Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010

Mathiơ 27.45-54: "Những hiển thị lạ lùng khi Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Những hiển thị lạ lùng khi Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá
Mathiơ 27.45-54
Sự chết, sự chôn và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ là đỉnh cao của lịch sử. Không một biến cố nào khác, bất luận có làm choáng cả đất thể nào đi nữa cũng không bằng sự kiện đó. Các sách tin lành dường như chia 6 giờ đồng hồ sự đóng đinh Chúa Jêsus trên thập tự giá thành hai phần. Theo Mác 15.25, Chúa Jêsus đã bị đóng đinh vào thập tự giá vào "giờ thứ ba" hay 9 giờ sáng. Ngài bị treo ở đó cho tới "giờ thứ chín" hay trong khoảng thời gian 6 tiếng đồng hồ.
Trong ba giờ đầu tiên đó, từ 9 giờ sáng cho tới giữa trưa, Chúa Jêsus đã đưa ra ba câu nói. Luca 23.34 cho chúng ta biết một thời gian ngắn sau khi Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá, Ngài đã kêu lên: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì". Tất nhiên là họ hiểu rõ họ sẽ làm gì, nhưng họ lại chẳng hiểu tầm mức quan trọng nơi mọi hành động của họ. Họ không biết họ đang đóng đinh Con của Đức Chúa Trời trên thập tự giá: "bởi chưng, nếu đã biết thì họ chẳng đóng đinh Chúa vinh hiển trên cây thập tự đâu" (I Côrinhtô 2.8). Chúa Jêsus đã cầu xin sự tha thứ cho bất kỳ ai trong số họ biết ăn năn. Hàng ngàn người trong số họ một vài ngày sau đó đã có mặt trong dịp lễ Ngũ Tuần!
Thứ hai, khi một trong hai tên cướp bên cạnh Ngài nài xin: "Lạy Chúa, khi Ngài đến trong nước mình rồi, xin nhớ lấy tôi!". Chúa Jêsus đã giàu ơn đáp: "Quả thật, ta nói cùng ngươi, hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi" (Luca 23.42-43). Chúa Jêsus không nói: "Ngươi sẽ ở trong nơi Ba-ra-đi" mà là "Ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi". Thiên đàng không phải là một địa điểm mà đó là một Thân Vị!
Thứ ba, Chúa Jêsus đã tiếp trợ cho Mary mẹ Ngài. Chỉ về Giăng, Ngài phán: "Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi!" Đối với Giăng, Ngài phán: "Đó là mẹ ngươi!" (Giăng 19.26-27). Dù ở trong chỗ đau đớn thật nhiều, Chúa Jêsus đã nghĩ tới nhiều người khác.
Các sách Tin lành dường như tập trung vào phương diện thuộc thể của sự Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá trong suốt 3 tiếng đồng hồ đầu tiên. Tuy nhiên, như chúng ta nhìn thấy từ phân đoạn Kinh Thánh gốc, trong 3 giờ đồng hồ sau đó, từ giữa trưa cho tới 3 giờ chiều, mục tiêu dường như đặt vào những sự hiển thị lạ lùng kèm theo sự chết chuộc tội của chúa tể trời và đất.
Trong bài nghiên cứu nầy, chúng ta sẽ xem xét bảy hiển thị lạ lùng của sự đóng đinh trên thập tự giá.
I. Bầu trời trở nên tối tăm (câu 45).
Quí vị có nhớ các sự cố lạ lùng xây quanh sự giáng sinh của Chúa Jêsus không? Chúa Jêsus ra đời vào lúc ban đêm, dưới sự che phủ của bóng tối tăm. Tuy nhiên, khi các thiên sứ loan báo sự giáng sinh của Ngài cho mấy gã chăn chiên biết, bóng tối tăm đã bị phá vỡ bởi một thứ ánh sáng siêu nhiên khi "sự vinh hiển của Chúa chói lòa xung quanh".
Mỉa mai dường bao, Chúa Jêsus đã chịu chết vào lúc giữa trưa, khi mặt trời mọc ở đỉnh cao nhất của nó. Câu 45 chép như sau: "Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt". Giống như một thứ ánh sáng siêu nhiên xuyên thủng bóng tối tăm mù mịt của ban đêm khi Ngài giáng sinh, một thứ tăm tối siêu nhiên đã che phủ ánh sáng ban ngày lúc Ngài chịu chết.
Hãy tưởng tượng bối cảnh khi ấy xem! Hãy tưởng tượng đoàn dân đông đến xét đoán Chúa Jêsus, những kẻ đứng chế giễu Ngài giống như “bóng tối tăm” quái dị đã che phủ đất vào lúc giữa ban ngày xem. Từ ngữ Hy lạp dịch "xứ" cũng có nghĩa là "đất" nữa. Chúng ta không biết bóng tối tăm nầy dày đặc bao nhiêu. Không những nó che phủ trên thành Jerusalem, mà nó còn che phủ cả đất nữa.
Mặc dù Kinh Thánh đặc biệt không nói tới mục đích của “bóng tối tăm” nầy, các rabi đã xem bóng tối tăm nầy nói tới sự phán xét của Đức Chúa Trời. Một triết gia người Ai cập có tên là Diogenes đã nói: "Một là chính thần tính của Ngài đã chịu khổ trong giờ phút nầy, hoặc là Ngài đang đồng cảm với Đấng đang chịu khổ kia". Tôi tin hiện tượng nầy đã biểu thị cho sự phán xét của Đức Chúa Trời vì tội lỗi của nhân loại và nỗi buồn rầu của Ngài khi Con của Ngài phải hy sinh như thế.
II. Cứu Chúa kêu la (các câu 46-47).
Sau khi "bóng tối tăm" che phủ bầu trời trong ba giờ đồng hồ, "ước chừng giờ thứ chín" hay 3 giờ chiều, "Đức Chúa Jêsus kêu tiếng lớn lên rằng: Ê-li, Ê-li, lam-ma sa-bách-ta-ni?" Mathiơ giải thích các từ ngữ Hêbơrơ nầy cho chúng ta biết. Chúng có nghĩa là: "Đức Chúa Trời tôi ơi! Đức Chúa Trời tôi ơi! sao Ngài lìa bỏ tôi?"
Hầu hết các học viên Kinh Thánh đều biết rõ, có phải "mấy người đứng ở đó" nghe Chúa Jêsus thốt ra lời lẽ của Thi thiên 22.1: "Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi?" không? Họ đã chế giễu Ngài vì đã xưng mình là Con Đức Chúa Trời (câu 43), họ tiếp tục cuộc nhiếc móc nầy bằng cách nói: "Nó kêu Êli".
Câu nầy là một trong những lẽ mầu nhiệm của Kinh Thánh. Không cứ cách nào đó, trên thập tự giá, Đức Chúa Con đã bị phân rẽ ra khỏi Đức Chúa Cha. Lầy duy nhứt trong lịch sử, Chúa Jêsus không còn là một với Cha của Ngài nữa. Chúa Jêsus đã gánh lấy tội lỗi của thế gian trên chính mình Ngài. Ngài đã bị che phủ với sự ô uế cùng cực của từng tội lỗi của từng con người trong dòng giống của Ađam. Trong sự thánh khiết của Ngài, Đức Chúa Cha dường như xây mặt Ngài khỏi Đức Chúa Con đã khoác lấy chiếc áo tội lỗi.
Habacúc 1.13 chép về Đức Giêhôva như sau: "Mắt Chúa thánh sạch chẳng nhìn sự dữ, chẳng có thể nhìn được sự trái ngược". Tội lỗi đã phân rẽ Đức Chúa Con ra khỏi Đức Chúa Cha … tội lỗi của chúng ta.
Sự thật nầy mầu nhiệm đến nỗi Martin Luther đã bước vào chỗ kín đáo, riêng tư trong một thời gian khá lâu để tìm kiếm và hiểu rõ nó. Ông đã chịu thua và rút lui lại như khi ông bắt đầu.
Chúng ta chỉ có thể dám chắc mọi điều mà Kinh Thánh đã nói. Êsai 53.5 chép: "Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương…" Rôma 4.25 chép: "Ngài đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta". I Côrinhtô 15.3 chép: "Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh". II Côrinhtô 5.21 chép như sau: "Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời". Galati 3.13 chép: "Đấng Christ … đã nên sự rủa sả vì chúng ta". I Phierơ 2.23 chép Ngài: "Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ". I Phierơ 3.18 chép: "Vả, Đấng Christ cũng vì tội lỗi chịu chết một lần, là Đấng công bình thay cho kẻ không công bình". 1 Giăng 2.2 chép: "Ấy chính Ngài làm của lễ chuộc tội lỗi chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta thôi đâu, mà cũng vì tội lỗi cả thế gian nữa".
Trong một phương thức mầu nhiệm, không thể tưởng được, không những Chúa Jêsus đã gánh chịu nỗi khổ đau hết mức về phần xác trên thập tự giá, mà Ngài còn gánh chịu nỗi đau khổ khôn tả xiết của sự bị phân rẽ ra khỏi Cha của Ngài khi Ngài gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chỉ có Đức Chúa Trời mới thấu hiểu hết chiều sâu của sự hy sinh ấy mà thôi.
Chúa Jêsus không thôi là Con của Đức Chúa Trời giống như quí vị có thể thôi là bố mẹ của con trai hay con gái của mình. Ngài không mất đi thần tính của mình, nhưng trong một thời gian ngắn, Ngài đã mất đi mối giao thông mật thiết với Đức Chúa Cha.
III. Trút linh hồn (các câu 48-50).
Giăng 19.28 cho chúng ta biết rằng đến lúc đó, Chúa Jêsus kêu lớn tiếng lên: "Ta khát". Có ai đó, có lẽ là tên lính La mã: "chạy lấy một miếng bông đá, và thấm đầy dấm, để trên đầu cây sậy mà đưa cho Ngài uống". Giăng nói đó là một miếng "bông đá” thấm đầy giấm. Đây không phải là một hành động thương xót đâu, nhưng là để kéo dài nối đau khổ của kẻ tội phạm mà thôi.
Rõ ràng, "những kẻ khác", các cấp lãnh đạo Do thái trong đám đông kia đã chống lại sự giúp đỡ nầy. Họ nói: "Hãy để vậy, coi thử có Ê-li đến giải cứu nó chăng". Chẳng có chi hết, thậm chí bóng tối tăm không làm cho họ phải bối rối, họ cũng chẳng đổi ý muốn nhìn xem Chúa Jêsus phải gục chết.
Có lẽ Chúa Jêsus đã sử dụng tính ẩm ướt của miếng “bông đá” kia để làm sạch cổ họng của mình vì "Ngài kêu lên một tiếng lớn nữa". Dù Ngài đã chịu khổ như thế rồi, Ngài vẫn có một sự dự trữ về sức lực.
Sự sống của Chúa Jêsus không bị tách ra khỏi Ngài khi Ngài càng lúc càng yếu đi. Thay vì thế, Ngài "đã trút linh hồn". "Trút" ra từ một chữ có nghĩa là "để cho đi hay sai đi, chỉ ra một hành động tự nguyện". Chúa Jêsus vốn biết rõ cái giá phải trả. Ngài biết rõ thời điểm đã đến gần. Ngài đã gánh chịu đủ rồi.
Tôi luôn luôn tin mẹ tôi đã chờ đợi cho tới khi sau khi tôi rời khỏi phòng bịnh viện của bà, trước khi bà trút linh hồn. Bà cứ kéo dài bao lâu tôi còn ở bên bà, và sau đó bà đã ra đi.
Lấy hết sức lực mình, Ngài kêu lên vào lúc sau cùng: "Mọi sự đã được trọn!" (Giăng 19.30) và nói: "Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha!” Luca còn thêm: "Ngài vừa nói xong thì tắt hơi” (Luca 23.46).
Mặc dù bị treo trên thập tự giá, Chúa Jêsus vẫn nắm lấy quyền tể trị trên toàn bộ bối cảnh nầy. Ngài đã phán về sự sống của Ngài trong Giăng 10.18: "Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng lịnh nầy nơi Cha ta".
Những sự đóng đinh trên thập tự giá thường kết thúc lâu hơn là sáu tiếng đồng hồ. Đôi khi nó kéo dài qua nhiều ngày. Khi Giô-sép người Arimathê đến xin Phi-lát để lấy xác của Chúa Jêsus, quan Tổng đốc: "lấy làm lạ về Ngài đã chết mau như vậy" nên đã sai một thầy đội đến xác nhận lại thông tin đó.
IV. Bức màn đền thờ bị xé rách làm hai (câu 51a).
Kế đó, Mathiơ chép: "Và nầy [‘Wow! Đừng lẫn lộn ở đây!’ – sự giải thích của tôi] cái màn trong đền thờ, bị xé ra làm hai từ trên chí dưới". Phần nơi thánh bên trong đền thờ, là Nơi Chí Thánh bị chia ra với nơi thánh ở bên ngoài bằng một bức màn lớn khoảng 60 feet chiều cao, 30 feet chiều rộng và bề dày bằng lòng bàn tay của quí vị vậy. Sử gia Josephus nói bức màn có màu xanh nước biển và được trang hoàng rất công phu. Mỗi năm, vào ngày lễ chuộc tội, thầy tế lễ thượng phẩm phải bước qua bức màn để rãi huyết trên ngôi thương xót là biểu tượng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Đúng giờ đó, khi Chúa Jêsus gục chết "bức màn bị xé ra làm hai". Đặc biệt hãy chú ý, bức màn bị xé ra làm hai "từ trên chí dưới". Giống như có một thanh gươm rọc bức màn vậy. Nó bị rọc "từ trên chí dưới" vì Đức Chúa Trời đã xé nó, chớ không phải con người đâu.
Không có cần có một bức màn hay một thầy tế lễ thượng phẩm con người để dâng con sinh tế nữa. Khi Chúa Jêsus hoàn tất công tác của Ngài trên thập tự giá, bất kỳ người nào muốn bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời đều nhờ vào đức tin nơi Ngài. Của lễ một lần đủ cả đã được lập rồi. Vì thế Hêbơrơ 4.16 chép: "Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ơn phước, hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng".
V. Đất rúng động (câu 51b).
Đúng lúc đó, khi Chúa Jêsus "kêu lên một tiếng lớn nữa, rồi trút linh hồn" không những bức màn đền thờ bị xé ra làm hai, mà "đất thì rúng động [lay động mạnh], đá lớn bể ra". Đây chẳng phải là động đất tình cờ đâu, mà là một dấu chỉ về sự phán xét của Đức Chúa Trời.
Nhiều lần xuyên suốt Cựu ước, những trận động đất đều kèm theo sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thí dụ, khi Đức Chúa Trời gặp gỡ Môise trên Núi Sinai: "lớn kia, và cả hòn núi đều rung động cách kịch liệt" (Xuất Êdíptô ký 19.18). khi Đức Giêhôva hiện ra với tiên tri, I Các Vua 19.11 chép: "Nầy Đức Giê-hô-va đi ngang qua, có một ngọn gió mạnh thổi dữ tợn trước mặt Ngài, xé núi ra, và làm tan nát các hòn đá…Sau trận gió có cơn động đất". Trong nhiều phân đoạn Kinh Thánh khác, chúng ta thấy đất lay động trong sự hiện diện của Đức Giêhôva.
Quí vị có nhớ Chúa Jêsus đã phán gì về những kẻ đến thờ phượng lúc Ngài vào thành đắc thắng không? Ngài phán trong Luca 19.40: "Ta phán cùng các ngươi, nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên". Trong khi Ngài bị treo trên thập tự giá, chẳng có ai ca hát hay hô lên những lời ca ngợi Ngài nữa, nhưng một cơn động đất siêu nhiên đánh dấu sự hoàn tất công tác cứu chuộc của Ngài hay loan báo trước sự phán xét hầu đến của Đức Chúa Trời.
VI. Kẻ chết sống lại (các câu 52-53).
Khi "đất thì rúng động, đá lớn bể ra" Mathiơ nói rằng "mồ mả mở ra". Sự nầy chẳng phải là bất thường trong một cơn động đất, nhưng bất thường ở chỗ "nhiều thây của các thánh qua đời được sống lại".
Không phải hết thảy mà là "nhiều" linh hồn của các thánh đã hiệp lại với thân thể của họ đã được làm cho vinh hiển. Họ báo trước sự Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá mọi điều sẽ kèm theo công việc của Ngài trong thời kỳ sau rốt khi "kẻ chết trong Đấng Christ sẽ sống lại" (I Têsalônica 4.16).
Bãn dịch tiếng Anh có chỗ không đúng lắm. Ở đấy chép các thánh độ Cựu ước nầy không ra khỏi mồ mả cho tới sau khi Ngài sống lại. Tuy nhiên, ý nghĩa cho thấy rằng "Sau khi Đức Chúa Jêsus đã sống lại, các thánh đó ra khỏi mồ mả, đi vào thành thánh, và hiện ra cho nhiều người thấy". Họ không đi thẳng vào thành Jerusalem cho tới sau khi Chúa Jêsus sống lại hầu cho Ngài trở thành "trái đầu mùa của những kẻ đã ngủ" (I Côrinhtô 15.20).
VII. Thầy đội La mã tin quyết (câu 54).
"Thầy đội" là một sĩ quan chỉ huy hơn 100 lính. Ông và "những lính cùng với người" đã giám sát và canh chừng cuộc đóng đinh trên thập tự giá, họ đã trông thấy những điều đã xảy ra cho Chúa Jêsus. Có lẽ họ đã có mặt trong bọn đông người đến bắt Ngài tại vườn Ghếtsêmanê. Chắc chắn họ đã trông thấy Ngài bị sĩ nhục tại trường án. Có thể họ có mặt giữa vòng những kẻ đã chế giễu Ngài và đã đội chiếc mão gai trên đầu Ngài. Dĩ nhiên họ là những người đã đóng xuyên các mũi đinh vào hai bàn tay, hai bàn chân Ngài và bóc thăm lấy áo xống của Ngài.
Chắc chắn bóng tối tăm thình lình lúc giữa trưa đã làm cho họ phải khó chịu. Tuy nhiên, khi đất bắt đầu lay động mạnh và đá thì bễ ra: "họ sợ hãi lắm". "Sợ hãi" được rút ra từ chữ phobeo từ đó chúng ta có chữ "phobia" [khiếp đảm]. "Thầy đội La mã" cùng lính của ông đã ý thức được rằng đây không phải là một bối cảnh lạ lùng nào đó, mà là mọi điều Chúa Jêsus đã phán đều là sự thực. Họ hô lên: "Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời".
Chẳng có phép lạ nào lớn lao hơn khi Đức Chúa Trời biến đổi bất kỳ người nào từ một tội nhân cứng lòng thành một thánh đồ biết hạ mình. Có lẽ bằng chứng quan trọng nhất về công tác của Chúa Jêsus trên thập tự giá, ấy là những kẻ đã khởi sự ngày sĩ nhục Ngài nhưng lại hoàn tất ngày ấy trong sự tôn kính Ngài.
Có nhiều điều thú vị sau khi đánh bom Trân Châu Cảng bởi không quân Nhật bản vào ngày 7 tháng Chạp năm 1941. Có ít người biết câu chuyện lạ lùng kể về Mitsuo Fuchida. Ông là phi công trưởng lực lượng không quân thuộc Hải quân Nhật bản vào năm 1941 và được lịnh chỉ huy chiến dịch tấn công vào Trân Châu Cảng. Giọng chỉ huy của Fuchida ban ra sứ điệp "Tora! Tora! Tora!" (Cọp! Cọp! Cọp!) chỉ ra sự thành công của chiến dịch ấy. Ông đã có mặt trong nhiều chiến dịch khác rồi bị bắn hạ trong chiến trận Midway vào năm 1942. Jacob DeShazer là thành viên của trận đột kích Doolittle. Bị bắn hạ trong chiến dịch đánh bom trên thủ đô Đông Kinh, ông bị bắt giữ làm tù binh chiến tranh tại Trung quốc. Ở đấy ông đã gặp gỡ Đấng Christ. Ông thấy tấm lòng mình nhẹ nhàng đi đối với các lính canh Nhật bản. Sau khi được thả tự do, ông đã viết một bài tiểu luận ngắn được phân phối cách rộng rãi với đề tựa: "Tôi là tù binh của người Nhật", mô tả chi tiết mọi kinh nghiệm làm tù binh, được biến đổi và sự tha tội. Fuchida và DeShazer gặp nhau vào năm 1950. DeShazer đã trở lại Nhật bản vào năm 1948 trong vai trò một giáo sĩ. Fuchida đã đọc bài làm chứng của DeShazer, đã mua một quyển Kinh Thánh, rồi được biến đổi từ Phật giáo sang Cơ đốc giáo. DeShazer đã tiếp đón vị tân tín hữu nầy và đã khích lệ ông chịu phép báptêm. Trong khi DeShazer cứ tiếp tục mở mang các Hội Thánh khắp nước Nhật, Fuchida đã trở thành một vị giáo sĩ, lo rao giảng Tin lành khắp nước Nhật. Ông qua đời vào ngày 30 tháng 5 năm 1976. Ông viết: "Buổi sáng hôm ấy [ngày 7 tháng Chạp] …tôi đã vén bức màn chiến tranh bằng cách ban ra mạng lịnh đáng rủa sả đó, và tôi đã đặt hết toàn bộ nổ lực của mình vào cuộc chiến nối theo sau.… [Thế nhưng] sau khi mua và đọc quyển Kinh Thánh, lý trí của tôi cảm thấy có ấn tượng rất mạnh mẽ và bị bắt phục. Ngày nay tôi nghĩ tôi có thể nói không có gì phải lưỡng lự rằng ân điển của Đức Chúa Trời đã giáng trên tôi" (Elesha Coffman, trong quyển Bên kia Trân Châu Cảng).
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét