MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Đáp ứng với sự sống lại
Mathiơ 28.1-10
Cơ đốc giáo đứng trên hai cột trụ: sự chết và sự sống lại của Đấng Christ. Như chúng ta đã nghiên cứu tuần vừa qua, Đức Chúa Cha đã cẩn thận ràng hai sự cố bắt buộc nầy với sự chôn cất đã được sắp xếp cách thiêng liêng, có bằng chứng hẳn hoi. Vì thế, Phaolô cung ứng cho chúng ta một phần xác định tổng quát về sứ điệp Tin Lành ở I Côrinhtô 15.3-4: "Vả trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh". Cả sự chết và sự sống lại đều rất quan trọng cho sự cứu rỗi chúng ta. Sự sống lại mà không có sự chết chuộc tội thì sẽ là vô quyền. Sự chết của Đấng Christ mà không có sự sống lại sẽ là vô mục đích.
Các tín đồ chân chính luôn luôn nhắm đến sự sống lại. Điều nầy chắc chắn là thực đối với các thánh đồ thời Cựu ước. ÁPRAHAM đã dâng con của ông, Y-sác làm của lễ vì ông tin "rằng Đức Chúa Trời cũng có quyền khiến kẻ chết sống lại; cũng giống như từ trong kẻ chết mà người lại được con mình" (Hêbơrơ 11.19). Các TÁC GIẢ THI THIÊN công bố sự sống lại. Thi thiên 49.15 chép: "Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi khỏi quyền âm phủ, vì Ngài sẽ tiếp rước tôi". Thi thiên 73.24 chép: "Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy mà dẫn dắt tôi, rồi sau tiếp rước tôi trong sự vinh hiển". Tiên tri ÊSAI công bố: "Những kẻ chết của Ngài sẽ sống, những xác chết của tôi đều chổi dậy! Hỡi kẻ ở trong bụi đất, hãy thức dậy, hãy hát! Vì hột móc của Ngài như hột móc lúc hừng đông, đất sẽ buông các âm hồn ra khỏi" (Êsai 26.19). ĐANIÊN cũng khẳng định đức tin nơi sự sống lại. Đaniên 12.2 chép: "Nhiều kẻ ngủ trong bụi đất sẽ thức dậy, kẻ thì để được sự sống đời đời, kẻ thì để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời".
Có lẽ một trong các quyển sách xưa nhất trong Cựu ước là sách Gióp. Ông tuyên bố: "Còn tôi, tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống, đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất. Sau khi da tôi, tức xác thịt nầy, đã bị tan nát, bấy giờ ngoài xác thịt tôi sẽ xem thấy Đức Chúa Trời" (Gióp 19.25-26).
Các vị Sứ đồ và Hội Thánh đầu tiên thường giảng về sự sống lại vì chẳng có người nào chối bỏ sự sống lại trở thành Cơ đốc nhân thực đâu! Đúng vậy, chính bài giảng đầu tiên của Hội Thánh, vào ngày Lễ Ngũ Tuần đã tựu trung vào sự sống lại. PHIERƠ đã giảng ở Công Vụ các Sứ Đồ 2.23-24: "Người đó bị nộp theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh Người trên thập tự giá và giết đi. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Người sống lại, bứt đứt dây trói của sự chết, vì nó không thể giữ Người lại dưới quyền nó".
PHAOLÔ đã giảng về sự sống lại rất thường xuyên. Thực vậy, trong thư tín thứ nhứt gửi cho người thành Côrinhtô, Đức Thánh Linh đã cảm thúc ông viết ra chương thứ 15 lạ lùng nhất, chương phục sinh của Kinh Thánh! GIĂNG, vị sứ đồ sau cùng khi bị lưu đày trên đảo Bát-mô, đã nhìn thấy Chúa Jêsus, Ngài phán cùng ông: "là Đấng Sống, ta đã chết, kìa nay ta sống đời đời, cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ" (Khải huyền 1.18).
Có nhiều người xuyên suốt 2.000 năm qua, họ đã tìm cách bài bác sự sống lại của Đấng Christ. Cũng có nhiều người không chối bỏ cũng không tiếp nhận sự sống lại ấy, song đã bất chấp nó. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời luôn luôn có dân sự Ngài, những người đáp ứng lại sự sống lại với đức tin lớn lao. Thực vậy, đây là trường hợp với những chứng nhân đầu tiên, hai người đàn bà tin kính đã nhìn thấy cả sự chết của Chúa Jêsus và đã chứng kiến sự sống lại của Ngài. Chúng ta hãy xem xét 5 phần đáp ứng lúc ban đầu của họ trước Chúa phục sinh.
I. Mấy người đàn bà đã đến với sự chiêm bái (câu 1).
A. Thời điểm thăm viếng của họ.
Trong câu 1 chúng ta đọc thấy hai người đàn bà đã đến tại ngôi mộ "Sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhất trong tuần lễ, lúc tưng tưng sáng". Hãy nhớ, ban ngày của người Do thái bắt đầu lúc mặt trời mọc và kết thúc lúc mặt trời lặn. Chúng ta những người phương Tây tính ban ngày là thời gian 24 tiếng đồng hồ từ 00 giờ sáng đến 12 giờ trưa. Tuy nhiên, những người ở vùng Trung đông tính ban ngày từ 6 giờ chiều hôm nay đến 6 giờ chiều ngày mai. Vì lẽ đó, ngày "Sabát" bao gồm cả chiều hôm trước. Lúc bấy giờ là "sau ngày sabát". Theo cách suy nghĩ của họ "ngày thứ nhứt trong tuần lễ" hay ngày Chúa nhựt bắt đầu trước đó 10-12 tiếng đồng hồ rồi.
Như tôi đã giải thích trước đây, người Do thái nói tới một ngày là bất kỳ lúc nào trong một ngày. Ngày Chúa nhựt là ngày thứ ba của thời điểm Chúa Jêsus ở trong mồ mả. Ngài đã bị chôn vào ngày thứ Sáu, thứ Bảy và ngày Chúa nhựt, ba ngày tất cả.
Chúng ta hãy suy nghĩ về ngày "Sabát" trong một phút đi. Trong 10 Điều Răn, Đức Chúa Trời bảo dân Israel phải làm việc trong sáu ngày nhưng phải trừ ra ngày thứ bảy, là ngày "Sabát" dành cho sự nghỉ ngơi và thờ phượng (Xuất Êdíptô ký 20.8-11). Nhiều Cơ đốc nhân đã cố gắng biến ngày Chúa nhựt thành một ngày “sa-bát dân Ngoại” theo đúng luật pháp. Tuy nhiên, ngày nầy là ngày sa-bát sau cùng cho dân sự của Đức Chúa Trời vì vào "ngày thứ nhứt của tuần lễ" Chúa Jêsus đã sống lại ra khỏi mồ mả và đem lại Giao Ước Mới cho dân sự của Ngài. "Tưng tưng sáng" không những là biểu tượng của lời hứa cho một ngày mới mà còn là một kỹ nguyên mới trong lịch sử cứu chuộc nữa!
Khi ban ngày bắt đầu "tưng tưng sáng", Mathiơ nói rằng "có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác đến thăm mộ". Giăng 20.1 chép họ đã đến “lúc rạng đông, trời còn mờ mờ".
B. Mục đích cuộc thăm viếng của họ.
Mặc dù Mathiơ đặc biệt nhắm vào "Mary Mađơlen" và "Mary khác", bà là mẹ của Giacơ nhỏ và là vợ của Cơ-lê-ô-ba, các sách Tin lành khác cho chúng ta biết Salômê (Bà Xê-bê-đê) và Gioan-na cũng đã có mặt nữa (Mác 16.1; Mathiơ 27.56).
Mấy người đàn bà có lòng đau đớn buồn rầu nầy đã đến "để thăm mộ". Mathiơ 27.61 cho chúng ta biết họ đã có mặt khi Giô-sép người Arimathê và Ni-cô-đem lo sửa soạn cho thi thể của Chúa. Có lẽ họ đã bắt tay phụ giúp. Bây giờ họ đã quay trở lại với các thứ thuốc thơm của chính họ (Luca 24.1).
Truyền khẩu Do thái cho rằng linh hồn con người ở lại với thi thể cho tới 4 ngày sau khi chết, cho tới chừng tình trạng thối rửa làm biến dạng thi thể đến nỗi linh hồn không còn nhận ra nó nữa. Có lẽ đấy là điều mà Mathê đã nói khi Laxarơ đã chết, và nàng đã thưa với Chúa Jêsus: "Lạy Chúa, đã có mùi, vì người nằm đó bốn ngày rồi" (Giăng 11.39).
Mấy người đàn bà tin kính nầy đã đến để làm một việc trang trọng sau cùng. Lý trí họ không hề nghĩ Chúa Jêsus sẽ không có ở trong ngôi mộ. Làm sao họ lăn hòn đá nặng kia ra cho được? Có lẽ họ nghĩ về sự ấy hoặc có lẽ họ nghĩ mấy tên lính kia sẽ giúp cho họ. Họ đã không hiểu lời hứa đắc thắng của Ngài đối với mồ mả, nhưng họ cứ trung tín với Chúa cho đến cuối cùng.
II. Mấy người đàn bà lui lại trong sợ hãi (các câu 2-7).
A. Họ sợ động đất (câu 2a).
Hãy chú ý chữ "Và nầy". Dường như là họ đã đến tại ngôi mộ, hai người đàn bà đã kinh nghiệm "đất rúng động dữ dội".
Mùa hè vừa qua, Amarillo đã kinh nghiệm một loạt ngắn các trận động đất nhỏ. Tôi chỉ nhớ có một cảm xúc nhẹ mà thôi, thậm chí không đủ để công nhận điều chi đã xảy ra cho tới chừng tôi nghe thấy các tin tức. Có ai trong quí vị đã sống tại California đều có nhận thức lớn hơn về điều mà mấy người đàn bà nầy đã kinh nghiệm qua vào buổi sáng sớm hôm ấy!
Lịch sử và lời tiên tri trong Kinh Thánh dạy cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời thường sử dụng những trận động đất khi Ngài tỏ chính mình Ngài ra theo một phương thức rất đặc biệt (ban bố luật pháp, Êli, v.v…). Trong ngày thứ Sáu trước đó, khi Chúa Jêsus đã làm xong công tác của Ngài trên thập tự giá "đất thì rúng động, đá lớn bễ ra" (27.51).
B. Họ sợ thiên sứ (các câu 2b-4).
"Động đất" có cùng nghĩa với sự hiện ra của "thiên sứ của Chúa" là Đấng "ở trên trời xuống" và "đến lăn hòn đá ra mà ngồi ở trên".
Qua nhiều năm tháng, nhiều lễ lạc Phục sinh mang dấu thiên sứ, dường như có ý cho rằng thiên sứ lăn hòn đá đi để cho Chúa Jêsus bước ra ngoài. Không một điều gì có thể vượt quá sự thật. Đấng Dựng Nên trời và đất không bị trói buộc bởi sự chết hoặc bị cầm giữ bởi một hòn đá! Trong thân thể phục sinh của Ngài, Chúa Jêsus đã đi xuyên qua các bức tường (đối chiếu Luca 4.31). Thiên sứ đã lăn hòn đá không phải để cho Chúa Jêsus bước ra ngoài mà là để cho mấy người đàn bà kia bước vào bên trong!
Giăng cung ứng cho chúng ta thêm một yếu tố quan trọng của câu chuyện ở đây. Rõ ràng, Mary Mađơlen đã nhìn thấy hòn đá đã bị dời đi nhưng không thấy thiên sứ vì nàng "chạy tìm Si-môn Phi-e-rơ và môn đồ khác, là người Đức Chúa Jêsus yêu, mà nói rằng: Người ta đã dời Chúa khỏi mộ, chẳng hay để Ngài tại đâu" (Giăng 20.2). Phierơ và Giăng đã chạy đua đến ngôi mộ để chính bản thân họ xem thấy.
Đồng thời, mấy người đàn bà khác đều bị sốc khi nhìn thấy vị thiên sứ sáng láng nầy. Gần như mỗi lần chúng ta đọc thấy các thiên sứ hiện ra cho loài người, họ đều nói: "Đừng sợ" hay "Đừng kinh hãi" vì sự hiện ra của thiên sứ là một bối cảnh đáng sợ lắm.
"Hình dong của thiên sứ giống như chớp nháng, và áo trắng như tuyết". Giống như Môise, khi ông từ trên Núi Sinai xuống, thiên sứ đã phản ảnh sự vinh hiển Shekinah của Đức Chúa Trời. Áo trắng như tuyết của Ngài làm biểu tượng cho sự thánh khiết khi ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Không những mấy người đờn bà nầy lấy làm sợ hãi, mà các toán quân lính cứng lòng kia của Rôma cũng lấy làm kinh hãi nữa! Họ "sợ hãi run rẩy, trở nên như người chết". Thú vị thay, từ ngữ Hy lạp dịch là động đất trong câu 2 là seismos giống như "seismograph" (máy ghi địa chấn). Gốc của chữ seio được dịch là "run rẩy" trong câu nầy. Nói cách khác, khi thiên sứ hiện ra không phải hết thảy đất đều run rẩy như thế đâu! Họ đã run rẩy ghê lắm trước mặt Ngài và như bị chấn thương bởi sự sợ hãi đến nỗi họ "trở nên như người chết", trong khi bị sốc, họ mất đi sự tỉnh biết rồi.
C. Họ đã nghe được những tin tức tốt lành (các câu 5-7).
Không nghi ngờ chi nữa, mấy người đàn bà cũng bị lay động dữ lắm, song thiên sứ phán: "Các ngươi đừng sợ chi cả; vì ta biết các ngươi tìm Đức Chúa Jêsus, là Đấng bị đóng đinh trên thập tự giá". Ngài phán: "Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán". Chúa Jêsus đã làm đúng những điều Ngài đã phán Ngài sẽ làm. Có lẽ khi di chuyển tới ngôi mộ đã mở rộng cửa, thiên sứ đã mời họ: "Hãy đến xem chỗ Ngài đã nằm". Ngài thúc giục họ "hãy đi mau nói cho môn đồ Ngài hay" rằng Ngài sẽ gặp họ tại "xứ Galilê".
Tại sao thiên sứ ban sứ điệp nầy ra cho mấy người đàn bà? Có nhiều sự giải thích khả thi, song đối với tôi dường như lý do chính đáng ấy là họ đã có mặt ở đó. Họ muốn đến gần Chúa. Chúng ta càng đến gần với Đấng Christ chừng nào thì chúng ta càng nhìn thấy công việc của Ngài chừng nấy.
Chúa Jêsus sẽ gặp họ tại "xứ Galilê" không có nghĩa là Ngài không hiện ra cho nhiều người trong số họ vài lần trước cuộc gặp gỡ ấy. Tuy nhiên, tại xứ Galilê là sự hiện ra của Ngài trong đó Ngài tỏ chính mình Ngài ra cho "hơn năm trăm anh em xem thấy" (I Côrinhtô 15.6).
III. Mấy người đàn bà ra đi với sự vui mừng (câu 8).
Một trong những câu Kinh Thánh Cựu ước rất ưa thích của tôi là Thi thiên 30.11: "Ngài đã đổi sự buồn rầu tôi ra sự khoái lạc, mở áo tang tôi, và thắt lưng tôi bằng vui mừng". Chắc chắn mấy người đàn bà nầy đã có cùng chứng cớ ấy. Ngay lập tức họ vâng theo thiên sứ và "vội vàng ra khỏi mộ" vẫn còn trong nỗi "sợ", nỗi sợ nầy mau chóng bị phủ lấp bởi một nhận thức "cả mừng" trước ý nghĩa của những điều mà họ đã chứng kiến bắt đầu thành hình rõ nét trong lý trí của họ. Sự "cả mừng" của họ lớn lao đến nỗi họ đã "chạy báo tin cho các môn đồ".
Theo Giăng 20, sau khi Mary Mađơlen báo tin ngôi mộ trống cho Giăng và Phierơ biết, nàng đã chạy theo họ khi họ chạy ra ngôi mộ. Họ thấy tấm vải liệm và "cái khăn liệm trùm đầu Đức Chúa Jêsus chẳng ở cùng một chỗ với vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi khác". Họ vừa mừng vừa sợ vì họ không hiểu Ngài đã sống lại. Họ đã "trở về nhà mình". Tuy nhiên, Mary "đứng bên ngoài, gần mộ, mà khóc. Người vừa khóc, vừa cúi xuống dòm trong mộ". Nàng nhìn thấy ở đó "hai vị thiên sứ mặc áo trắng, một vị ngồi đàng đầu, một vị ngồi đàng chân, chỗ xác Đức Chúa Jêsus đã nằm". Họ hỏi: "Hỡi đờn bà kia, sao ngươi khóc?" Nàng đáp: "Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Khi ấy nàng xây lại rồi nhìn thấy một người mà nàng chẳng nhận ra đứng bên cạnh nàng. Người ấy cũng hỏi tại sao nàng khóc và nàng tưởng đấy là người làm vườn. Lúc đó, người mới gọi: "Mary!" và nàng nhận ra Ngài là Chúa rồi gọi: "Ra-bu-ni!" Khi ấy Mary cũng trải hết niềm vui mừng của mình ra với mọi người (các câu 1-18).
Tôi tin bất kỳ ai đã được sanh lại đều đã kinh nghiệm cùng sự “vui mừng” đó. Quí vị có thể nhớ lại niềm vui ấy chăng? Đấy là lý do tại sao vào mùa Lễ Phục Sinh chúng ta nói với Hội Thánh của mọi thời đại "Ngài đã sống lại rồi; Quả thực, Ngài đã sống lại rồi".
IV. Mấy người đàn bà phủ phục xuống trong sự tôn kính (câu 9).
Dường như khi mấy người đàn bà "vội vàng" rời khỏi ngôi mộ rồi trên đường báo tin cho các môn đồ mà "Chúa Jêsus đã gặp họ", giống như Mary Mađơlen, lúc đầu họ không nhận ra Ngài hay chú ý đến Ngài cho tới khi mở miệng phán. Ngài phán: "Mừng các ngươi". Cụm từ nầy dịch từ chữ Hy lạp chairo, đây là một lời chào chung chung. Lời chào ấy giống như Ngài đang phán: "Chào quí bà" vậy thôi.
Đáp ứng của họ có ngay tức thì và theo bản năng. Họ quì gối phủ phục xuống đất và "ôm chân Ngài và thờ lạy Ngài". Ngay tại đó trên đường phố một buổi thờ phượng đã được mở ra. Họ đã cảm thấy động đất, đã nhìn thấy thiên sứ và đã xem qua ngôi mộ trống, nhưng việc nhìn thấy Chúa Jêsus gồm tóm hết mọi sự ấy. Sự nhầm lẫn không còn có nữa. Họ đã nhìn thấy Ngài chết trên thập tự giá. Họ đã chứng kiến sự chôn cất Ngài. Giờ đây, họ đã nhìn thấy Chúa phục sinh của họ bằng chính mắt của mình! Hai hàng nước mắt của sự vui mừng khôn tả xiết rơi xuống hai bàn chân mang dấu đinh của Ngài!
Khi chúng ta thực sự nhìn thấy Chúa Jêsus, bất luận chúng ta đang ở đâu hay đang làm gì, chúng ta phải phủ phục xuống trong sự thờ phượng. Thắc mắc là, có phải chúng ta nhìn thấy Chúa Jêsus không? Các môn đồ đã không nhìn thấy Ngài buổi sáng hôm ấy, nhưng mấy người đàn bà đã trông thấy. Tại sao chứ? Họ đang hành động bằng sự tin kính làm theo mọi điều mà Đức Chúa Trời đã truyền cho họ phải lo làm. Khi chúng ta kéo đến gần Chúa và khiêm nhường bước đi trong sự vâng phục đối với Ngài, chúng ta nhìn thấy Chúa Jêsus đang hành động chung quanh chúng ta. Thế thì sự thờ phượng xảy ra theo bản năng ở trong chúng ta, sự thờ phượng ấy đã có ở trong họ. Chúng ta phục xuống nơi chơn của Ngài.
V. Mấy người đàn bà nhìn tới đàng trước trong Hy vọng (câu 10).
Hãy gạch dưới hay khoanh tròn một từ rất quan trọng trong câu 10: "anh em". Chúa Jêsus đã nhắc lại lời dạy của thiên sứ là đừng sợ hãi, nhưng phải đi gặp các môn đồ rồi bảo họ phải "qua xứ Galilê" ở đó Ngài sẽ gặp gỡ họ. Tuy nhiên, Chúa Jêsus không nói: "hãy đi bảo các môn đồ ta". Ngài phán: "hãy đi bảo cho anh em ta".
Đây là một tư tưởng rất đáng sợ! Các môn đồ đã vừa chối Chúa Jêsus và lìa bỏ Ngài. Sâu xa như chúng ta biết, chỉ có Giăng hiện diện tại nơi hành hình, lúc Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Phần còn lại đã bỏ trốn trong sợ hãi khi họ đi ẩn mình trong các hẽm hóc của thành Jerusalem. Họ lấy làm kinh hãi lắm vì sợ mình cũng sẽ bị bắt. Tuy nhiên, ngay khi họ đang còn ẩn náu, Ngài gọi họ là "anh em".
Quí vị có biết Ngài cũng đang gọi quí vị là anh [chị] em của Ngài không? Hêbơrơ 2.11 phác hoạ ra bối cảnh trên trời, ở đó tất cả những kẻ được chuộc, là “hội”đời đời, là Hội Thánh của con trưởng nam đã nhóm lại quanh Chúa Jêsus. Câu nầy đọc như sau: "Vì Đấng làm nên thánh và kẻ được nên thánh, đều bởi một Cha mà ra. Cho nên Ngài không thẹn mà gọi những kẻ đó là anh em".
Hy vọng có nghĩa là dù khi chúng ta sợ hãi, dù khi chúng ta bị xấu hổ, sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Jêsus khiến cho chúng ta ra "anh em" của Ngài.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét