Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010

Mathiơ 27.27-44: "Điều tốt nhứt của Đức Chúa Trời,Điều tệ hại nhất của con người"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Điều tốt nhứt của Đức Chúa Trời, Điều tệ hại nhất của con người
Mathiơ 27.27-44
Án tử hình, án phạt chính, án chết, đây là những vấn đề tranh cãi gay gắt nhất trong xứ sở của chúng ta ngày nay. Chỉ cách đây có mấy ngày thôi, kẻ giết người tệ hại nhất trong lịch sử nước Mỹ đã bị hành quyết ở Terra Haute, Indiana, án tử hình đầu tiên đã được thực thi bởi nhà cầm quyền liên bang kể từ đầu thập niên 1960. Nếu có ai đáng bị án tử hình, thì đó phải là Timothy McVeigh, là người đã công khai nhìn nhận hoạch định đánh bom làm chết 168 người ở thành phố Oklahoma vào năm 1995.
Nếu có ai không đáng bị án tử hình, thì đó phải là Đức Chúa Jêsus Christ. Chiên Con vô tội của Đức Chúa Trời đã bằng lòng phó sự sống vô tội của Ngài vì cớ tình trạng tội lỗi của chúng ta. Tác giả thánh ca lỗi lạc Isaac Watts đã viết: "Thương vì vua tôi thân hình đẫm máu. Con Trời nay chết thế sao? Gẫm tấm thân tôi, đáng giá con sâu. Chúa phải dâng thánh thủ sao? Thay vì tôi Jêsus chịu ác báo, trên thập tự cam khổ đau. Biển ái non ân quá đỗi sâu cao. Chẳng có chi sánh nổi đâu!"
Thực vậy, thập tự giá tiêu biểu cho điều tốt nhứt của Đức Chúa Trời và là điều tệ hại nhứt của con người. Thập tự giá là đỉnh cao tối hậu của lịch sử cứu chuộc, là sự khải thị trọn vẹn của ân điển Đức Chúa Trời, là tình yêu thương và lòng thương xót dành cho nhân loại. Tuy nhiên, nó phác hoạ thật trọn vẹn sự băng hoại hoàn toàn tội lỗi của con người. Trong sự đóng đinh trên thập tự giá, chúng ta nhìn thấy chỗ cao cả nhất của Đức Chúa Trời và chỗ thấp hèn nhất của con người. Mỗi trước giả sách Tin lành phác hoạ ra những phương diện khác nhau của đời sống Chúa Jêsus. Trong sự đóng đinh trên thập tự giá, Giăng dường như tập trung vào hành động yêu thương và ân điển cả thể của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Mathiơ dường như quyết tỏ ra giờ tối tăm nhất tình trạng tội lỗi của con người đối chiếu với sự hy sinh của Con độc sanh Đức Chúa Trời.
Sự băng hoại tăm tối của con người đã được thấy rõ trong sự tra tấn từ phía mấy tên lính, sự sĩ nhục của hai tên cướp, sự chế giễu của kẻ qua đường và sự nhạo báng của các cấp lãnh đạo tôn giáo.
I. Sự tra tấn từ mấy tên lính (các câu 27-37).
A. Sự ngược đãi trong Trường án (các câu 27-31).
Chúng ta nhớ từ bài nghiên cứu vừa qua rằng quan Tổng đốc La mã, Phi-lát đã không cự nổi sự doạ dẫm của Toà Công Luận. Mặc dù ông ta biết rõ Chúa Jêsus không phạm vào một tội nào hết, ông ta đã chọn động cơ chính trị cá nhân và làm thoả mãn bọn dân đông kia bằng cách phó Chúa Jêsus để bị đóng đinh trên thập tự giá (câu 26). Vì thế, ông ta đã giao Ngài qua cho lính canh bên Trường án. Mathiơ đề cập tới họ trong câu 27 là: "lính của quan Tổng đốc". Có lẽ họ là đội quân xuất sắc trong đoàn quân viễn chinh La mã.
"Mấy tên lính" đã dẫn Chúa Jêsus vào trong công đường và "nhóm cả cơ binh vây lấy Ngài". Một cơ binh La mã gồm có 600 người. Rôma thường động viên bắt lính đi chinh phục các nước. Vì hầu hết người ta sẽ không đánh trận nghịch lại chính xứ sở của họ, họ thường sử dụng những người từ xứ đối nghịch để tuần tra các vùng lãnh thổ họ đã chiếm đóng. Nhiều người tin rằng cơ binh của Phi-lát gồm toàn người Syri khi họ rất ghét người Do thái, nhưng vẫn nói theo ngôn ngữ của họ.
Đối với mấy tên lính, Chúa Jêsus chỉ là một người Do thái khác bị kết án mà thôi. Họ được tự do ngược đãi nhiều và lâu Ngài bao nhiêu theo ý họ muốn, và họ chẳng giết chết Ngài. Sau khi biết rõ các bản án nghịch lại Ngài rồi, và Ngài tự xưng mình là Vua nữa, họ đã thể hiện một sự chế giễu rất nghiệt ngã.
Thứ nhứt, họ "cổi áo Ngài ra, lấy áo điều mà khoác cho Ngài". Hãy nhớ, Phi-lát đã cho “đánh đòn” Ngài rồi (câu 26). Da của Ngài đã bị rách nát từ vai xuống quá khỏi mông của Ngài. Họ đã lột bỏ khỏi Ngài áo xống không có đường may rồi khoác chiếc "áo điều" quanh vai của Ngài. Đây có lẽ là một trong những áo choàng không tay kiểu quân đội của họ. Mác và Giăng nói rằng chiếc áo có màu "điều" (Giăng 19.2; Mác 15.17). Màu điều là màu truyền thống của hoàng gia và "áo điều" là áo rất hạn chế đối với họ.
Mặc dù đây không phải là chủ ý của họ, khi mấy tên lính khoác cho Chúa Jêsus chiếc "áo điều" đó, họ đã làm biểu tượng thể nào Ngài không bao lâu nữa sẽ khoác lấy tội lỗi màu điều của cả nhân loại. Trong Êsai 1.18, Đức Giêhôva phán: "Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết; dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên". Chúa Jêsus đã tình nguyện khoác lấy tội lỗi đỏ như son trên chính mình Ngài.
Kế đó, mấy tên lính "đã đương một cái mão gai" rồi tròng nó lên trên đầu Ngài. Không nghi ngờ chi nữa, cái mão nầy giả bắt chước theo vòng nguyệt quế mà Xê-sa đã đội trên đầu. "Mão gai" cũng có tính cách tượng trưng. Một phần trong lời rủa sả của Sự Sa Ngã là "gai góc và chà chuôm" nó hành hại con người (Sáng thế ký 3.18). Chúa Jêsus đã gánh chịu sự sĩ nhục của chiếc "mão gai" cho thấy Ngài đã gánh lấy sự rủa sả của Sự Sa Ngã vì ích cho chúng ta.
Mấy tên lính cũng để "một cây sậy trong tay hữu Ngài" rồi "quì xuống trước mặt Ngài mà nhạo báng" bằng câu nói "Lạy Vua của dân Giu-đa". Cây "sậy" tiêu biểu cho cây trượng của nhà vua, tiêu biểu cho quyền lực. Thay vì cúi mình xuống khiêm nhường trước mặt Vua các vua, chúng đã "nhổ trên Ngài" rồi "lấy cây sậy đánh đầu Ngài".
Khải huyền 19.15 cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus một ngày kia sẽ "cai trị họ bằng một cây gậy sắt". Thay vì là cây "sậy" Ngài sẽ "đánh các nước" bằng một "lưỡi gươm bén" và “giày đạp thùng rượu cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời toàn năng”.
Sau cùng cuộc chơi đã qua đi. Toàn bộ bối cảnh được vẽ ra rất tàn nhẫn để sĩ nhục hết mức luôn. Nhưng khi mấy tên lính thấm mệt sự sĩ nhục vô tâm của chúng, chúng "cổi áo điều ra" mà "mặc áo của Ngài lại" rồi kế đó "đem Ngài đi đóng đinh trên cây thập tự".
Chính tại điểm nầy mà Giăng nói cho chúng ta biết Phi-lát đã thử lần cuối cùng làm thoả mãn bọn dân đông kia đang thèm thuồng sự chết của Ngài. Một lần nữa, chúng ta hãy đọc Giăng 19.4-16.
B. Một người mang thế thập tự giá (câu 32).
Nhiều học giả Kinh Thánh khác nhau phác hoạ người mang thập tự một cách khác nhau. Có người cho rằng Ngài chỉ mang phần ngang của cây thập tự mà thôi, nhưng dường như có lẽ Ngài đã mang toàn bộ thập tự giá đó, nặng khoảng 200 pounds. Phần sĩ nhục công khai của sự đóng đinh vào thập tự giá là phải vác lấy công cụ cho cái chết của chính mình ngang qua những con đường hẹp, quanh co và đông người ở thành Jerusalem.
Chúa Jêsus đã chịu khổ thật là khủng khiếp. Đêm trước đó Ngài đã không ngủ một chút nào rồi. Gương mặt của Ngài bị đánh đòn be bét máu. Ngài đang mang lấy những vết thương lở loét do đòn vọt của người La mã. Hãy nhớ, sự kinh khủng về mặt tình cảm và về mặt tâm linh khi trở thành của lễ cho tội lỗi gần như đã giết chết Ngài ở trong vườn (26.38). Ngài không còn chút sức lực nào để vác lấy thập tự giá nữa.
Điều nầy rất rõ ràng vì "khi họ đi ra" khỏi công đường, mấy tên lính "gặp một người ở thành Sy-ren" tên là "Simôn" thì bắt người "vác cây thập tự".
"Simôn" là cái tên rất phổ thông. "Syren" là một thành phố nằm ở Bắc Phi châu với dân cư Do thái rất đông đúc. Mác nói: "Simôn ở ngoài ruộng về, đi ngang qua đó", rõ ràng là một khách hành hương người Do thái (15.21). Thêm nữa, Mác nói rằng ông là "cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu". Hai người nầy dường như rất quen thuộc đối với Mác và các độc giả của ông tại Rôma. Trong Rôma 16.13, sứ đồ Phaolô nói: "Hãy chào Ru-phu, người được chọn của Chúa, và chào mẹ người, cũng là mẹ tôi".
Dường như việc Simôn vác thập tự giá của Chúa Jêsus không những đã đưa ông đến với đức tin, mà còn cả gia đình của ông nữa. Việc vác thập tự giá của Đấng Christ đã đánh dấu cho thấy ông đã dâng phần đời còn lại cho Chúa.
Luca cho chúng ta biết rằng chính ở phần mở đầu đám rước khủng khiếp nầy mà Chúa Jêsus đã ban ra bài giảng sau cùng công khai với mấy người đờn bà ở thành Jerusalem, họ đang kêu khóc ở đàng sau Ngài. Trong Luca 23.28-31 Ngài phán: "Hỡi con gái thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc về ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi. Vì nầy, ngày hầu đến, người ta sẽ nói rằng: Phước cho đàn bà son, phước cho dạ không sanh đẻ và vú không cho con bú! Bấy giờ, người ta sẽ nói với núi rằng: Hãy đổ xuống trên chúng ta! với gò rằng: Hãy che chúng ta! Vì nếu người ta làm những sự ấy cho cây xanh, thì cây khô sẽ xảy ra sao?" Nếu người La mã đã ngược đãi tồi tệ một người vô tội, họ còn đối xử với dân Israel phạm tội nhiều dường bao. Lời tiên tri nầy đã thành hiện thực với lần bao vây của các binh đoàn của Titus vào năm 70SC.
C. Đồi Gôgôtha (các câu 33-37).
Chúa Jêsus bị dẫn ra "một chỗ gọi là Gôgôtha, nghĩa là chỗ Cái Sọ". Luật pháp Môise cấm hành quyết ở bên trong thành phố, vì vậy Chúa Jêsus phải "chịu khổ tại ngoài cửa thành" (Hêbơrơ 13.12). Địa điểm cho sự đóng đinh trên thập tự giá đã được gọi theo một từ Aram là "Gôgôtha" có nghĩa là cái "sọ". Chữ Latinh là calvaria từ đó chúng ta có chữ "Calvary". Danh xưng nầy được đọc theo hình dáng của sườn núi.
"Gôgôtha" nằm bên cạnh con đường có nhiều người qua lại, nó dẫn vào thành phố. Quân La mã đã đóng đinh các tội phạm ở một chỗ cao ráo có lưu thông qua lại nhiều hay trên sườn đồi vì họ muốn nhiều người phải nhìn thấy điều chi xảy ra cho những kẻ chống đối lại luật lệ của La mã.
Câu 34 chép rằng họ "cho Ngài uống rượu trộn với mật đắng". Nhiều người tin đây là một loại thức uống có chất ma túy làm cho kẻ tội phạm thấy thoải mái khi các mũi đinh đóng vào thân thể hầu cho họ không phải vật vã nhiều. Châm ngôn 31.6 cho thấy rằng một số phụ nữ Do thái đã có cách "ban vật uống say cho người gần chết". Có lẽ chính mấy người đờn bà đã đưa thức uống nầy cho Chúa Jêsus.
Kinh Thánh chép: "song Ngài nếm", khi Ngài biết mục đích gây tê của nó "thì không chịu uống". Chúa Jêsus đã quyết định uống cho tới cặn cái chén thạnh nộ của Đức Chúa Trời và tội lỗi của chúng ta. Ngài không thu nhỏ lại cấp độ đầy trọn của sự Ngài chịu khổ vì ích cho chúng ta. Ngài chấp nhận toàn bộ cái chén ấy trong chỗ của chúng ta.
Câu 35 chép: "Họ đã đóng đinh Ngài trên cây thập tự rồi". Sự đóng đinh trên thập tự giá rất phổ thông đối với hạng độc giả trong thế kỷ đầu tiên đến nỗi các trước giả Tin lành cung ứng rất ít chi tiết. Tuy nhiên, lịch sử của người La mã cung cấp cho chúng ta với nhiều phân tích rất sinh động. Thứ nhứt, Chúa Jêsus đã bị lột hết áo xống của Ngài rồi bị đặt nằm trên cây thập tự. Kế đó một cây đinh lớn đóng ngay giữa hai xương cổ tay gần mạch máu. Theo thuật ngữ của Kinh Thánh, bàn tay có ý nói tới khu vực từ cùi chỏ ra tới ngón tay. Những xương nhỏ trong lòng bàn tay không thể nâng được sức nặng của cả thân thể. Tiếp đến, hai đầu gối của Chúa Jêsus bị gấp cong lại nơi mắt cá và một cây đinh được đóng thấu cả hai bàn chân vào thân gỗ. Hai đầu gối bị uốn cong khiến cho tội phạm phải chỏi trên cây đinh để phổi có thể hít lấy hơi được. Sau cùng, thập tự giá được dựng đứng lên và cho lọt vào một cái lỗ đào sẵn ở trên mặt đất. Hãy tưởng tượng nỗi đau kinh khủng lần qua cả toàn thân của Chúa Jêsus khi cây thập tự đụng đến đáy lổ đó xem! Có lẽ đây là điều mà Thi thiên 22.14 muốn nói: "Các xương cốt tôi đều rời rã; Trái tim tôi như sáp, Tan ra trong mình tôi".
Hãy lắng nghe phần mô tả nầy nói tới cái chết khi bị đóng đinh trên thập tự giá: "Tình trạng cực kỳ độc ác đó làm cho mỗi phút thêm cực kỳ đau đớn; các mạch máu bị đứt nát ra cùng những dây gân bị chằng siết rung lên với nỗi đau khôn tả xiết; các vết thương bị phơi ra, bị kích động mạnh, dần dần bị thối rửa; các động mạch – đặc biệt ở đầu và bụng – bị phồng ra và bị ép khi máu chạy quá tải, và khi từng cơn đau ở từng phần thân thể cứ tiếp tục tăng dần lên, thêm vào với chúng là một cơn khát nước dậy lên ghê gớm, và tất cả các biến chứng theo phần xác nầy đã gây ra một sự lo sợ và kích động, tạo ra cái chết – về cái chết đó, là kẻ thù vô danh, nó tiếp cận với tội phạm làm ra những cơn rùng mình, run rẩy dữ dội lắm". Hãy so sánh toàn bộ phần mô tả nầy với những vụ hành quyết hiện đại như cuộc hành quyết tử tội Timothy McVeigh!
Câu 35 cũng nói mấy tên lính: "bắt thăm chia nhau áo xống của Ngài". Chúng đã đùa giỡn trên đồ đạt của Ngài, như áo xống và đặc biệt trên chiếc “áo choàng” trong của Ngài, là chiếc áo dài "không có đường may, nguyên một tấm vải dệt ra, từ trên chí dưới" (Giăng 19.23-24). Bản thảo sách Mathiơ xưa nhất không có phần cuối của câu 35, nhưng tuyệt đối có Thi thiên 22.18 và Giăng 19.24. Ngay cả các chi tiết từng phút sự hy sinh của Chúa Jêsus đã được loan báo trước trong Cựu ước rồi.
Trong khi Chúa Jêsus bị treo trên thập tự giá đang nếm sự chết vì mọi người (Hêbơrơ 2.9), mấy tên lính "ngồi đó mà canh giữ Ngài". Chúng phải có mặt ở đó cho tới khi Ngài đã chết hầu cho bạn bè không thể đưa Ngài xuống hoặc kết liễu mạng sống Ngài theo cách thương xót được.
Người La mã đã hoàn tất hành động chế giễu sau cùng. Họ đặt tấm bảng "trên đầu Ngài" đề chữ: "Người nầy là Jêsus, Vua dân Giu-đa". Giăng 19.20 chép câu nầy được viết bằng tiếng Hy bá lai, tiếng Hy lạp và tiếng Latinh. Toà Công Luận muốn câu đó được ghi như vầy: "Người nói: Ta là Vua dân Giu-đa". Phi-lát bèn đáp cùng chúng rằng: "Lời ta đã viết, thì ta đã viết rồi".
II. Sự sĩ nhục từ phía hai tên cướp (các câu 38, 44).
Câu 38 cho chúng ta biết rằng cũng có "hai tên trộm cướp" bị đóng đinh cùng lượt với Chúa Jêsus: "một tên ở cây thập tự bên hữu, một tên ở cây thập tự bên tả". Nhiều người tin rằng đây là đồng bọn của tên tội phạm khét tiếng Baraba và lẽ ra hắn đã bị đóng đinh ngay tại chỗ của Chúa Jêsus. Từ ngữ Hy lạp nói tới "trộm cướp" dường như chỉ ra rằng hai người nầy không phải là hạng trộp cướp thông thường đâu, mà là những kẻ giết người rất độc ác, chúng thích thú trò hành hạ và giết chóc các nạn nhân cũng như cướp lấy tài sản của họ.
Câu 44 cho chúng ta biết rằng "hai tên trộm cướp" bị treo bên cạnh Chúa Jêsus cũng "nhiếc móc Ngài" với cùng những lời chửi bới và sĩ nhục y như bọn dân đông dưới kia vậy. Ngài đã bị sĩ nhục từ mọi phía.
III. Sự chế giễu từ khách qua đường (các câu 39-40).
Nhiều người tập trung lại quanh thập tự giá. Không nghi ngờ chi nữa, số dân đông đã kêu gào với Phi-lát giờ đây đã hướng tới đồi Gôgôtha. Cả thành phố đông lúc nhúc với khách hành hương, họ đã đi theo với sự phấn khích. "Những kẻ đi ngang qua đó" có tới hàng trăm, nếu không phải là hàng ngàn người.
Phần lớn số người nầy đã nhìn thấy các phép lạ của Chúa Jêsus và đã nghe sự dạy đầy quyền phép của Ngài. Nhiều người đã tung hô chúc tụng Ngài là Vua và tuyên bố Ngài là Đấng Mêsi của Israel lúc đắc thắng vào thành. Giờ đây, họ "chê cười, lắc đầu" trong sự chế giễu và đã nói "phạm thượng cùng Ngài".
Hiển nhiên là các thầy tế lễ đã truyền ra câu nói sai trái từ Chúa Jêsus về sự huỷ diệt và tái thiết lại đến thờ với đám đông. Họ sử dụng điều nầy để khích họ nghịch Ngài. Họ kêu gào: "Ngươi là kẻ phá đền thờ và dựng lại trong ba ngày, hãy cứu lấy mình đi!" Nhiều người khác nói: "Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi cây thập tự!"
Họ giống như nhiều người ngày nay thường đi nhà thờ và thường nghe giảng Tin lành. Họ đã nhảy qua mấy vòng truyền đạo, nhưng khi Chúa Jêsus không làm thành những ao ước đầy ích kỷ và tội lỗi của họ, họ không còn theo Ngài nữa. Họ không muốn nghe về tội lỗi của chính họ và cần phải ăn năn và sự tha thứ. Có nhiều người đi ngang qua nhà thờ, họ từng ngợi khen Chúa Jêsus song giờ đây đã chế giễu Ngài.
IV. Sự nhạo báng từ phía các cấp lãnh đạo tôn giáo (các câu 41-43).
"Các thầy tế lễ cả", Toà Công Luận cũng hiệp "nhạo" với "các thầy thông giáo và các trưởng lão". Họ là bộ máy gây xáo trộn, chính họ đã đem lại sự đóng đinh trên thập tự giá nầy.
Họ nói: "Nó đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được". Sự thực là nếu Ngài cứu được mình, Ngài sẽ không bao giờ cứu người khác! Họ nói: "Nếu phải Vua dân Y-sơ-ra-ên, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự đi, thì chúng ta mới tin". Đây là một lời dối trá. Họ đã có bằng chứng rõ ràng để tin theo, nhưng tấm lòng họ đã bị chai cứng. Họ cũng nói: "Nó nhờ cậy Đức Chúa Trời; nếu Đức Chúa Trời yêu nó thì bây giờ Ngài phải giải cứu cho". Sự thực, ấy là Chúa Jêsus đã đầu phục trọn vẹn với ý chỉ của Đức Chúa Cha là lý do tại sao Ngài đã bị treo trên thập tự giá.
Nếu thập tự giá là điều tốt nhứt của Đức Chúa Trời, thì thực sự nó là điều tệ hại nhất của con người. Chúng ta hãy kết thúc bằng cách đọc Thi thiên 22.
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét