Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010

Mathiơ 27.55-66: "Hậu quả của sự đóng đinh Chúa trên thập tự giá"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Hậu quả của sự đóng đinh Chúa trên thập tự giá
Mathiơ 27.55-66
Đối với tôi, ngày nay khi Cơ đốc nhân nói tới Tin lành, có phần nhấn mạnh về sự sống lại hơn là sự đóng đinh trên thập tự giá. Thật là đáng tiếc khi nói như thế, vì chắc chắn đây không phải là chủ ý của các vị sứ đồ. Sự rao giảng của họ tựu trung nhiều vào sự chết của Đấng Christ y như sự sống lại. Phaolô đã viết ở I Côrinhtô 1.23: "chúng ta giảng Đấng Christ bị đóng đinh trên cây thập tự…". Sau đó trong 2.2, ông nói: "Vì tôi đã đoán định rằng ở giữa anh em, tôi chẳng biết sự gì khác ngoài Đức Chúa Jêsus Christ, và Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên cây thập tự". Ông nói ở Galati 6.14: "Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta". Các vị sứ đồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đóng đinh vào thập tự giá vì không có công tác cứu chuộc của thập tự giá, sự sống lại sẽ chẳng có quyền gì để cứu chúng ta cả. Romans 6 nhắm vào sự dạy dỗ nầy. Đặc biệt hãy chú ý câu 8: "Vả, nếu chúng ta đã cùng chết với Đấng Christ, thì chúng ta tin rằng mình cũng sẽ cùng sống với Ngài".
Trong bài nghiên cứu vừa qua, chúng ta thấy rằng "Thầy đội và những lính cùng với người" đã lấy làm ngạc nhiên bởi các biến cố lạ lùng nơi sự chết của Chúa Jêsus và đã kết luận: "Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời".
Hãy tưởng tượng các bạn hữu cùng những môn đồ của Chúa Jêsus và những kẻ đã được chữa lành đã cảm nhận như thế nào! Họ đã có đức tin lớn nơi Chúa Jêsus nhưng giờ đây Ngài đã chết. Hôm nay, chúng ta sẽ xem xét ba nhóm người đã đáp ứng như thế nào trước hậu quả của sự Đấng Christ bị đóng đinh trên thập tự giá.
I. Những người đờn bà trung tín đã than khóc (các câu 55-56, 61).
Mathiơ cho chúng ta biết "nhiều người đàn bà đứng coi ở đàng xa". Giăng 19.25-27 cho chúng ta biết trước đó, cùng với Giăng, họ đang đứng "bên thập tự giá". Một lúc nào đó, họ đã đứng lui lại cách xa thập tự giá. Tôi không nghĩ họ đã đứng cách xa như thế là vì sự bất trung, mà vì Chúa Jêsus giờ đây đã chết, và ở một khoảng cách như thế, họ nhìn thấy thân thể Ngài bị treo ở đó. Cũng một thể ấy, rất khó quan sát thân thể của một người thân ở trong cổ quan tài, họ không thể chịu nổi bối cảnh thân thể Chúa Jêsus bị treo trên thập tự giá.
Chúng ta không nên quá khó khăn đối với mấy người đàn bà nầy. Họ đã ở lại. Họ có mặt ở đó với Chúa Jêsus cho đến cuối cùng. Với Giăng và Giu-đa là ngoại lệ, giờ đây họ đã qua đời, các môn đồ đã bỏ trốn vì cớ mạng sống của họ. Ngay cả Phierơ đã thất kinh và không còn đứng ở gần thập tự giá nữa.
Chúng ta không biết bao nhiêu người có mặt ở đó; Mathiơ nói có "nhiều" người lắm. Họ là những "người đã đi theo Đức Chúa Jêsus từ xứ Ga-li-lê để hầu việc Ngài". Ngay từ đầu chức vụ của Ngài, một số phụ nữ dường như đã sống gần gũi với Chúa Jêsus. Luca 8.3 chép họ đã "giúp của cải cho Ngài". "Hầu việc" trong câu nầy ra từ chữ diakoneo, là hình thái động từ của danh từ mà từ đó chúng ta có chữ "deacon" [chấp sự]. Mấy người đàn bà lo phục sự nầy họ đứng đầu trong một hàng dài những người hầu việc Chúa trong vai trò chấp sự (Rôma 16.1).
Mặc dù vai trò của nữ giới rất khác biệt với nam giới trong Hội Thánh, họ có tầm quan trọng rất lớn. Nhiều người đàn bà đã ở lại với Chúa Jêsus tại thập tự giá. Nữ giới là những người đầu tiên chứng kiến sự phục sinh. Nữ giới luôn luôn có mặt và sẽ luôn luôn có tầm vóc quan trọng cho công việc của Chúa.
"Mary Mađơlen" đặc biệt được nhắc tới. Theo Luca 8.2, Chúa Jêsus đã đuổi "bảy con quỉ" ra khỏi nàng. Nàng đến từ Magdala, gần Cabênaum. Nàng chưa lập gia đình và đã dâng đời sống mình vào sự phục vụ.
"Mary, mẹ của Gia-cơ và Giô-sép" đặc biệt cũng được liệt kê ra ở đây. "Giacơ" nầy là một trong số các sứ đồ thường được biết là "Giacơ nhỏ" (Mác 15.40) và "Giacơ con của A-phê" (Mathiơ 10.3). Giăng 19.25 mô tả người đờn bà nầy là "Mary vợ của Cờ-lê-ô-ba" là tên khác của “A-phê”.
"Mẹ hai con trai của Xê-bê-đê" cũng có mặt. Mác 15.40 gọi bà là "Salômê". Người mẹ tin kính nầy của hai “người con của sấm sét” (Mác 3.17) đã đến với Chúa Jêsus trước đây để xin một sự ưu ái đặc biệt cho hai con trai của bà (Mathiơ 20.20-21).
Giăng 19.26-27 cho chúng ta biết Mary mẹ của Chúa Jêsus cũng có mặt bên thập tự giá. Tôi dám chắc lời tiên tri của cụ Si-mê-ôn đang râm rang trong hai lỗ tai của bà ngày đó: "Đây, con trẻ nầy đã định làm một cớ cho nhiều người trong Y-sơ-ra-ên vấp ngã hoặc dấy lên, và định làm một dấu gây nên sự cãi trả; còn phần ngươi, có một thanh gươm sẽ đâm thấu qua lòng ngươi. Ấy vậy tư tưởng trong lòng nhiều người sẽ được bày tỏ" (Luca 2.34-35).
Những người đàn bà đang khóc than nầy sẽ được ghi nhớ mãi vì lòng trung tín của họ đối với Đấng Christ. Họ đúng là một tấm gương cho chúng ta ngày nay.
II. Người giàu có đứng ra xin xác (các câu 57-60).
Trong I Côrinhtô 15.3-4, Phaolô cung ứng cho chúng ta phần xác quyết về sứ điệp Tin lành: "Vả trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh". Không những chúng ta không được bỏ qua tầm quan trọng của sự chết của Chúa Jêsus, sự chôn cất Ngài còn cho chúng ta thấy được sự quan phòng theo ý của Đức Chúa Trời nữa. Khoảng 600 năm trước, Êsai đã nói tiên tri: "Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác, nhưng khi chết, người được chôn với kẻ giàu" (Êsai 53.9).
Câu 57 chép: "Đến chiều tối". Đối với chúng ta, buổi tối đến sau 6 giờ chiều. Tuy nhiên, đối với người Do thái, buổi tối là khoảng thời gian giữa 3 giờ chiều và 6 giờ chiều. Trong văn hoá của họ, ngày mới khởi sự từ 6 giờ chiều thay vì lúc nửa đêm. Khi ấy là 3 giờ chiều hay "giờ thứ chín" (câu 46) Chúa Jêsus đã "trút linh hồn".
Luôn luôn có một sự lầm lẫn về thời điểm sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus. Vấn đề của chúng ta, ấy là chúng ta thường tiếp cận thời điểm của các biến cố nầy theo chiếc đồng hồ của tây phương.
Là người Do thái ở xứ Galilê, Chúa Jêsus cùng các môn đồ Ngài đã tưởng niệm Lễ Vượt Qua vào buổi tối thứ Năm theo lịch của họ. Người Do thái xứ Giu-đê ăn lễ Vượt Qua vào tối thứ Sáu. Vì thế, khi Chúa Jêsus chết vào lúc 3 giờ chiều ngày thứ Sáu, "Chiên Con của Đức Chúa Trời" đã bị giết đúng thời điểm chiên con làm sinh tế bị giết tại đền thờ.
Chúa đã nói tiên tri ở Mathiơ 12.40: "Vì Giô-na đã bị ở trong bụng cá lớn ba ngày ba đêm, cũng một thể ấy, Con người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm" (đối chiếu 16.21; 26.61). Khi tính toán câu nầy theo suy nghĩ của Tây phương về 24 giờ một ngày, chúng ta sẽ đẩy sự đóng đinh trên thập tự giá lùi lại ngày thứ Tư. Tuy nhiên, Giăng 19.31 chép rằng Chúa Jêsus đã chết vào "ngày Sắm Sửa" hay vào ngày trước ngày "Sabát", là ngày thứ Bảy. Vì lẽ đó, theo suy nghĩ của Đông phương, Chúa Jêsus đã được chôn trước cuối ngày thứ Sáu, bị giữ trong mồ mả suốt ngày thứ Bảy và một phần của ngày Chúa nhựt, như vậy là ba ngày. Đây chưa đủ thời gian 24 tiếng đồng hồ, nhưng là số ngày theo sự tính toán của người Do thái.
Thân thể của Chúa Jêsus khi ấy đã được đem xuống khỏi thập tự giá "khi buổi tối đến". Ngài đã được chôn cất trước 6 giờ chiều ngày thứ Sáu. Giăng 19.31 chép: "Vì bấy giờ là ngày sắm sửa về ngày Sa-bát, mà Sa-bát nầy là rất trọng thể, nên dân Giu-đa ngại rằng những thây còn treo lại trên thập tự giá trong ngày Sa-bát chăng, bèn xin Phi-lát cho đánh gãy ống chân những người đó và cất xuống". Những sự đóng đinh trên thập tự giá thường kết thúc trong nhiều ngày. Mục tiêu của sự đóng đinh nầy, là phương tiện đem lại cái chết sao cho đau khổ được kéo dài ra. Tuy nhiên, vì ngày hôm sau là ngày "Sabát" và là một "ngày trọng thể", ngày ăn bánh không men, người Do thái theo Phục truyền luật lệ ký 21.23 muốn những kẻ bị giết và thi thể của họ được dời xuống khỏi thập tự giá. Đập gãy xương chân của họ sẽ làm mất đi khả năng nâng gánh nặng thân thể của họ và họ sẽ mau chóng chết cái chết bị ngạt thở.
Giăng 19.32-35 cho chúng ta biết mấy tên lính đã đánh gãy chân của hai tên cướp kia, "Khi quân lính đến nơi Đức Chúa Jêsus, thấy Ngài đã chết rồi, thì không đánh gãy ống chân Ngài". Đúng thế, một tên lính "lấy giáo đâm ngang sườn Ngài" tức thì "máu và nước" chảy ra từ vết thương. Hành động đâm ấy được gọi là "chết đột quỵ".
Hơn nữa, trong các câu 36-37, Giăng chỉ ra có hai lời tiên tri đã được ứng nghiệm. Thi thiên 34.20 chép: "Ngài giữ hết thảy xương cốt người, chẳng một cái nào bị gãy". Xachari 12.10 chép: "… chúng nó sẽ nhìn xem ta là Đấng chúng nó đã đâm". Vết thương từ mũi giáo lớn đến nỗi Chúa Jêsus bảo Thôma hãy thò tay ông ta vào đấy (Giăng 20.27).
John MacArthur viết: "…mấy tên lính, khi thấy Chúa Jêsus đã chết rồi, họ quyết định không đánh gãy xương của Ngài nữa. Thay vì thế, họ đã lấy giáo đâm vào sườn Ngài, để xác minh Ngài đã chết… nước và huyết có lẽ là thứ huyết thanh dư thừa tích tụ ở màng ngoài tim (màng bọc tim). Huyết là một sự chỉ ra rằng mũi giáo đã đâm trúng tim hay động mạch chủ cũng như màng ngoài tim. Sự thực cho thấy rằng huyết và nước đã tuôn ra riêng biệt từ một vết thương cho thấy rằng sự chết đã diễn ra ở thời điểm trước khi có vết thương đó, vì vậy huyết của Đấng Christ – ngay cả vùng tim – đã bắt đầu rồi quá trình kết đông".
Thi thể của Chúa Jêsus, một là bị ném vào ngôi mộ hoang nào đó, hoặc là bị ném vào cái lò lửa Gehenna nằm ở phía Nam thành phố, nếu như không có sự can thiệp của "Giô-sép", ông nầy "đến nơi Phi-lát mà xin xác Đức Chúa Jêsus". Đức Chúa Trời đã sai phái Giô-sép đến thật đúng lúc. Nếu ông ấy đến sớm hơn, Chúa Jêsus sẽ không chết đâu. Nếu ông đến muộn hơn, sẽ không đủ thời gian sửa soạn cho thi thể để đem chôn trước khi ngày sa-bát bắt đầu.
Giô-sép là một "người giàu có", ông đã làm ứng nghiệm lời tiên tri của Êsai. Theo Mác 15.43, ông " là nghị viên tòa công luận có danh vọng, cũng trông đợi nước Đức Chúa Trời". Ông đã ngồi ở Toà Công Luận, nhưng theo Luca 23.51, ông: "không đồng ý và cũng không dự việc các người kia đã làm". Ông là "người chánh trực công bình" (Luca 23.50) ông đã đến từ "Arimathê" giả định là ở gần thành Jerusalem.
Giô-sép chính "là một môn đồ của Chúa Jêsus". Ông đã theo Chúa Jêsus "một cách kín giấu, vì sợ dân Giu-đa" (Giăng 19.38). Nếu ông theo Chúa Jêsus cách công khai, ông sẽ mất địa vị trên Toà Công Luận cũng như gia đình, sự nghiệp và sự giàu có của ông. Cho tới lúc nầy, giống như khi ông được cần tới hơn hết, Giô-sép mới "bạo gan" (Mác 15.43) đến xin Phi-lát để lấy xác của Chúa. Phi-lát không nhìn thấy một môn đồ tin kính nào trước mặt mình, mà là một thành viên của Toà Công Luận. Ông không còn muốn có nan đề nào khác nữa đối với người Do thái, vì vậy ông "bèn truyền cho".
Mặc dù ông có nhiều tôi tớ, dường như chính Giô-sép đã tự mình vác lấy cái xác. Ông không mong Chúa Jêsus sống lại từ trong kẻ chết hoặc ông đã không sửa soạn cho cái xác với nhũ hương và "một tấm vải liệm trắng".
Thực ra, Giăng nói cho chúng ta biết Giô-sép đã hiệp tác cùng với Nicôđem, một thành viên khác của Toà Công Luận (Giăng 3.1). Ông đã đem theo "độ một trăm cân một dược hòa với lư hội". "Vậy, hai người lấy xác Đức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại, theo như tục khâm liệm của dân Giu-đa" (Giăng 19.39-40). Có lẽ "Mary Mađơlen" và "Mary khác" sau đó được thấy "ngồi đối ngang huyệt" đã trợ giúp cho họ (Mathiơ 27.61).
Mỉa mai dường bao, các môn đồ nào công khai đi theo Chúa Jêsus trong suốt đời sống Ngài đã bỏ trốn khi Ngài chịu chết. Tuy nhiên, các môn đồ nào đã đi theo Chúa Jêsus cách kín giấu trong suốt đời sống Ngài lại công khai phục vụ Ngài sau khi Ngài đã chết.
Sau cùng, Giô-sép đặt thi thể Chúa Jêsus "trong một cái huyệt mới mà người đã khiến đục cho mình trong hòn đá [một công việc đắt giá] đoạn, lăn một hòn đá lớn đến trước cửa mồ, rồi đi".
III. Hạng người gian ác mưu tính (các câu 62-66).
Hãy hình dung "các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si" gian ác, họ đã cẩn thận sắp đặt cuộc hành hình Chúa Jêsus. Đến ngày thứ Sáu, họ trở về nhà chúc tụng nhau về một việc làm quá mỹ mãn. Thế rồi, một nỗi lo lắng mới đã đến với họ suốt cả đêm. Họ nhớ lại rằng Chúa Jêsus có nói Ngài sẽ sống lại sau ba ngày (Mathiơ 12.38-40). Mặc dù họ không tin Ngài sẽ sống lại, họ sợ rằng các môn đồ Ngài sẽ đánh cắp lấy thi hài rồi công bố Ngài đã sống lại. Không nghi ngờ chi nữa, họ đã thất kinh khi hay được rằng hai trong số các thành viên quản trị Toà Công Luận đã đến lấy xác của Chúa Jêsus từ trên thập tự giá, sắm sửa cho thi hài ấy để lo chôn cất rồi đặt thi hài vào một ngôi mộ rất đắt tiền.
Hết thảy những điều nầy đã làm cho họ phải lo lắng nhiều đến nỗi: "Đến ngày mai (là ngày sau ngày sắm sửa)" đúng vào ngày thứ Bảy, là ngày Sabát [ngày sa-bát lễ vượt qua, một ngày rất thánh] họ "cùng nhau đến Phi-lát". Dường như họ đã gặp ông ta theo cách riêng tại Trường án. Họ đã lo lắng về thi thể của Chúa Jêsus đến nỗi họ đã vi phạm chính thói tục riêng của họ.
Họ nói: "Thưa chúa, chúng tôi nhớ người gian dối nầy [họ ghét Chúa đến nỗi họ không muốn nhắc tới tên của Ngài], khi còn sống, có nói rằng: Khỏi ba ngày thì ta sẽ sống lại". Họ nài nỉ: "Vậy, xin hãy cắt người canh mả cẩn thận [cùng một từ Hy lạp được sử dụng trong Công vụ Các Sứ Đồ 16.24 khi bắt giữ Phaolô và Sila] cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đồ nó đến lấy trộm xác đi, rồi nói với chúng rằng: Ngài đã từ kẻ chết sống lại".
Nói cách khác: "Nếu chúng ta không đóng ấn và canh giữ ngôi mộ, các môn đồ của hắn sẽ lấy xác đi rồi nói rằng hắn đã sống lại từ kẻ chết và dân chúng dại dột, mê tín sẽ tin theo từng lời của cái xác đó. Hắn đã chết mà còn nguy hiểm hơn khi còn sống nữa".
Theo chính lời nói riêng của họ: "Sự gian dối sau đó sẽ tệ hơn sự gian dối trước".
Phi-lát bực tức nói: "Các ngươi có lính canh; hãy đi canh giữ theo ý các ngươi". Dường như ông ta đang cung cấp cho họ mấy tên lính trong thời gian ba ngày rồi truyền cho họ phải "canh giữ chắc chắn ngôi mộ" y như "niêm phong mả lại" và "cắt lính canh giữ". Con niêm có lẽ là một loại chất sáp mang hình quan tổng đốc chứng tỏ rằng nếu có ai không có thẩm quyền phá vỡ nó, kẻ ấy sẽ bị tử hình.
Đây đúng là một bối cảnh rất nghiêm trọng, hòn đá lớn, con niêm của đế quốc, binh lính thuần thục đang đứng gác với tư thế cẩn trọng ở trước ngôi mộ. Các cấp lãnh đạo dân Do thái đã tự chúc tụng mình một lần nữa khi giải quyết xong một vấn đề khác. Họ trở về nhà tin rằng mình đã cản trở được một trò chơi khăm.
Quả là họ không thể tin được, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ đã sử dụng mọi hành động gian ác của họ để minh chứng rằng sự sống lại quả nhiên là sự thực và không thể là một cuộc chơi khăm đâu. Với sự chắc chắn như thế, không một ai dám tin rằng các môn đồ vụng về kia đến đánh cắp thi thể của Ngài. Thay vì dứt bỏ quan niệm về sự sống lại, họ đã minh chứng tính xác thật của sự sống lại đó!
Trải qua nhiều năm tháng, nhiều người chưa tin Chúa cùng các học giả đời nầy đã cố gắng đưa ra bằng chứng nghịch lại sự sống lại về phần xác của Đấng Christ. Một phụ nữ đã viết cho J. Vernon McGee, vị giáo sư dạy Kinh Thánh nổi tiếng qua đài phát thanh: "Vị giáo sư của chúng tôi nói rằng vào ngày Lễ Phục Sinh, Chúa Jêsus chỉ bất tỉnh trên thập tự giá và các môn đồ đã làm hô hấp nhân tạo cho Ngài tỉnh lại. Ông nghĩ sao?" Với cá tính xuất sắc và khôn ngoan, McGee đáp: "Thưa bà chị, hãy quất vị giáo sư ấy bằng 39 roi da bò cạp. Hãy đóng đinh ông ấy trên thập tự giá. Hãy treo ông ấy giữa trời trong 6 tiếng đồng hồ. Hãy đâm ngọn giáo qua trái tim của ông ta. Hãy ướp xác ông ta. Hãy đặt ông ta vào ngôi mộ không có không khí trong ba ngày. Kế đó, hãy chờ xem điều gì xảy ra".
Đức Chúa Trời cao cả của chúng ta là toàn năng và toàn tri! Mặc dù loài người đưa ra mọi quyết định, Ngài đang nắm quyền tể trị từng cục diện trong cuộc sống! Giô-sép vị tộc trưởng, đã nói với các người anh chuyên lừa gạt của mình như sau: "Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi" (Sáng thế ký 50.20).
Rôma 8.28 bảo đảm với chúng ta: "Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định". Dường như khi hoàn cảnh đang nghịch lại với quí vị, hãy nhớ rằng Ngài là Đấng đang nắm quyền tể trị hoàn cảnh, Ngài đang hiệp mọi sự lại đặng làm ích cho quí vị đấy!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét