàn của Bêngiamin.
Giacốp không có một sự lựa chọn nào khác hơn phải làm theo y như Giuđa đã nói. Nếu ông không cho Bêngiamin đi với các người khác khi họ trở lại xứ Aicập, tất cả họ sẽ chết. Đây là một sự hy sinh mà Giacốp buộc phải thực hiện. Và vì thế, ông đã căn dặn các con mình phải đem số tiền gấp bằng hai theo với họ, cùng với những món quà tốt nhứt mà họ có nơi tay: một ít nhũ hương, mật ong, các hương hoa và một dược, phi tử và hạnh nhân (43:11-12). Thế là các con trai của Giacốp bèn đi xuống Aicập, kể cả Bêngiamin nữa.
Giôsép nhìn thấy họ tới đến, lần nầy với Bêngiamin. Ông dặn dò tôi tớ mình đưa mấy người nầy đến nhà của ông rồi dọn một bữa thật ngon để đãi họ ăn. Các anh em chỉ có thể tưởng tượng đều tệ hại nhất sẽ xảy đến:
“Anh em thấy mình phải đưa vào nhà Giô-sép, thì sợ hãi, và nói với nhau rằng: Ấy cũng vì số tiền đã để lại vào bao chúng ta lần trước, nên họ mới đem chúng ta vào chốn nầy, đặng tìm cớ xông vào đánh chúng ta, bắt chúng ta làm tôi mọi, và chiếm đoạt mấy con lừa của chúng ta” (43:18).
Ý thức tội lỗi của họ đã phủ lút họ. Họ không thể tưởng được điều nầy “viên quan cai trị xứ Aicập” đang làm một việc rất rời rộng cho họ. Họ sợ họ sẽ bị hình phạt bởi chính số phận mà họ đã mang lại trên em của họ là Giôsép.
Các anh em mau mắn giải thích về số tiền mà họ đã tìm thấy nơi mấy cái bao lúa của họ, và viên quản gia cẩn thận chọn lời lẽ để nói ra sự thật, tuy nhiên không hé lộ lai lịch của Giôsép hay các chương trình của ông dành cho họ:
“Mấy anh em bèn đến gần quản gia của Giô-sép, thưa cùng người tại ngoài cửa mà rằng: Xin chúa tha lỗi cho! anh em chúng tôi đã đến đây một lần rồi, đặng mua lương thực; và khi trở về đến nhà quán, mở các bao ra, nầy số bạc của mỗi người đều ở tại miệng bao mình; cân nặng bao nhiêu đều y như bấy nhiêu. Nầy, chúng tôi có đem lại số bạc đó, và cũng có đem thêm số bạc nữa đặng mua lương thực. Chẳng biết ai để bạc lại trong bao chúng tôi. Quản gia đáp rằng: Mọi việc đều bình yên! đừng sợ chi cả! Ấy là Đức Chúa Trời của các ngươi, tức Đức Chúa Trời của cha các ngươi, đã ban vật quí vào bao. Còn bạc các ngươi thì đã có giao cho ta. Đoạn, người dẫn Si-mê-ôn đến cùng anh em” (Sáng thế ký 43:19-23).
Viên quản gia đã làm mọi sự ông ta có thể để mở ra sự mến khách đối với các anh em của Giôsép. Thứ nhứt, ông ta dẫn Simêôn ra cho họ, và kế đó ông ta dẫn hết thảy họ vào trong nhà của Giôsép, ở đó họ được ban nước cho uống, và chơn của họ được rửa. Bầy lừa của họ cũng được no nê (43:24). Các anh em rất được khích lệ trước sự xuất hiện của “viên quan cai trị xứ Aicập”. Họ đã được dành cho sự chú ý long trọng trước sự bày ra “quà cáp” mà cha của họ đã gửi theo cùng với họ. Tôi có thể nhìn thấy họ đang đặt hết các thứ nầy ra rất cẩn trọng, như một người sẽ sắp đặt trình bày trên cửa của một cửa hiệu thật lớn. Họ muốn mọi sự đều được suông sẻ. Họ hy vọng rằng Giôsép sẽ nhìn vào quà cáp của họ rồi nói một câu đại loại như: “Ôi, phi tử kìa! Sao ta không nếm phi tử trong nhiều năm rồi. Và ngửi mùi hương hoa kia! Các ngươi quá tử tế đấy”.
Đây là điều mà họ thiếu sót hoàn toàn. Các thứ quà cáp họ mang theo cả thảy đã không phục vụ cho mục đích của họ. Giôsép đã không đẹp lòng bởi quà cáp của họ; thực vậy, quà cáp của họ là một sự nhắc nhớ đến tội lỗi của họ nghịch lại ông.
“Các anh em bèn sửa soạn của lễ, đợi trưa Giô-sép về; vì có hay rằng mình sẽ ăn bữa tại nhà nầy” (43:25, phần nhấn mạnh là của tôi).
“Đoạn, Y-sơ-ra-ên, cha các anh em, nói rằng: Nếu việc đã thể kia, thì bay phải làm thể nầy: Hãy lấy trong đồ hành lý những thổ sản quí nhất của xứ ta: một ít nhũ hương và mật ong, các hương hoa và một dược, phi tử và hạnh nhân, đem dâng cho người đó làm của lễ” (43:11, phần nhấn mạnh là của tôi).
“Đoạn, họ ngồi lại ăn. Nhướng mắt lên chợt thấy một đoàn dân Ích-ma-ên ở phía Ga-la-át đi đến, trên lưng lạc đà họ chở đầy thuốc thơm, nhũ hương và một dược đang đem đi đến xứ Ê-díp-tô” (37:25, phần nhấn mạnh là của tôi).
Cần phải tốn nhiều thời gian để tôi nhận ra điều nầy, nhưng khi bạn nhìn thật cẩn thận vào ba phân đoạn trên, bạn nhận ra rằng các thứ “quà cáp” mà họ mang đến gây ấn tượng cho Giôsép với sự tử tế của họ thực sự là những sự nhắc nhớ đến tính độc ác của họ mà thôi. Một vài thứ mà các anh của Giôsép đã mang đến cho ông từ đất Canaan cũng chính là những thứ mà các lái buôn Íchmaên đã mang theo với họ xuống Aicập, cùng với Giôsép. Mùi của các thức hương nầy đã đi cùng ông sang Aicập đã dầm thấm vào ký ức của Giôsép. Chính các loại dầu thơm mà Giôsép đã đạt tới chỗ phải xem khinh, vì cớ những sự hội hiệp mà họ đã có với tình trạng nô lệ của ông, giờ đây các thứ hương liệu ấy đã chào đón Giôsép khi ông bước vào nhà của mình. Có phải các anh của ông nghĩ quà cáp của họ sẽ thắng hơn được viên quan cai trị nầy? Kế hoạch của họ là rất thật đối với bản chất của Giacốp, là người đã đề xuất sự việc ấy, nhưng trong thực tế, nó đã trở thành thứ phản tác dụng nếu như Giôsép để nó lùa đi hết mọi cảm xúc của ông.
Khi Giôsép đến nơi, các anh ông đã sấp mình xuống trước mặt ông, một lần nữa làm ứng nghiệm hai điềm chiêm bao mà ông đã có trước đây (Sáng thế ký 37:5-11). Giôsép dường như chẳng để ý gì đến quà cáp của họ, vì thế ông cẩn thận sắp đặt để bắt lấy sự chú ý của họ và đạt được kế hoạch của mình. Giôsép chỉ hướng mắt mình nhìn vào em út của ông là Bêngiamin. Giôsép đã bị chạm bởi cách nhìn của em mình, ông phải ra khỏi phòng để bật khóc theo cách riêng tư. Khi ấy, ông rửa mặt rồi trở lại, ban lịnh “hãy dọn bữa ăn đi” (43:31). Các tôi tớ dọn ra ba bàn phân biệt: Một cho Giôsép, một cho các anh mình, và một cho những người Aicập nào cùng ăn với Giôsép. Giôsép đặt chỗ cho các anh mình theo thứ tự sinh ra của họ, cách dọn nầy đã làm cho họ phải ngạc nhiên và bối rối: “Làm sao ông ấy biết được?” Đây là một bữa tiệc của hoàng gia, và tôi dám chắc rằng các anh của Giôsép (là những kẻ lo đi kiếm lúa một thời gian trước đây) sẽ tán thưởng nó. Tôi cũng dám chắc rằng tất cả họ có thể dùng bữa ngon lành. Nhưng Giôsép đã làm một việc rất là bất thường – ông đã dọn phần cho Bêngiamin bằng năm phần nhiều hơn phần của các anh mình. Trong sự sửa soạn cho phần thử nghiệm còn ở trước mặt, Giôsép không thu nhỏ sự thực Bêngiamin là đứa con ưu ái của Giacốp; thật vậy, ông muốn nhấn mạnh sự thực nầy. Khi thời gian ăn uống đã qua, họ đã no nê cả đồ ăn và thức uống. Tôi có cảm giác điều nầy đã cung ứng cho các anh ông một nhận thức tin cậy giả tạo và làm mù mờ ý thức của họ trong giờ phút ấy.
Khi ấy Giôsép mới đưa ra các huấn thị rất cẩn thận cho tôi tớ của mình. Ông dặn viên quản gia đong đầy lúa vào mấy cái bao, một lần nữa đặt tiền bạc của họ vào bao của mỗi người. Tuy nhiên, lần nầy có thêm một món nữa – “Cái chén bạc” của Giôsép. Cái chén nầy cần phải được đặt trong bao của Bêngiamin, cùng với số tiền của người. Sau khi mấy người nầy lên đường về, tôi tớ của Giôsép đã đuổi theo và bắt kịp các anh em sau khi họ đã rời Aicập. Họ đã bị tố cáo đánh cắp cái chén của Giôsép, là thứ mà ông “thường dùng uống rượu và bói” (44:4-5).
Chẳng cần gì phải lo âu về những gì chúng ta đọc được ở đây. Giôsép thực sự không sử dụng cái chén nầy để bói đâu. Đây là một phần trong “kịch bản” của viên quản gia mà Giôsép đã dặn người phải nói. Đây là một phần trong sự giả trang của Giôsép. Khi Giôsép dặn tôi tớ mình giấu cái chén nầy vào bao của Bêngiamin, ông chỉ đề cập tới nó là “cái chén bằng bạc” mà thôi (44:2). Nhưng vì cớ các anh của ông, viên quản gia cần phải gọi cái chén ấy là chén mà chủ của ông ta dùng để bói. Giôsép muốn giả dạng lâu thêm một chút nữa, và điều nầy giúp giữ lấy cái lốt của ông.
Khi tôi tớ của Giôsép bắt kịp các anh em, ông ta chỉ làm theo như chủ đã dặn mình – ông ta tố cáo mấy người nầy lấy ác báo thiện bằng cách lấy cắp cái chén dùng để bói của chủ mình. Các anh em đều bị sốc khi họ bọ tố cáo một tội ác như thế. Họ vốn tin tưởng rằng chẳng ai trong số họ đã lấy cắp cái chén nầy, và vì thế họ phản ứng mạnh đối với lời tố cáo nầy. Họ kê ra hình phạt cho bản thân họ, cho bất cứ ai trong số họ đã lấp cắp cái chén nầy:
“Xin cho kẻ tôi tớ nào mà người tìm được cái chén đó phải chết đi, và chính chúng tôi sẽ làm tôi mọi cho chúa” (44:9).
Tôi tớ của Giôsép khi ấy mới đáp lại với câu nói nầy, kê ra điều chi là án phạt cho việc lấy cắp cái chén:
“Quản gia đáp: Ừ thôi! hãy làm như lời các ngươi đã nói: ta tìm được chén nơi ai thì người đó sẽ làm tôi mọi cho ta đó; còn các người thì vô tội” (44:10).
Tôi dám chắc rằng từng người trong số họ cực kỳ tin tưởng khi ông ta hạ bao của mình xuống đất rồi mở nó ra. Quả là một cú sốc cho từng người khi thấy số tiền của mình ở ngay miệng bao, giống như họ đã thấy trước đây. Đây là một việc giống như một viên cảnh sát bắt lấy, và ông ta đang lục soát cái rương của bạn để kiếm số tiền bị lấy cắp trong một vụ cướp nhà băng vậy. Tin tưởng số tiền không có trong xe của mình, bạn mở cái rương ra, nhìn thấy nó đầy các thứ vũ khí tự động. Tôi sẽ hình dung nỗi sợ hãi bắt lấy tấm lòng của từng người một khi họ khám phá ra số tiền của họ còn trong bao của mình.
Điều tệ hại nhất đã đến. Khi cái bao của Bêngiamin được mở ra, không những số tiền của người được tìm thấy, mà còn có cái chén bạc của Giôsép nữa. Các anh em đã xé áo họ trong đau khổ, chất bao lúa lên mấy con thú của họ, rồi lên đường trở lại để đối mặt với thứ âm nhạc trước mặt “viên quan cai trị xứ Aicập”. Khi họ đến nơi, Giôsép cứ tiếp tục giả dạng:
“Giô-sép hỏi: Các ngươi gây nên nông nỗi chi vậy? Há chẳng biết một kẻ như ta đây có tài bói sao?” (44:15).
Giôsép muốn mấy người nầy phải nghĩ rằng chẳng có gì về họ mà ông không biết, hay không thể tìm ra. (Rốt lại, ông đã sắp đặt rồi chỗ ngồi của họ theo thứ tự ra đời của họ). Và bây giờ, ông đã có cái chén bói bằng bạc, bởi đó ông có thể phân biệt lẽ thật (hay ông xưng như thế). Sứ điệp thật rõ ràng: quả là không tốt cho họ khi nói dối.
Giuđa được cho là lãnh đạo, và nói vì ích cho các anh em mình:
“Giu-đa đáp: Chúng tôi sẽ nói cùng chúa làm sao? sẽ phân lại làm sao? sẽ chữa mình chúng tôi làm sao? Đức Chúa Trời đã thấu rõ điều gian ác của tôi tớ chúa rồi. Nầy, chúng tôi cùng kẻ đã bị bắt được chén nơi tay đều làm kẻ tôi tớ cho chúa. Nhưng Giô-sép đáp rằng: Ta chẳng hề có ý làm như vậy đâu! Người mà đã bị bắt được chén nơi tay sẽ làm tôi mọi ta; còn các ngươi hãy trở về nhà cha mình bình yên” (44:16-17).
Câu trả lời của Giuđa rất là thú vị và rất là khích lệ. Tôi tin chắc rằng Giuđa vốn biết rõ rằng Bêngiamin không lấy cắp cái chén nầy, y như từng người trong số họ đã không lấy cắp số tiền mà họ đã trả để mua lúa. Giuđa phân biệt rõ ràng rằng đây là cách Đức Chúa Trời xử lý với họ. Vì thế ông nói: “Đức Chúa Trời đã thấu rõ điều gian ác của tôi tớ chúa rồi” (câu 16). Tôi không nghĩ Giuđa có ý nói: “Chúng tôi đã lấy cắp tiền bạc, và chúng tôi đã lấy cắp cái chén bạc; Đức Chúa Trời biết điều đó, và Ngài thấu rõ tội lỗi của chúng tôi”. Tôi nghĩ lời lẽ của Giuđa thực sự có ý nói: “Chúng tôi đã bán em mình vào vòng nô lệ (là điều ông không biết hay tán thưởng, viên quan cai trị xứ Aicập ơi, vì vậy tôi sẽ không đi sâu điều nầy trong chi tiết đâu), và hiện Đức Chúa Trời bày ra án phạt của chúng tôi cho tội lỗi ấy. Chúng tôi không làm những điều mà ông đang tố cáo chúng tôi làm, nhưng chúng tôi đã làm một việc còn tồi tệ hơn, và vì thế chúng tôi sẽ bào chữa về tội lỗi”. Thế là Giuđa vừa xưng tội cho các anh em mình vừa phục theo án phạt nô lệ cho cả thảy.
Đây là tiến trình thực tế cho các anh của Giôsép, nhưng họ chưa tỏ ra đầy đủ sự ăn năn thực của họ. Và vì thế Giôsép từ chối lời thỉnh cầu của Giuđa. Đáp ứng của Giôsép có thể được tóm tắt theo cách nầy: “Ồ không, sẽ chẳng công bằng khi án phạt hết thảy các ngươi vì tội của một người trong các ngươi đã phạm phải. Án phạt phải được thực thi cho kẻ nào mà bao của người ấy có cái chén được tìm thấy sẽ làm nô lệ của ta, và phần còn lại trong các ngươi được tự do về nhà với gia đình mình”.
Đây là phần thử nghiệm long trọng nhất trong đời sống của họ. Họ có thể bắt lấy lời lẽ của Giôsép, đoạn tuyệt với Bêngiamin vì đã lấy cắp, rồi về nhà ở Canaan là những kẻ tự do, để Bêngiamin lại làm một trong các nô lệ của Pharaôn. Thực ra, họ có thể thực hiện cho Bêngiamin chính xác những gì họ đã làm cho Giôsép. Thật là dễ bỏ đi và bỏ Bêngiamin lại, y như họ đã từ bỏ Giôsép vậy.
Quả thật, đây là giờ tốt nhứt của Giuđa. Ông là người đứng ra bảo đảm sự an toàn cho Bêngiamin (42:9). Bây giờ, ông chu toàn lời hứa của mình đối với người cha đã già của mình. Giuđa bước tới rồi xin trình bày trước “viên quan cai trị xứ Aicập”. Giuđa đã giải thích thể nào họ đã nói cho ông biết về em út của họ là Bêngiamin. Khi người anh lớn của nó đã chết, Bêngiamin bây giờ là đứa con duy nhất còn lại của người vợ của cha mình là Rachên. Vì ông khẳng định rằng họ đem em út nầy xuống Aicập, họ đã làm y như thế, nhưng với sự bất chấp phản kháng mạnh mẽ của cha họ. Cha của đứa trẻ giờ đây già rồi, và nếu đứa con nầy không trở về, điều đó sẽ giết chết cha của họ. Giuđa nói cho “viên quan cai trị xứ Aicập” biết rằng ông là người đứng bảo lãnh đứa trẻ với cha mình, và vì thế ông nài xin vị quan để cho đứa trẻ trở về với cha nó, và hãy bắt ông làm nô lệ. Giuđa nài xin lấy địa vị của Bêngiamin, để tha mạng cho em mình, cũng như mạng của cha họ. Giuđa, là người đã quăng cái áo choàng nhúng trong huyết nơi chơn của cha mình cách đây nhiều năm, giờ đây đang nài xin Giôsép động lòng thương xót cho cha của họ, như ông đang làm đây.
Như thế là quá nhiều cho Giôsép. Ông không còn dằn lòng được nữa. Thật vậy, ông không cần phải kềm lòng nữa mà chi. Ông có thể tỏ ra lai lịch thật của mình vì các anh của ông sau cùng đã tỏ ra sự ăn năn thật. Giôsép ra lịnh cho ai nấy rời khỏi căn phòng đó, trừ ra các anh em của ông. Ông đã khóc lớn tiếng rồi nói cho họ biết ông là Giôsép, em của họ. Ông hỏi thăm không biết cha ông vẫn còn sống hay không!?! Các anh đã bị sốc. Họ không thể tin những gì ông nói cho họ biết. Ông yêu cầu họ đến gần hơn, và họ đã đến. Ông nhắc lại rằng ông là người em mà họ đã bán đi vào vòng nô lệ trong xứ Aicập. Ông mau chóng khích lệ họ đừng bị chao đảo hay giận dữ với nhau nữa, vì Đức Chúa Trời đã sử dụng tội lỗi của họ để đem lại điều tốt lành, không những cho Giôsép, mà còn cho cả gia đình của Giacốp nữa. Đây là cách Đức Chúa Trời tiếp trợ cho con cái Israel trong thời điểm đói kém.
Khi ấy Giôsép mới bảo các anh quay trở về quê nhà đặng đem cha cùng gia đình họ xuống Aicập, thông báo cho họ biết rằng nạn đói còn kéo dài những năm năm nữa. Câu chuyện tiếp tục mô tả sự đến của Giacốp và gia đình ông tại Aicập. Đức Chúa Trời đã tiếp trợ cho họ có một chỗ riêng trong đất Aicập – xứ Gôsen – ở đó họ có thể chăn các bầy của mình. Hiển nhiên, họ sẽ mua cơ nghiệp ở đó và được thịnh vượng. Trong phương thức nầy, Đức Chúa Trời đã đưa Israel (cả thảy 70 người trong số họ) đến Aicập.
Trong những ngày sau cùng của ông, Giacốp bắt đầu chứng tỏ bông trái của đức tin mình. Khi đứng trước mặt Pharaôn, Giacốp nhìn nhận rằng cuộc đời ông ngắn ngủi và nhọc nhằn hơn các tổ phụ mình:
“Đoạn, Giô-sép dẫn Gia-cốp, cha mình, đến yết-kiến Pha-ra-ôn. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn. Pha-ra-ôn hỏi Gia-cốp rằng: Ngươi hưởng thọ được bao nhiêu tuổi? Gia-cốp tâu rằng: Những năm tôi sống ở đời phiêu lưu hết thảy là một trăm ba mươi năm; các năm của đời tôi lấy làm ngắn-ngủi và lại nhọc nhằn, chẳng bằng những năm bình sanh của tổ phụ tôi khi người ở phiêu lưu đó. Gia-cốp chúc phước cho Pha-ra-ôn một lần nữa, rồi lui ra khỏi mặt người” (Sáng thế ký 47:7-10).
Tôi tin rằng qua câu nói nầy, Giacốp nhìn nhận ông đã sống phần lớn cuộc đời mình theo xác thịt, đấu vật với Đức Chúa Trời và với con người. Cuộc sống ấy khiến cho ông phải nhìn thấy rằng sự phấn đấu của ông không phải là một đời sống của đức tin, và cuộc sống ấy không tạo ra sự bình an.
Việc thứ hai Giacốp đã làm trong những ngày cuối cùng của mình là chúc phước cho hai con trai của Giôsép:
“Vả, khi các việc đó qua rồi, có người nói cùng Giô-sép rằng: Nầy cha người đau; Giô-sép bèn đem Ma-na-se và Ép-ra-im, hai đứa con trai mình, cùng đi đến. Họ cho Gia-cốp hay và nói rằng: Nầy Giô-sép, con trai ông, đến thăm ông đó; Y-sơ-ra-ên cố gượng ngồi dậy trên giường. Gia-cốp nói cùng Giô-sép rằng: Đức Chúa Trời toàn năng đã hiện ra, và ban phước cho cha tại Lu-xơ, trong xứ Ca-na-an, mà phán rằng: Nầy ta sẽ làm cho ngươi sanh sản và thêm nhiều, làm thành một hội dân; ta sẽ cho dòng dõi ngươi xứ nầy làm cơ nghiệp đời đời. Bây giờ, hai đứa con trai đã sanh cho con tại xứ Ê-díp-tô trước khi cha đến, là Ép-ra-im và Ma-na-se, cũng sẽ thuộc về cha như Ru-bên và Si-mê-ôn vậy. Còn mấy đứa mà con sanh kế đó, thì sẽ thuộc về con; về phần hưởng cơ nghiệp, chúng nó sẽ đồng một thể cùng anh em mình. Khi cha ở Pha-đan trở về xứ Ca-na-an, thì Ra-chên chết dọc đường có mặt cha, gần Ê-phơ-rát; cha chôn người ở bên con đường đi về Ê-phơ-rát (tức là Bết-lê-hem). Y-sơ-ra-ên thấy các con trai Giô-sép, bèn hỏi rằng: Những đứa nầy là ai? Giô-sép thưa rằng: Ấy là những con trai của con mà Đức Chúa Trời đã cho tại xứ nầy. Y-sơ-ra-ên lại nói: Xin hãy đem đến đây, đặng cha chúc phước cho chúng nó. Vả, mắt của Y-sơ-ra-ên già nên làng, chẳng thấy chi nữa, bèn biểu chúng nó lại gần, ôm choàng và hôn. Y-sơ-ra-ên nói cùng Giô-sép rằng: Trước cha tưởng chẳng còn thấy được mặt con, nhưng bây giờ Đức Chúa Trời lại làm cho cha thấy được đến dòng dõi con nữa. Giô-sép dẫn hai đứa con trai ra khỏi hai đầu gối cha mình, rồi sấp mình xuống đất. Đoạn, người dẫn hai đứa trẻ lại gần cha; tay hữu thì dẫn Ép-ra-im sang qua phía tả của cha, còn tay tả dắt Ma-na-se sang qua phía hữu. Y-sơ-ra-ên đưa tay mặt ra, để trên đầu Ép-ra-im, là đứa nhỏ, còn tay trái lại để trên đầu Ma-na-se. Người có ý riêng để tay như vậy, vì Ma-na-se là đứa lớn. Rồi người chúc phước cho Giô-sép rằng: Cầu xin Đức Chúa Trời mà tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác đã thờ phượng; là Đức Chúa Trời đã chăn nuôi tôi từ khi mới lọt lòng cho đến ngày nay, thiên sứ đã cứu tôi ra ngoài vòng hoạn nạn, hãy ban phước cho hai đứa trẻ nầy; nối danh tôi và tổ phụ tôi là Áp-ra-ham và Y-sác, và cho chúng nó thêm lên nhiều vô số trên mặt đất! Nhưng Giô-sép thấy cha mình để tay hữu trên đầu Ép-ra-im, thì có ý bất bình, liền nắm lấy tay cha đã để lên đầu Ép-ra-im mà tráo đổi qua đầu Ma-na-se, rồi thưa rằng: Chẳng phải vậy, cha. Đứa nầy đầu lòng, để tay hữu cha trên đầu nó mới phải chớ. Nhưng cha người không chịu và cãi rằng: Cha biết, con, cha biết. Nó sẽ trở nên một dân; nó cũng sẽ lớn vậy, con; song thể nào em nó cũng sẽ lớn hơn và dòng dõi nó sẽ thành ra vô số nước. Trong ngày đó, người chúc phước cho hai đứa con trai nầy mà nói rằng: Ấy vì ngươi mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ chúc phước nhau rằng: Cầu xin Đức Chúa Trời làm cho ngươi được giống như Ép-ra-im và Ma-na-se. Vậy, Gia-cốp đặt Ép-ra-im trước Ma-na-se. Y-sơ-ra-ên lại nói cùng Giô-sép rằng: Nầy, cha sẽ thác, nhưng Đức Chúa Trời sẽ phù hộ và đem các con trở về xứ tổ phụ. Còn cha sẽ cho con một phần đất trổi hơn các anh em, là phần đất của cha đã dùng cung-kiếm đoạt lấy của dân A-mô-rít đó” (Sáng thế ký 48:1-22).
Một người khó mà quên được điểm tương đồng của sự chúc phước nầy cho hai con trai của Giôsép với sự chúc phước của Ysác cho hai con trai của ông trong lúc tuổi già. Cả Ysác và Giacốp đều già cả, và mắt họ đã làng rồi. Trong trường hợp của Ysác, Giacốp đã tìm cách tiếp lấy ơn phước của cha mình dưới cái lốt giả mạo, giống như Ysác ao ước chúc phước cho con trai cả, bất chấp sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời là ngược lại. Trong trường hợp nầy, Giôsép đặt hai con trai mình trước mặt cha của ông theo một phương thức để ông sẽ không nhầm lẫn đâu là đứa lớn đâu là đứa nhỏ. Nhìn biết rằng cháu nội lớn của mình được đặt bên tay hữu, Giacốp dời tay mình rồi đặt chéo trên chúng, cố ý ban cho đứa nhỏ quyền con trưởng. Giôsép lúc đầu bực bội và tìm cách sửa cha mình, cho tới chừng ông nhìn ra rằng đây là một hành động có cân nhắc thận trọng. Bởi hành động nầy, Giacốp dường như làm biểu tượng cho lẽ thật được trình bày ở Rôma 9:
“Ấy chẳng phải lời Đức Chúa Trời là vô ích. Vì những kẻ bởi Y-sơ-ra-ên sanh hạ, chẳng phải vì đó mà hết thảy đều là người Y-sơ-ra-ên. cũng không phải vì là dòng dõi của Áp-ra-ham thì hết thảy đều là con cái người; nhưng có chép rằng: Ấy là bởi Y-sác mà ngươi sẽ có một dòng dõi gọi theo tên ngươi; nghĩa là chẳng phải con cái thuộc về xác thịt là con cái Đức Chúa Trời, nhưng con cái thuộc về lời hứa thì được kể là dòng dõi Áp-ra-ham vậy. Vả, lời nầy thật là một lời hứa: Cũng kỳ nầy ta sẽ lại đến, Sa-ra sẽ có một con trai. Nào những thế thôi, về phần Rê-be-ca, khi bà ấy bởi tổ phụ chúng ta là Y-sác mà có thai đôi cũng vậy. Vì, khi hai con chưa sanh ra, chưa làm điều chi lành hay dữ-hầu cho được giữ vững ý chỉ Đức Chúa Trời, là ý định sẵn bởi sự kén chọn tự do của Ngài, chẳng cứ việc làm, nhưng cứ Đấng kêu gọi- thì có lời phán cho mẹ của hai con rằng: Đứa lớn sẽ làm tôi đứa nhỏ; như có chép rằng: Ta yêu Gia-cốp và ghét Ê-sau” (Rôma 9:6-13).
Giacốp nhơn đó công nhận rằng ơn phước của Giao ước với Ápraham được chuyển qua cho một người trong sự lựa chọn của Đức Chúa Trời. Đấy là vấn đề lựa chọn, dựa theo ân điển tể trị; nó không được quyết bằng các việc lành (hiện tại hay tương lai), và nó không được quyết bằng kế hoạch hoặc vận động bằng mánh khóe. Chính Đức Chúa Trời lựa chọn ông, thay vì Êsau, đã làm cho ông trở thành kẻ kế tự Giao ước với Ápraham. Chính Đức Chúa Trời đã quan phòng và ban phước cho ông suốt cuộc đời ông, không nhắm vào công trạng hay kế sách của ông, mà vì Đức Chúa Trời đã chọn ông để làm kẻ kế tự ơn phước được hứa cho Ápraham.
Giacốp không những chúc phước cho hai con trai của Giôsép; ông đã bắt chúng làm con nuôi (48:5-6). Con trai cả của ông là Rubên, đã phạm tội nghịch lại cha mình do ngủ với một trong hai nàng hầu (35:22; 49:3-4), và nhơn đó bị truất quyền trưởng nam. Bằng cách bắt Épraim và Manase làm con nuôi, Giacốp đã ban quyền trưởng nam cho Giôsép, vì ông giờ đây nhận được cơ nghiệp gấp bằng hai qua hai con trai của mình.
Hành động thứ ba và sau cùng của Giacốp (như câu chuyện trong Kinh thánh quan tâm) là ơn phước ông công bố trên từng đứa con của mình, như đã được ghi lại ở Sáng thế ký 49. Các “ơn phước” nầy thực sự là những lời tiên tri về tương lai của từng đứa con và dòng dõi của ông. Quan trọng nhất trong các ơn phước nầy là ơn phước của Giuđa:
“Hỡi Giu-đa! các anh em sẽ khen ngợi con, Tay con sẽ chận cổ quân nghịch, Các con trai cha sẽ quì lạy trước mặt con. Giu-đa là một sư tử tơ; Hỡi con! Con bắt được mồi rồi tha về. Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực, Như sư tử cái; há ai dám khiến ngồi lên? Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa, Kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó, Cho đến chừng Đấng Si-lô hiện tới, Và các dân vâng phục Đấng đó. Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho, Lừa con mình vào nhành nho tốt nhất. Người giặt áo xống mình vào rượu nho, Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình. Mắt người đỏ vì cớ rượu, Răng người trắng vì cớ sữa” (Sáng thế ký 49:8-12).
Ơn phước nầy trên Giuđa cho thấy sự thực lời hứa giao ước được ban cho Ápraham, Ysác, và chính mình ông giờ đây sẽ được chuyển sang cho Giuđa. Ápraham và Sara được truyền cho biết một dòng dõi vua chúa sẽ bắt đầu từ họ (Sáng thế ký 17:6, 16). Giờ đây chúng ta thấy rằng các vua nầy sẽ đến qua chi phái Giuđa. Trong tương lai, Đức Chúa Trời sẽ tỏ ra dòng dõi vua chúa nầy sẽ đến qua dòng dõi của David. Những gì chúng ta thấy ở đây trong Sáng thế ký 29:10-12, ấy là “Vua các vua” sẽ đến qua dòng dõi của Giuđa. Câu nói truyền thống “cho tới chừng Đấng Silô hiện đến” (49:10) có lẽ được hiểu rõ ràng hơn khi nói: “cho tới chừng Ngài đến với dân mà Ngài thuộc về”, như có thể thấy được trong bản dịch NET. Dòng dõi của David sẽ trị vì cho tới chừng “Sư Tử của chi phái Giuđa”, “Con của David” tối hậu và sau cùng ngự đến:
“Đến tháng thứ sáu, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa- rét, xứ Ga-li-lê, tới cùng một người nữ đồng trinh tên là Ma-ri, đã hứa gả cho một người nam tên là Giô-sép, về dòng vua Đa-vít. Thiên sứ vào chỗ người nữ ở, nói rằng: Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi; Chúa ở cùng ngươi. Ma-ri nghe nói thì bối rối, tự hỏi rằng lời chào ấy có nghĩa gì. Thiên-sứ bèn nói rằng: Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus. Con trai ấy sẽ nên tôn trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao; và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài. Ngài sẽ trị vì đời đời nhà Gia-cốp, nước Ngài vô cùng” (Luca 1:26-33, phần nhấn mạnh là của tôi).
Phần kết luận
Đời sống của Giacốp, Giuđa, và Giôsép dạy chúng ta nhiều bài học quan trọng và cũng có nhiều điều để nói với chúng ta qua cách ứng dụng. Tôi sẽ kết luận bằng cách chỉ ra một số việc mà chúng ta có thể tiếp thu từ phân đoạn Kinh thánh gốc của chúng ta.
Gần như mọi sự chúng ta tiếp thu từ Giacốp đều là tiêu cực. Giacốp giờ đây nói với chúng ta, nếu ông có thể nói: “Đừng làm theo như tôi đã làm”. Giacốp là một người đã đấu vật với Đức Chúa Trời và con người gần hết cuộc đời của mình, và vì điều nầy, ông đã trả một giá rất cao. Như ông đã nói với Pharaôn, đời sống ông ngắn ngủi và nhọc nhằn hơn đời sống của các tổ phụ ông (Sáng thế ký 47:9). Ápraham bằng lòng vâng theo Đức Chúa Trời, lên tới điểm dâng con mình làm của lễ thiêu, nếu cần thiết (Sáng thế ký 22), nhưng Giacốp bám lấy các con trai cưng của mình (trước là Giôsép, rồi đến Bêngiamin), ông chỉ nắm được họ trong một thời gian ngắn thôi. Hầu như từng việc tốt lành Đức Chúa Trời đã làm cho đời sống của Giacốp đã ở trong sự bất chấp ông. Điều đó không xảy ra qua sự vâng phục năng động của ông, mà tùy thuộc vào Chúa, bất chấp sự kháng cự của ông. Vì cớ điều nầy, ông không kinh nghiệm được sự vui mừng khi bước đi trong sự vâng theo Đức Chúa Trời.
Có cả hai: tin tốt và tin xấu cần phải phân biệt từ đời sống của Giacốp. Ở một mặt, chúng ta có thể được khích lệ qua sự thực các ý đồ và lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được ứng nghiệm, thậm chí nếu sự ấy bất chấp tội lỗi của chúng ta. Tin xấu, ấy là kháng cự Đức Chúa Trời đến với một giá rất cao. Các mối quan hệ của Giacốp đều rất thảm hại. Hai người vợ của ông đã tranh đấu để dành lấy tình cảm của ông. Laban và các con trai của ông ta đã đạt tới chỗ bực tức Giacốp vì ông đã thủ lợi với tổn phí của họ. Các con trai của Giacốp không những không thích nhau, họ bực tức tình cảm thiên vị của cha họ. Dường như hầu hết họ đều thích đưa ông đến chỗ kết luận rằng Giôsép đã bị con thú hoang xé thành từng mảnh. Trong một số năm tháng, Giacốp đã sống với giả tưởng rằng con trai mình là Giôsép đã chết. Ông đối mặt với những thử thách trong cuộc sống với sợ hãi, chớ không phải với đức tin. Ông nhắm vào bản thân ông quá nhiều và quá ít về người khác. Thuộc về ông không phải là “cuộc sống tốt lành”.
Trong mọi sự nầy, Giacốp (Israel) là khuôn mẫu trọn vẹn cho dân Israel. Giống như các tổ phụ họ, dân Do thái thường nương cậy vào nổ lực của xác thịt. Phần lớn thời gian họ chống đối Đức Chúa Trời và tin cậy vào các phương sách của riêng họ. Rất nhiều lần Đức Chúa Trời buông tha cho họ tránh được sự hủy diệt và chỉ cho họ thấy Ngài đang tể trị – bất chấp tội lỗi của họ. Giacốp không bắt đầu hiểu được hay thưởng thức ân điển của Đức Chúa Trời cho tới chừng gần cuối đời của mình; tuy vậy dân Do thái tận hưởng trọn vẹn ơn ấy. Chỉ sau nhiều cơn thử thách quan trọng và hoạn nạn thì họ mới chịu phục theo Đức Chúa Jêsus Christ, là “dòng dõi của Ápraham” được hứa cho (xem Galati 3:15-16), là Cứu Chúa và là Chúa.
Chúng ta thấy bàn tay của Chúa tể trị trên đời sống của Giuđa nữa. Giuđa đã lìa gia đình, bắt đầu sống giữa vòng dân Canaan, lấy một người vợ Canaan cho chính mình, và cho các con trai mình. Ấy chẳng phải do sự trung tín của Giuđa mà dòng dõi ông được bảo tồn, mà bất chấp sự bất tuân của ông. Chính Giuđa là người đề nghị bán em mình là Giôsép làm nô lệ. Song chẳng giống như Giacốp, Giuđa đạt tới chỗ nhìn thấy tội lỗi của mình rồi ăn năn về tội lỗi ấy. Ông nhìn nhận rằng con dâu người Ngoại của ông, là Tama, còn công bình hơn cả ông (Sáng thế ký 38:26). Khi cha ông là Giacốp từ chối không thừa nhận chức vụ lãnh thuộc linh của gia đình ông, Giuđa đã bước lên phía trước. Ông lãnh trách nhiệm cá nhân về sự sống còn của Bêngiamin. Và khi Giôsép soạn một kịch bản ở Đôthan, chính Giuđa là người hiến mình thế chỗ cho Bêngiamin. Từ một người ít quan tâm đến cha của ông (Sáng thế ký 37:29-35), ông đã có lòng thương xót cha già của mình, nhìn biết rằng sự mất mát Bêngiamin sẽ hủy diệt ông ấy (Sáng thế ký 44:14-34). Mọi sự nầy đã diễn ra trước khi Giuđa có bất kỳ công nhận nào về Đức Chúa Trời sẽ chuyển các ơn phước trong Giao ước với Ápraham qua ông (49:8-12).
Đặc biệt là từ Giuđa, mà cũng từ các anh em khác của ông, chúng ta học được sự khác biệt giữa sự buồn rầu vì tội lỗi và sự ăn năn chân chính. Khi các anh của Giôsép bị tống giam trong một nhà tù ở Aicập, họ tỏ ra sự buồn rầu vì cách thức họ đối đãi với em của họ (42:21-22). Song sự ăn năn thật còn nhiều hơn cả sự buồn rầu ấy – buồn rầu vì bạn đã làm việc sai trái – sự buồn rầu đó là một sự thay đổi cả tâm trí, hầu cho khi có cơ hội lặp lại tội lỗi, chúng ta sẽ xây khỏi nó.
Loại ăn năn nầy là những gì Giôsép đang tác động muốn hoàn tất trong đời sống của các anh mình khi họ đến tại Aicập đặng mua lúa. Ông đã đạt tới những giới hạn với bất kỳ sự cay đắng và giận dữ nào đối cùng các anh mình, như chúng ta nhìn thấy trong việc đặt tên cho hai đứa con của ông (Sáng thế ký 41:46-52). Ông cũng đạt tới chỗ hiểu rõ ý nghĩa của các điềm chiêm bao của mình, được ban cho rất sớm trong cuộc đời của ông. Không những chiêm bao công bố rằng ông có quyền trên các anh mình, mà ông còn luyện tập chức năng lãnh đạo thuộc linh vì ích của các anh em ông nữa. Ngược lại với những lần xuất hiện đầu tiên, Giôsép không tìm cách khiến các anh mình phải trả giá vì tội lỗi của họ nghịch lại ông, mà còn tìm cách đem họ đến với sự ăn năn. Làm như thế dính dáng với đau khổ, giống như Phaolô thấy cần thiết phải chỉnh sửa người thành Côrinhtô vậy:
“Dầu nhơn bức thơ tôi, đã làm cho anh em buồn rầu, thì tôi chẳng lấy làm phàn nàn; mà nếu trước đã phàn nàn (vì tôi thấy bức thơ ấy ít nữa cũng làm cho anh em buồn rầu trong một lúc), nay tôi lại mừng, không phải mừng về sự anh em đã phải buồn rầu, song mừng về sự buồn rầu làm cho anh em sanh lòng hối cải. Thật, anh em đã buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời, đến nỗi chưa chịu thiệt hại bởi chúng tôi chút nào. Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, và sự hối cải dẫn đến sự rỗi linh hồn; về sự đó người ta chẳng hề ăn năn, còn sự buồn rầu theo thế gian sanh ra sự chết. Vậy, hãy xem, sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự ân cần trong anh em là dường nào! Lại có sự chữa chối, buồn giận, răn sợ, sốt sắng, nông nả, trách phạt là dường nào! Anh em đã tỏ ra cho ai nấy đều biết rằng mình vốn là thanh sạch trong việc đó” (II Côrinhtô 7:8-11).
Giôsép đã làm cho các anh mình phải buồn rầu, nhưng không phải vì cớ báo thù đâu. Rõ ràng rằng việc khiến cho các anh của ông phải buồn rầu cũng rất đau buồn đối với Giôsép. Thậm chí ở giữa tính gay gắt của Giôsép, có một chiều sâu của lòng thương xót. Ông đã tinh vi gợi ý cho họ, điều nầy sẽ tạo ra sự khích lệ. Thí dụ, ông nói cho họ biết rằng ông cũng kính sợ Đức Chúa Trời (42:18). Ở giữa chỗ quá nghiệt ngã ấy, có sự tử tế. Cả hai lần họ trở về quê nhà với lúa mua ở Aicập, Giôsép đã đặt tiền bạc của họ vào trong những cái bao của họ. Ông cũng đối xử với các anh mình với một bữa ăn thịnh soạn. Cái điều mỉa mai trong mọi sự nầy, ấy là tội lỗi của các anh ông đã gánh là quá lớn, họ không có khả năng công nhận ân điển, để mà thưởng thức ân ấy. Tội lỗi của chúng ta làm mờ mắt chúng ta trước ân điển của Đức Chúa Trời. Giống như Giacốp, chúng ta nghĩ rằng mọi cảnh ngộ đang hủy diệt chúng ta, khi chúng được Đức Chúa Trời đan dệt vào nhau đặng giải cứu chúng ta.
Nếu Giacốp là một tấm gương chỉ ra chức năng lãnh đạo thuộc linh không hiệu quả, thì Giôsép là khuôn mẫu cho chức năng lãnh đạo thuộc linh. Cách đây mấy năm, J. Oswald Sanders đã giảng về chức năng lãnh đạo thuộc linh tại một giáo hội nghị ở Fort Worth. Tôi có đến dự và rất được phước bởi sự dạy dỗ và tấm gương của cụ già tin kính nầy. Theo tôi nhớ, ông có ba mục tiêu chính về đề tài chức năng lãnh đạo thuộc linh: chịu khổ, địa vị tôi tớ, và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Ông tin rằng sự chịu khổ nắn đúc cấp lãnh đạo thuộc linh, và cấp lãnh đạo thực thụ là những người thực hành địa vị tôi tớ rất thực. Ông cũng chia sẻ khi Đức Chúa Trời đặt ông vào địa vị của chức năng lãnh đạo thuộc linh, thì rõ ràng địa vị chức vụ được quyết định bởi sự tể trị của Ngài.
Khi tôi nhìn vào đời sống của Giôsép, tôi thấy hết ba mục tiêu chính của Sanders được bày ra, cộng thêm vài điều nữa (thật tình cờ, là những điều bắt đầu bằng chữ “s”):
Đức Chúa Trời sửa soạn Giôsép nắm lấy chức năng lãnh đạo bằng nổi khổ [suffering] mà ông đã chịu đựng. Không một đau khổ nào của Giôsép bị phung phí trong cả hai thứ: thời gian hay năng lực. Trong thời điểm làm nô lệ và tù đày của Giôsép, ông đã tiếp thu được ngôn ngữ và văn hóa của Aicập, một việc mà ông sẽ cần đến trong nhiều năm tháng sắp tới, nhưng điều nầy không rõ ràng vào thời điểm đau khổ của ông. Đức Chúa Trời đã để cho Giôsép bị vu cáo bởi Bà Phôtipha, và nhờ đó bị quăng vào ngục. Nhưng đây là nhà tù của hạng tù chính trị. Vì lẽ đó, những nhân vật như “quan tửu chánh” và “quan thượng thiện” của nhà vua mới được đặt dưới quyền quản chế của Giôsép. Đây là cơ hội trọn vẹn cho Giôsép tiếp thu phần lễ tân thích đáng cho một quan chức chính phủ cao cấp, không bao lâu nữa thì ông sẽ trở thành nhân vật ấy. Không một đau khổ nào của Giôsép (hay bất cứ thánh đồ nào) từng bị phung phí.
Yếu tố thứ hai của chức năng lãnh đạo là địa vị tôi tớ [servanthood]. Tôi e rằng trong thời tuổi trẻ Giôsép không phải là tôi tớ của các anh mình, là điều mà ông đáng phải có. Dường như ông không khôn khéo trong cách thức ông sử dụng thẩm quyền của mình. Tôi không nghĩ người nào dám nói Giôsép thực sự hầu việc các anh mình vào thời điểm nầy trong cuộc đời của ông. Giôsép đã suy gẫm luôn về cơn giận mà các anh đã tỏ ra với mình. Ông phải thấy trước việc ấy vì đó là phương thức ông luyện tập uy quyền của mình trên họ đã làm cho họ phải nổi giận lên. Việc đầu tiên họ đã làm là lột cái choàng khỏi người ông. Họ đã trêu chọc ông về hai điềm chiêm bao kia. Giôsép đạt tới chỗ hiểu rõ một địa vị uy quyền là một nơi để phục vụ, chớ không phải để tỏ ra thân thế. Vì thế, sau khi tiếp thu bài học về địa vị tôi tớ, khi Giôsép được giao coi sóc quan tửu chánh và quan thượng thiện ở trong tù, ông đã sử dụng địa vị của mình lo phục vụ cho họ, chớ không phải làm chúa tể trên họ.
Yếu tố thứ ba về chức năng lãnh đạo thuộc linh là sự tể trị [sovereignty]. Qua sự chịu khổ, Giôsép đã đạt tới chỗ hiểu biết đầy đủ hơn về quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Thậm chí trước khi các anh sang đến Aicập nữa, ông công nhận rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng nghịch cảnh của ông để đem phước hạnh đến (41:51-52). Ông nói cho các anh mình biết điều nầy khi họ sợ ông sẽ tống giam hết thảy họ vì những điều ác đã làm cho ông:
“Đức Chúa Trời sai tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em. Không, chẳng phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức Chúa Trời; Ngài dường đặt tôi làm cha Pha-ra-ôn, cai quản cả nhà người, và trị khắp xứ Ê-díp-tô” (Sáng thế ký 45:7-8).
“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo. Vậy, đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh. Đoạn, Giô-sép an ủi các anh, và lấy lời êm dịu mà nói cùng họ” (Sáng thế ký 50:20-21).
Đức Chúa Trời đã tể trị chỉ định Giôsép trên các anh ông. Đức Chúa Trời đã ban cho Giôsép các ân tứ và tài khéo tiến cử ông cho Phôtipha và cho Pharaôn. Giôsép không thể kiêu căng với những gì Đức Chúa Trời đã tể trị ban cho ông, và giờ đây ông biết rõ sự ấy.
Yếu tố thứ tư của chức năng lãnh đạo thuộc linh là chức năng quản trị [stewardship]. Một người quản lý không sở hữu những thứ đang ở dưới sự cai quản của mình. Cách bày tỏ rõ ràng nhứt về bộ não “quản gia” của ông được thấy trong phản ứng của Giôsép với Bà Phôtipha, là người đã thúc giục Giôsép phải “chiếm lấy” bà ta:
“Chàng từ chối và đáp rằng: Chủ đã giao nơi tay tôi mọi vật của người, và nầy, chủ chẳng lo biết đến việc chi trong nhà nữa; trong nhà nầy chẳng ai lớn hơn tôi, và chủ cùng không cấm chi tôi, trừ ra một mình ngươi, vì là vợ của chủ tôi. Thế nào tôi dám làm điều đại ác dường ấy, mà phạm tội cùng Đức Chúa Trời sao?” (Sáng thế ký 39:8-9).
Giôsép không sỡ hữu những gì ông cai quản. Tuy nhiên, tôi lấy làm lạ, không biết các anh của ông có cảm thấy ông đã hành xử theo cách ấy đối cùng họ trong thời tuổi trẻ hay không!?! Thế nhưng khi ở trong nhà của Phôtipha, mặc dù Giôsép đang cai quản mọi sự (trừ ra Bà Phôtipha), ông đã không sỡ hữu bất cứ thứ gì. Cũng thực như thế trong nhà tù và khi phục vụ cho Pharaôn. Giôsép là một người quản trị. Ông không xưng nhận thứ gì mà ông không quản lý.
Yếu tố thứ năm của chức năng lãnh đạo thuộc linh là những gì tôi muốn gọi là “cái nhìn thế tục”[secular savy]. Thường thì có một sự phân biện giả dối rút ra giữa chức năng lãnh đạo thuộc linh và thế tục. Giôsép là một cấp lãnh đạo thuộc linh có tài trong bất cứ tình huống nào ông được đặt vào đấy. Ông là một “cấp lãnh đạo thuộc linh” ở trong nhà của Phôtipha, vì Phôtipha nhìn thấy bàn tay của Đức Chúa Trời ở trên ông:
“Giô-sép ở trong nhà chủ mình, là người Ê-díp-tô, được Đức Giê-hô-va phù hộ, nên thạnh lợi luôn. Chủ thấy Đức Giê-hô-va phù hộ chàng và xui cho mọi việc chi chàng lãnh làm nơi tay đều được thạnh vượng” (Sáng thế ký 39:2-3).
Khi Giôsép làm trái ý Bà Phôtipha, ông giải thích mọi hành động của ông trong các giới hạn thuộc linh (39:9). Khi Giôsép phục vụ cho quan tửu chánh và quan thượng thiện ở trong tù, ông đã phục vụ trong các giới hạn thuộc linh đó:
“bèn hỏi rằng: Ngày nay sao hai quan có sắc mặt âu sầu vậy? Đáp rằng: Chúng tôi có thấy một điềm chiêm bao mà không ai bàn giùm. Giô-sép rằng: Sự bàn chiêm bao há chẳng do nơi Đức Chúa Trời ư? Xin hãy thuật lại điềm chiêm bao của hai quan cho tôi nghe đi” (Sáng thế ký 40:7-8).
Cũng thực như thế trong chức vụ của ông với Pharaôn. Quan tửu chánh rất cẩn trọng né tránh bất cứ tham khảo thuộc linh nào về sự phục vụ của Giôsép đối với ông (41:9-13), song khi Giôsép phục vụ cho Pharaôn, ông rất thường dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời:
“Giô-sép tâu rằng: Đó chẳng phải tôi, nhưng ấy là Đức Chúa Trời đem sự bình an đáp cho bệ hạ vậy” (Sáng thế ký 41:16).
“Giô-sép tâu cùng Pha-ra-ôn rằng: Hai điềm chiêm bao của bệ hạ thấy đó đồng một nghĩa mà thôi; Đức Chúa Trời mách cho bệ hạ biết trước những việc Ngài sẽ làm” (Sáng thế ký 41:25).
“Ấy là điều tôi đã tâu cùng bệ hạ rồi: Đức Chúa Trời có cho bệ hạ thấy những việc Ngài sẽ làm” (41:28).
Giôsép là một cấp lãnh đạo thuộc linh, đang thực thi một phần việc thuộc thế tục. Thường thì tất cả các Cơ đốc nhân đều cho rằng chức năng lãnh đạo thuộc linh đòi hỏi một môi trường thuộc linh. Họ cảm thấy “công việc Cơ đốc trọn thời gian” là siêu đẳng đối với “công việc thế tục”. Tôi nghĩ phân đoạn Kinh thánh gốc nầy (và nhiều phân đoạn khác nữa) cho thấy lối suy nghĩ như thế nầy là sai. Giôsép có cái chạm thuộc linh rất lớn trên những người nào mà ông tiếp xúc với qua công việc thế tục của ông. Cũng hãy suy nghĩ về những người giống như Đaniên xem.
Điều nầy dẫn tôi tới chỗ phải kết luận rằng trừ phi một người có thể tỏ ra chức năng lãnh đạo thuộc linh trong thế giới công việc của thế tục, tôi e rằng người ấy có thể luyện tập chức năng lãnh đạo thuộc linh trong Hội thánh. Há đây chẳng phải là điều Phaolô đang nói khi ông đề ra các đức tính cho cấp trưởng lão?
“Vậy, người giám mục cần phải không chỗ trách được, là chồng chỉ một vợ mà thôi, có tiết độ, có tài trí, xứng đáng, hay tiếp khách và khéo dạy dỗ. Đừng mê rượu, cũng đừng hung bạo, nhưng phải mềm mại hòa nhã; lại đừng ham tiền bạc; phải khéo cai trị nhà riêng mình, giữ con cái mình cho vâng phục và ngay thật trọn vẹn; vì nếu có ai không biết cai trị nhà riêng mình, thì làm sao cai trị được Hội thánh của Đức Chúa Trời? Người mới tin đạo không được làm giám mục, e người tự kiêu mà sa vào án phạt của ma quỉ chăng. Người giám mục lại phải được người ngoại làm chứng tốt cho, kẻo bị sỉ nhục và mắc bẫy ma quỉ” (I Timôthê 3:2-7).
Nếu tôi theo cách của tôi, chẳng một người nào sẽ bước vào chức vụ Cơ đốc trọn thời gian cho tới chừng họ đã nhận được những năng khiếu trong việc làm thế tục, và kế đó tự minh chứng mình là khôn ngoan trong hình thức nào đó của việc làm “thế tục”. Sách Châm ngôn, theo tôi hiểu, thì sách nầy được viết ra cho những ai sẽ nắm quyền cai trị, người nào muốn luyện tập chức năng lãnh đạo thuộc linh trong xứ Israel. Khi bạn đọc qua quyển sách quan trọng nầy, hãy chú ý các câu châm ngôn nầy thường xử lý với thế giới thực của việc làm, gia đình, bạn hữu và còn nhiều nữa. Giôsép là một người vốn biết rõ phải làm việc thể nào trong một phương thức có lợi cho chủ mình, và điều đó làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời của ông. Ông là một cấp lãnh đạo thuộc linh, chức vụ của ông nằm trong thế giới việc làm của thế tục.
Phân đoạn Kinh thánh gốc của chúng ta có phần nói tới sự thuần khiết trong tình dục. Cách đây mấy năm, bạn tôi là Craig Nelson và tôi đến phục vụ ở châu Á. Chúng tôi là đội chuyên giảng dạy từ sách Sáng thế ký, khởi sự từ chương 37. Một trong những người ở nhà thờ đã chống báng, họ cho rằng có “quá nhiều chỗ nói tới tình dục” trong sự giảng dạy của chúng tôi. Chúng tôi chỉ ra rằng đang khi chúng tôi tìm cách trải nghiệm những gì chúng tôi giảng dạy, các chương nầy trong Sáng thế ký đã nói nhiều về sự thuần khiết về mặt tình dục. Thật là an toàn khi cho rằng sự thuần khiết về tình dục là một việc rất quan trọng, đặc biệt đối với cấp lãnh đạo. Nhiều người Mỹ dường như bằng lòng nhìn theo cách khác khi những người với địa vị quyền lực chính trị có dính dáng với tình trạng phi luân về tình dục. Giuđa đã hủy hoại chức năng lãnh đạo của chính mình, và sự sống động của gia đình mình, bằng tình trạng phi luân của ông. Giôsép là một khuôn mẫu của sự thuần khiết và ngay thẳng về tình dục. Chúng ta cần có nhiều người giống như Giôsép cho thời nay.
Giôsép là một điển hình của Đức Chúa Jêsus Christ của chúng ta. Ông là đối tượng cho tình cảm của cha mình, giống như Chúa Jêsus của chúng ta là Con yêu dấu của Đức Chúa Cha vậy. Khi các anh của Giôsép bực tức về thẩm quyền của ông và tìm cách gạt bỏ ông, cũng một thể ấy các cấp lãnh đạo tôn giáo Do thái đã bực tức thẩm quyền của Chúa Jêsus và tìm cách kết án tử hình Ngài trên cây thập tự oan nghiệt kia. Chính qua nhiều đau khổ nơi tay của các anh mình – họ đã chối bỏ không nhận ông là lãnh đạo của họ – mà Giôsép đã trở thành đấng cứu tinh của họ. Chính qua sự chịu khổ của Chúa Jêsus chúng ta, nơi tay của “anh em” Ngài, Ngài đã trở thành con đường cứu rỗi cho tất cả những ai chịu tin theo Ngài.
Tôi có thể sẽ rơi vào chỗ thiếu sót nếu tôi không chỉ ra một việc mà bạn tôi là Marvin Ball, đã nhắc cho tôi nhớ tới điều nầy trong tuần qua. Phân đoạn Kinh thánh của chúng ta là một minh họa của lẽ thật ở Rôma 8:28-30:
“Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Vì những kẻ Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định sẵn để nên giống như hình bóng Con Ngài, hầu cho Con nầy được làm Con cả ở giữa nhiều anh em; còn những kẻ Ngài đã định sẵn, thì Ngài cũng đã gọi, những kẻ Ngài đã gọi, thì Ngài cũng đã xưng là công bình, và những kẻ Ngài đã xưng là công bình, thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển” (Rôma 8:28-30).
Đức Chúa Trời luôn luôn làm tròn các mục đích cùng các lời hứa của Ngài. Ngài không bị hạn chế trong việc sử dụng mọi hành động bằng lòng vâng phục của các thánh đồ Ngài. Ngài có quyền sử dụng mọi hành động loạn nghịch của những kẻ không tin và tội lỗi của hàng thánh đồ để hoàn thành ý nguyện của Ngài. Nắm quyền tể trị là nắm quyền điều khiển trọn vẹn. Đức Chúa Trời đang nắm lấy quyền tể trị thật trọn vẹn, bất chấp tội lỗi và sự loạn nghịch đang hùng hổ trên thế giới của Ngài.
Phân đoạn Kinh thánh gốc của chúng ta minh họa thể nào Đức Chúa Trời đang tể trị và cai quản trong mọi vụ việc của con người, hầu cho mọi lời hứa của Ngài sẽ được ứng nghiệm. Qua hai điềm chiêm bao của ông, Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho Giôsép biết rằng ông sẽ trị vì trên cả gia đình ông. Cái điều chắc chắn là tội lỗi của các anh ông không hủy phá được lời tiên tri của các điềm chiêm bao đó, nhưng sự thực là, mọi hành động của họ chỉ đề ra bối cảnh cho sự ứng nghiệm các lời tiên tri ấy. Cũng như dù tội lỗi của Giuđa sẽ gây hại cho lời hứa của Đức Chúa Trời liên quan tới “dòng dõi” được hứa của Ápraham, song Đức Chúa Trời tể trị khiến cho “mọi sự” hiệp lại cho sự ứng nghiệm lời hứa của Ngài. Cả Giacốp và các con trai ông đều nhìn vào hoàn cảnh của họ rồi kết luận rằng Đức Chúa Trời đã mang lại sự hủy diệt cho họ, nhưng đến phần cuối của sách Sáng thế ký, chúng ta mới thấy rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng mọi điều nầy để đem lại sự giải cứu cho họ.
Cách đây gần 25 năm, bạn tôi là Bill McRae và gia đình của ông rời Dallas để bắt đầu một chức vụ thật kết quả ở Canada. Chắc chắn là tuần lễ đầu ông phục vụ trong vai trò một giáo sư và trưởng lão trong một Hội thánh địa phương, một tai nạn thảm khốc đã lấy đi sinh mạng của vài thuộc viên của một gia đình trong Hội thánh. Tôi không bao giờ quên sứ điệp mà Bill đã giảng ở tang lễ ấy. Ông sử dụng phân đoạn Kinh thánh của chúng ta để tỏ ra thể nào, ở một điểm trong thời gian, Giacốp sai lầm cho rằng tất cả hoàn cảnh của ông đều dẫn tới sự hủy diệt cho ông, chỉ nhìn thấy từ nhận thức kém cõi nầy Đức Chúa Trời đã dự trù thảm họa nầy trong đời sống của ông để dẫn tới chỗ đắc thắng tối hậu.
Bạn ơi, tôi lấy làm lạ nếu đời sống của bạn trông giống như đời sống của Giacốp, khi ông buộc phải rời khỏi đứa con yêu dấu của ông là Bêngiamin? Bạn có nghĩ “các nông nỗi nầy đều đổ lại cho tao hết!” không? (Sáng thế ký 42:36)? Nếu bạn là một chi thể trong gia đình của Đức Chúa Trời, chúng không phải là để hủy diệt cho bạn đâu, mà để giải cứu cho bạn đấy; chúng không phải là phương tiện để trở thành tai họa, mà là để đắc thắng. Tôi nguyện rằng từng người trong các bạn, ai đọc bài nầy đều có thể kinh nghiệm sự bảo đảm, nhờ đức tin nơi Đấng Christ, rằng Đức Chúa Trời đang hành động vì ích cho bạn, và cho sự vinh hiển của Ngài:
“Đã vậy thì chúng ta sẽ nói làm sao? Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta? Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao? Ai sẽ kiện kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy. Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu nguyện thế cho chúng ta. Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ? có phải hoạn nạn, khốn cùng, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, hay là gươm giáo chăng? Như có chép rằng: Vì cớ Ngài, chúng tôi bị giết cả ngày; Họ coi chúng tôi như chiên định đem đến hàng làm thịt. Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần. Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta” (Rôma 8:31-39).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét