Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010

Mathiơ 27.11-26: "Bị xét xử & Bị kết án"



MATHIƠ – VUA CÁC VUA
Bị xét xử & Bị kết án
Mathiơ 27.11-26
Có nhiều việc đã xảy ra trong một vài giờ đồng hồ. Chúa Jêsus đã ăn Lễ Vượt Qua cùng với các môn đồ buổi tối trước đó. Trong bữa ăn Ngài đã thiết lập Lễ Tiệc Thánh. Kế đó, Ngài đã dẫn họ đến "một chỗ gọi là Ghết-sê-ma-nê" ở đó Ngài đã cật lực cầu nguyện trong mấy giờ đồng hồ liền. Giu-đa, kẻ phản bội lúc đó dẫn bọn đông người đến bắt Ngài khi gần nửa đêm.
Trong khi Chúa Jêsus đối mặt với những kẻ vu cáo Ngài, Phierơ đã chối Ngài ba lần. Giu-đa rất hối hận nơi hành vi phản trắc của mình nên đã tìm cách trả lại số tiền huyết kia. Khi cố gắng nầy không thành, sự thất vọng đã khiến cho hắn ta phải tự tử.
Đồng thời, Chúa Jêsus phải gánh chịu ba lần xét xử theo tôn giáo trước các cấp lãnh đạo của dân Israel. Thứ nhứt, Ngài bị dẫn tới Anne, cha vợ của Cai-phe, Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm. Thứ hai, Ngài bị đưa ra trước Toà Công Luận được triệu tập trong bóng tối lờ mờ của những giờ sắp ban mai tại cung điện của Cai-phe. Sau cùng, lúc rạng ngày, một lần nữa Ngài bị Toàn Công Luận truy tố về một sự phạm pháp tại đền thờ. Khi chúng ta kết thúc bài nghiên cứu vừa qua, chúng ta đã thấy Chúa Jêsus bị người Do thái trói lại rồi giải sang cho "Bon-tu Phi-lát quan tổng đốc" (câu 2).
Toà Công Luận là một toà án tôn giáo, chớ không phải là một toà án dân sự đâu. Dưới sự chiếm đóng của người Lamã, họ không thể kết án tử hình cho ai được nếu không có sự tán thành của quan Tổng đốc Lamã (Giăng 18.31). Người Lamã hiếm khi tán đồng án tử hình trong các trường hợp tôn giáo. Án tử hình của người Do thái chiếu theo các tội phạm như tà dâm, đồng tình luyến ái và phạm thượng, là sự kết tội truy tố trong nền văn hoá phi đạo đức của chính họ.
Tuy nhiên, Toà Công Luận không thể kết án tử hình Chúa Jêsus hợp pháp được, nếu không có sự ưng thuận của Phi-lát. Họ hy vọng họ sẽ doạ dẫm ông ta để ông ta ban cho họ sự họ ước ao, cho nên sáng sớm hôm ấy, ngay sau lúc bình minh, họ đã dẫn Chúa Jêsus đến cung điện của Phi-lát tại thành Jerusalem mà ai cũng biết là điện Praetorium (trường án). Mặc dù Phi-lát sinh sống tại Xê-sa-rê, ông ta đã đến tại thành Jerusalem trong suốt kỳ lễ. Người Do thái không bước vào cung điện của ông ta vì khi làm như vậy sẽ khiến cho họ bị ô uế theo phần nghi thức. Giăng 18.28 chép: "Kế đó, chúng điệu Đức Chúa Jêsus từ nhà Cai-phe đến trường án; bấy giờ đương sớm mai. Nhưng chính mình chúng không vào nơi trường án, cho khỏi bị ô uế, và cho được ăn lễ Vượt Qua". Có lẽ Phi-lát đã thức giấc và đã trao đổi với họ từ một hành lang rộng nhìn xuống dưới sân. Chúa Jêsus đã ăn Lễ Vượt Qua rồi vì người Do thái xứ Galilê đã đánh dấu ngày khác với người Do thái xứ Giu-đê. Đối với Toà Công Luận, đây là ngày của Lễ Vượt Qua.
Như đã nhắc rồi, Chúa Jêsus đã gánh chịu ba cuộc xét xử theo kiểu pháp đình vào buổi tối. Giờ đây vào những giờ sớm mai, Ngài sẽ nếm trải ba lần xét xử theo kiểu dân sự. Chúng ta hãy xem xét chúng từng chi tiết một.
I. Lần xét xử đầu tiên theo kiểu dân sự trước mặt Phi-lát (các câu 11-14).
A. Lời tố cáo của Toà Công Luận.
Toà Công Luận quá gấp rúc. Họ đánh thức ông ta rất sớm vì họ muốn Chúa Jêsus bị đóng đinh trên thập tự giá trước khi mặt trời lặn để họ còn ăn Lễ Vượt Qua nữa. Họ đang trông mong ông ta làm bất cứ điều chi mà họ đã nói cho ông ta biết.
Giăng 18.28-32 đề ra bối cảnh. Phi-lát "bước ra đi đến cùng chúng" giả định ở trên ban-công rồi hỏi Toà Công Luận: "Các ngươi kiện người nầy về khoản gì?" Phi-lát muốn biết lời truy tố. Trong câu 30, họ đáp: "Ví chẳng phải là tay gian ác, chúng tôi không nộp cho quan". Họ đang đòi quan Tổng đốc kết án tử hình Chúa Jêsus mà không cần nghe án tố tụng làm gì.
Phi-lát nói: "Các ngươi hãy tự bắt lấy người, và xử theo luật mình". Phi-lát không thể áp dụng mặt chính trị quấy rối Toà Công Luận trong các vụ việc tôn giáo của họ. Thực ra, ông đang nói rằng nếu họ muốn ném đá Chúa Jêsus về tội phạm thượng thì nhà cầm quyền La mã sẽ cho phép việc ấy.
Các cấp lãnh đạo Do thái không muốn điều nầy. Họ không muốn ném đá Chúa Jêsus. Họ muốn Ngài phải bị đóng đinh trên thập tự giá. Họ "e trong dân chúng sanh ra điều xào xạc chăng" (Mathiơ 26.5). Họ không muốn gánh lấy trách nhiệm về cái chết của Ngài. Thêm nữa, truyền khẩu của các rabi cấm họ không được ăn lễ Vượt Qua nếu họ ném đá Chúa Jêsus trong ngày đó. Vì vậy họ rùm lên một lời cáo lỗi rất hợp lý: "Chúng tôi chẳng có phép giết ai cả". Họ lấy luật pháp làm lợi thế cho bản thân họ.
Quan trọng hơn, câu 32 cho chúng ta biết mọi điều nầy là sự ứng nghiệm lời tiên tri của chính Chúa Jêsus: "Chúa Jêsus đã phán, để chỉ về mình phải chết cách nào". Trong một vài cơ hội, Chúa Jêsus đã nói trước rằng Ngài sẽ bị đóng đinh trên thập tự giá. Thí dụ, Ngài phán trong Mathiơ 20.18-19: "Nầy, chúng ta đi lên thành Giê-ru-sa-lem, và Con người sẽ bị bắt nộp cho các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo, bọn đó sẽ luận giết Ngài. Họ sẽ nộp Ngài cho dân ngoại hầu để nhạo báng, đánh đập, và đóng đinh trên cây thập tự; đến ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại".
Họ cần lời kết án mạnh mẽ hơn là phạm thượng trong tôn giáo. Luca 23.2 cho chúng ta biết họ đã tố cáo Ngài như thế nào, họ cáo: "Chúng tôi đã thấy người nầy xui dân ta làm loạn, cấm nộp thuế cho Sê-sa, và xưng là Đấng Christ, là Vua".
Tất nhiên các lời tố cáo nầy đều là giả dối cả. Mathiơ 27.18 chỉ ra cho chúng ta thấy Phi-lát "biết bởi lòng ghen ghét nên chúng đã nộp Ngài". Vì lẽ đó, như Giăng 18.33 mô tả, Phi-lát "bèn vào trường án, truyền đem Đức Chúa Jêsus đến…” gặp theo cách riêng?
B. Lời tuyên án của quan Tổng đốc.
Giờ đây chúng ta thấy về mặt trình tự trong phân đoạn Kinh Thánh gốc ở Mathiơ 27.11. Chính ở đây "Đức Chúa Jêsus đứng trước mặt quan Tổng đốc". Phi-lát hỏi: "Có phải ngươi là Vua của dân Giu-đa không?” Lời đáp duy nhứt của Chúa Jêsus là: "Thật như lời".
Một lần nữa, chúng ta hãy đọc từ Giăng 18.34-38, ở đây cung ứng một câu chuyện rất chi tiết về sự đối đáp. Chúa Jêsus đáp rằng Ngài đã vào trong thế gian để "làm chứng cho lẽ thật" và "hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe tiếng ta". Rõ ràng, Phi-lát đã xem lời đáp của Chúa Jêsus là phô trương về mặt tôn giáo. Ông ta đưa ra câu hỏi nổi tiếng của mình "Lẽ thật là cái gì?" không phải vì ông ta đang tìm kiếm những giải đáp đời đời mà vì ông ta đã ở trong chỗ chẳng đặng đừng. Ông ta đã lọt vào giữa một vầng đá và một chỗ khó chịu. Ông ta không muốn bị Toà Công Luận doạ dẫm, ông ta không thể lấy ưu thế về chính trị mà làm mất lòng họ.
Không phải chờ đợi Chúa Jêsus trả lời câu hỏi của mình, Phi-lát lại "đi ra đến cùng dân Giu-đa" rồi tuyên bố bản án của mình: "Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả".
Trong lúc đó, một đám dân đông dường như đã tập trung ở trước trường án. Khi các cư dân và khách hành hương thức giấc sáng hôm ấy, họ đã đổ về cuộc xét xử quan trọng được tổ chức ở trước mặt Phi-lát. Luca thuật lại cho chúng ta biết rằng khi toà công luận nghe xong bản án của Phi-lát, chúng "đồng thanh la lên" những lời cáo giác nghịch lại Chúa Jêsus, hy vọng kích động cả đám đông kia.
C. Sự im lặng của Cứu Chúa.
Có lẽ Chúa Jêsus đang đứng bị trói bên cạnh Phi-lát trên ban-công. Mathiơ 27.12 chép rằng: "Trong lúc các thầy tế lễ cả và các trưởng lão kiện Ngài, Ngài không đối đáp gì hết". Chúa Jêsus vẫn giữ im lặng. Phi-lát quay sang nói với Ngài: "Họ có nhiều điều làm chứng kiện ngươi, ngươi há không nghe đến sao?" Phi-lát vốn biết rõ các chứng kiện kia đều là giả dối hết. Ông ta biết rõ Chúa Jêsus đáng phải được tha ra. Ông ta cứ nài nỉ Chúa Jêsus đưa ra một lời biện hộ. Nhưng Chúa "không đáp lại một lời gì". Và "quan tổng đốc lấy làm lạ lắm".
Ngài sẽ nói gì chứ? Ngài đang làm ứng nghiệm Êsai 53.7, câu nầy chép: "Người bị hiếp đáp, những khi chịu sự khốn khổ chẳng hề mở miệng. Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng".
II. Lần xét xử thứ nhì theo kiểu dân sự trước mặt Hê-rốt (Luca 23.8-12).
A. Tình huống khó xử của Phi-lát.
Phi-lát bị áp lực từ mọi phía. Ông ta biết rõ Chúa Jêsus vô tội nhưng không thể tha Ngài vì cớ áp lực chính trị. Rõ ràng là người Do thái sẽ không chịu dừng lại, họ muốn Chúa Jêsus phải bị đóng đinh trên thập tự giá. Nếu Phi-lát từ chối, họ sẽ chắc gây rắc rối cho ông ta với các cấp cao hơn ông ta tại Rôma, ở đây khả năng cai trị của ông ta đã bị thắc mắc rồi.
Xứ Giu-đê là một tỉnh rất khó cai quản. Trong khoảng 4 năm nắm chức vụ, Phi-lát đã phạm phải một số quản lý tồi. Josephus ghi lại ông ta đã ra lịnh cho các đạo binh viễn chinh của mình mang các biểu ngữ với ảnh tượng của Xê-sa xuống các đường phố thành Jerusalem. Người Do thái lấy làm kinh khủng với điều mà họ xem là thờ lạy hình tượng. Phi-lát đã tiếp cận một lằn ranh nguy hiểm. Khi một đám dân đông đến gặp ông để phản kháng, ông ta đã vây họ bằng binh lính của mình rồi bảo chúng chặt đầu của những kẻ phản kháng nếu họ không chịu lui đi. Các cấp lãnh đạo Do thái ngay lập tức quì gối xuống đưa cổ để trần của họ ra, cho thấy rằng họ sẵn sàng chịu chết hơn là để cho Rôma làm ô uế thành Jerusalem. Phi-lát đã phải rút quân đi.
Ở một dịp khác, ông ta đã lấy tiền bạc từ đền thờ để xây một cống dẫn nước vào thành Jerusalem. Khi đám đông khác tập trung lại để chống đối, Phi-lát đã gửi các binh lính không mặc đồng phục đến đánh họ bằng dùi cui, gậy gộc.
Vẫn ở một dịp khác nữa, Phi-lát đã làm một số thuẩn trang trí cho đồn Antonio mang ảnh tượng của Xê-sa. Lần nầy người Do thái kêu nài trực tiếp tới Xê-sa. Ông ta ra lịnh cho Phi-lát phải đem cất hết những cái thuẩn đó.
Luca 13.1 nhắc tới một sự cố khác, trong đó có ghi "Phi-lát giết mấy người Ga-li-lê, lấy huyết trộn lộn với của lễ họ". Có lẽ họ đã bị giết ở phía ngoài đền thờ trong suốt các ngày lễ.
Phi-lát vốn biết rõ tại thời điểm nầy thêm một sơ xuất về mặt chính trị nữa thì ông ta sẽ bị hoán chuyển ra khỏi chức vụ ngay. Ông ta muốn tha cho Chúa Jêsus nhưng ông ta biết người Do thái sẽ than phiền trực tiếp với Xê-sa.
B. Lời chế giễu của Vua Hê-rốt.
Trong khi Phi-lát còn bối rối, ông ta có thể nghe thấy những lời tố giác dội lại từ phía đám dân đông. Luca 23.5 ghi lại một lời tố cáo như sau: "Người nầy xui giục dân sự, truyền giáo khắp đất Giu-đê, bắt đầu từ xứ Ga-li-lê rồi đến đây". Khi Phi-lát "nghe điều đó", thì ông ta hỏi không biết Chúa Jêsus có phải là "dân Galilê" hay không!?! Một giải pháp! Galilê là khu vực nằm trong quyền hạn của Vua Hê-rốt. Ông ta có thể để cho Hê-rốt xét xử Chúa Jêsus!
"Hê-rốt" về mặt lịch sử ai cũng biết là Hê-rốt Antipa. Ông ta là tổng đốc xứ Galilê nhưng đã đến viếng Jerusalem trong kỳ lễ. Antipa cũng là quan cai trị đã chặt đầu Giăng Báptít.
Vua Hê-rốt thấy Đức Chúa Jêsus thì "mừng lắm" vì "lâu nay vua muốn gặp Ngài". Ông ta đã "nghe nói về chuyện Ngài" và "mong xem Ngài làm phép lạ".
Rất sớm khi Chúa Jêsus phục vụ trong xứ Galilê, Luca 13.31-33 ghi lại thể nào một số người Pharisi đến, họ nói cùng Ngài: "Thầy nên bỏ chỗ nầy mà đi, vì vua Hê-rốt muốn giết thầy". Chúa Jêsus đáp: "Hãy đi nói với con chồn cáo ấy rằng: Ngày nay, ngày mai, ta đuổi quỉ chữa bịnh, đến ngày thứ ba, thì đời ta sẽ xong rồi. Nhưng ngày nay, ngày mai, và ngày kia ta phải đi, vì không có lẽ một đấng tiên tri phải chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem".
"Con chồn cáo ấy" đã hỏi Chúa Jêsus nhiều câu, nhưng Ngài "không trả lời chi hết". Khi ấy các cấp lãnh đạo của người Do thái đứng gần đó và "cáo Ngài dữ lắm".
Khi rõ ràng là Chúa Jêsus không làm cho ông ta hài lòng, Hê-rốt đã chuyển Chúa qua cho "lính hầu" của mình và họ tạo ra một trò đùa riêng bằng cách đãi Ngài "cách khinh dễ" y như họ đã "nhạo báng Ngài" và "mặc cho Ngài áo hoa hoè" trước khi họ giải Ngài trở lại với Phi-lát.
Luca kết thúc, dù Phi-lát và Hê-rốt là "thù hiềm nhau" trước đêm hôm đó, họ đã "trở nên bạn hữu" vì họ sợ người ta không tán thành và họ đã chế giễu Chúa Jêsus.
III. Lần xét xử thứ ba theo kiểu dân sự trước mặt Phi-lát (các câu 15-26).
A. Bản chất xấu xa của đám dân đông.
Phi-lát cảm thấy thất bại lắm trong lúc bây giờ. Mọi việc đã ở ngoài tầm tay. Ông ta có một ý sau cùng phải dùng tới. Chúng ta hãy đọc bài diễn văn của ông ta trong Luca 23.13-16. Mặc dù ông ta biết rõ Chúa Jêsus là vô tội, Phi-lát đã đề nghị "đánh đòn" Ngài bằng đòn vọt khủng khiếp của người La mã rồi bởi việc đánh đòn ấy mà cứu lấy mạng sống của Ngài.
Khi đó ông ta sẽ sử dụng một thông lệ để tha hẳn Chúa Jêsus ra. Mathiơ 27.15 chép: "Phàm đến ngày lễ Vượt qua, quan tổng đốc thường có lệ tha một tên tù tùy ý dân muốn". Họ chẳng chọn lựa gì được từ hết thảy các tù phạm, mà chỉ người nào được ông ta lựa chọn mà thôi. Lần nầy, ông ta đưa ra cho họ chỉ có hai sự lựa chọn: "Ba-ra-ba hay là Jêsus gọi là Christ?”
Phi-lát vốn biết rõ Chúa Jêsus rất được lòng dân. Họ đã tiếp nghinh Ngài giống như một vì vua chỉ mới mấy ngày trước đây thôi. Ông ta dám chắc như thế nếu đưa ra sự chọn lựa, họ sẽ chọn lấy vị giáo sư lỗi lạc là Chúa Jêsus thay vì một kẻ giết người mổ họng như Baraba (Luca 23.25; Giăng 18.40). Vì vậy ông ta nêu như sau: "Các ngươi muốn ta tha người nào, Ba-ra-ba hay là Jêsus gọi là Christ?"
Ngay thời điểm ấy, ông ta đã nhận được một bức thư từ vợ của mình. Bức thư ấy nói như sau: "Đừng làm gì đến người công bình đó; vì hôm nay tôi đã bởi cớ người mà đau đớn nhiều trong chiêm bao". Âm thanh nầy vang dội giống như một tiếng chuông báo động ở trong não bộ của Phi-lát. Đức Chúa Trời đã sắp đặt thật khôn ngoan cả chiêm bao lẫn thời điểm của sứ điệp để cung ứng cho Phi-lát một lời cảnh cáo sau cùng.
Toà Công Luận đã nắm bắt được sự bối rối nầy rồi liên kết với đám dân đông thích ứng với chủ trương của họ. Câu 20 chép họ: "Song các thầy tế lễ cả và các trưởng lão dỗ chúng hãy xin tha Ba-ra-ba và giết Đức Chúa Jêsus". Họ đã sử dụng ảnh hưởng và quyền lực để thao túng đám dân đông.
Khi Phi-lát đưa ra thắc mắc nầy lần thứ hai, đám dân đông hô to: “Baraba”. Khi ông ta yêu cầu họ cho biết ông ta phải làm gì với Chúa Jêsus, họ hô lớn tiếng: "Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự".
B. Sự đê tiện của quan Tổng đốc.
Phi-lát vốn biết rõ mình "không thắng nổi chi hết" và có một "sự ồn ào” hay dộn dực rộ lên. Theo nghi thức, ông ta cho lấy một chậu nước rồi rửa tay mình trên đó, làm tượng trưng cho lời lẽ của ông ta "Ta không có tội về huyết của người nầy; điều đó mặc kệ các ngươi". Vì cớ ông ta rửa tay rồi công bố tình trạng vô tội của mình không làm cho Phi-lát ra vô tội được. Ông ta đã chọn thủ đoạn chính trị cao hơn lẽ công bình.
Dân chúng thì kêu la: "Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi". Thú vị thay, cũng chính đoàn dân ấy về sau đã nói trong sách Công Vụ các Sứ Đồ 5.28: "…song các ngươi lại làm cho thành Giê-ru-sa-lem đầy dẫy đạo giáo mình. Vậy, các ngươi muốn khiến máu người ấy đổ lại trên chúng ta sao!!"
Phi-lát dường như đã suy nghĩ rằng một tai vạ sẽ làm thoả mãn ao ước của đoàn dân đông vì đã làm đổ máu và có lẽ cứu được mạng sống của Chúa Jêsus. Đó là lý do tại sao ông ta đã ra lịnh đánh đòn lúc bây giờ. Khi ấy trận đòn kinh khiếp đã được thực thi. Lúc mấy tên lính đội một "chiếc mão gai" trên đầu Ngài và một chiếc áo "màu điều" ở trên lưng Ngài, Phi-lát giao Ngài qua cho đám dân đông rồi nói: "Kìa, xem người nầy!" Dân chúng vẫn còn kêu la: "Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự, hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự!" (Giăng 19.1-6).
Giăng 19.7-16 chi tiết hoá lần trao đổi sau cùng trước khi Phi-lát "giao Ngài cho chúng đặng đóng đinh trên thập tự giá". Ồ, đúng là một Đấng Cứu Thế!
***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét