Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010

Rôma 1:1-17: "Nhìn Vào Quyển Sách"



NHÌN VÀO QUYỂN SÁCH (Rôma 1.1-17)
Phần giới thiệu
“Chẳng có lời nào cho biết điều gì sẽ xảy ra khi người ta bắt đầu nghiên cứu thư tín Rôma” [F. F. Bruce, The Epistle of Paul to the Romans (Grand Rapids. Wm. B. Eerdmans, 1963), p. 60] học giả nổi tiếng F. F. Bruce nói trong phần giới thiệu cách ông chú giải sách Rôma. Cắhc chắn chúng ta phải đồng ý với điều mà Ông Bruce đã nói khi chúng ta dành một phút để say gẫm đến cái chạm mà sách nầy đã có trên người ta trong quá khứ.
Augustine đã ngồi khóc trong vườn của bạn ông là Alypius, khi mong muốn khởi sự một đời mới trong nổi thất vọng, trong lúc ngần ngại chưa phá vỡ được đời sống cũ. Vị giáo sư rất hùng biện nầy ở Milan trong hai năm, được khích lệ bởi lời lẽ được một đứa trẻ hàng xóm hát lên, đã cầm lấy cuộn giấy đặt ở bên hông bạn mình rồi bắt đầu đọc những lời nầy:
“Chớ nộp mình vào sự quá độ và say sưa, buông tuồng và bậy bạ, rầy rà và ghen ghét, nhưng hãy mặc lấy Đức Chúa Jêsus Christ, chớ chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó” (Rôma 13.13b-14).
Ông nói cho chúng ta biết: “Tôi không đọc thêm nữa, tôi cũng chẳng có nhu cần nào khác; ngay khi đó, ở phần cuối của câu nầy, một tia sáng tràn ngập tấm lòng của tôi và mọi bóng tối tăm nghi ngờ đều tan biết hết” [Augustine, Confessions, viii. 29, as quoted by Bruce, p. 58].
Tu sĩ dòng Augustine và Giáo sư Thần học viện Đại học đường Wittenberg, Martin Luther, đã khởi sự trình bày chi tiết thư tín quan trọng nầy cho các học trò của mình.
Ông viết: “Tôi ao ước muốn hiểu rõ thư tín Rôma của Phaolô, chẳng có gì ngăn trở trên tiến trình đó trừ một câu nói: ‘sự công bình của Đức Chúa Trời’ … Tôi đã suy gẫm ngày và đêm cho đến chừng … tôi đã nắm bắt lẽ thật cho rằng sự công bình của Đức Chúa Trời là sự công bình mà bởi đó, nhờ ân điển và lòng thương xót, Ngài xưng công bình chúng ta bởi đức tin. Khi ấy tôi cảm thấy mình đã được lại sanh và đã bước qua nhiều cánh cổng rộng mở mà vào trong thiên đàng. Cả Kinh Thánh đã khoác lấy một ý nghĩa mới, trước khi ‘sự công bình của Đức Chúa Trời’ đầy dẫy tôi thì chỉ có thù hận, giờ đây nó trở nên ngọt ngào cho tôi với tình yêu thương thật cao tột, không giải thích được. Phân đoạn nầy của Phaolô đối với tôi đã trở thành một cánh cổng để bước vào thiên đàng” [Luther’s Works, Weimar Edition, Vol. 54, pp. 179ff., quoted by Bruce, p. 59].
Theo một cách gián tiếp nào đó, sách Rôma là điểm xoay chiều cho John Wesley.
Vào buổi tối ngày 24 tháng 5 năm 1738, John Wesley ‘không hài lòng khi bước vào một cộng đồng ở đường Aldersgate, ở đó có người đang đọc Lời tựa của Luther viết cho Thư tín Rôma. Khoảng 8 giờ 45’ ông viết trong tờ báo của mình, ‘trong khi ông ấy đang mô tả sự thay đổi mà Đức Chúa Trời đang hành động trong tấm lòng nhơn đức tin nơi Đấng Christ, tôi cảm thấy lòng mình như ấm hẳn lên cách lạ lùng. Tôi cảm thấy tôi đã tin cậy nơi Đấng Christ, chỉ một mình Đấng Christ mà thôi, để được cứu; và một sự bảo đảm đã được ban cho tôi chắc chắn Ngài đã cất bỏ mọi tội lỗi của tôi, đúng là tội lỗi của tôi; rồi cứu tôi ra khỏi luật pháp của sự tội và sự chết’ [4 Bruce, p. 59].
E rằng mọi “sự biến đổi” nầy dường đến từ lâu lắm rồi, cho phép tôi chia sẻ với bạn câu chuyện nói tới một thanh niên đã viếng thăm Believers Chapel ở giữa loạt bài học về sách Rôma. Ở phần cuối bài học, người ngồi kế thanh niên nầy bắt đầu một cuộc trao đổi cụ thể, người ấy hỏi: “Hãy nói cho tôi biết anh là Cơ đốc nhân bao lâu rồi?” Thanh niên kia đáp liền câu hỏi ấy: “Chừng năm phút thôi”.
Nếu tôi bắt đầu loạt bài học về ‘sự thương khó’ với sự kính sợ và ‘run rẩy, sợ hãi’, tôi bắt đầu bài học nầy trong sách Rôma với sự átn thưởng và sốt sắng, rất ngạc nhiên về những việc lớn mà Đức Chúa Trời sẽ làm trong mỗi đời sống của chúng ta khi quyển sách nầy trở nên một phần hiểu biết và kinh nghiệm của chúng ta.
Tiếp cận sách Rôma
Thật là khó nắm bắt được tầm quan trọng của sách Rôma.
Coleridge đề cập tới sách Rôma như sau: “Kiệt tác quan trọng nhất đã được hình thành”. Luther nói như sau: “Quyển sách chính yếu của Tân Ước. … Nó đáng được từng Cơ đốc nhân nhận vào lòng, từng lời một”. Theo C. A. Fox: “Chrysostom thường đọc sách ấy hai lần mỗi tuần với phần kỷ luật của riêng ông. … Tóm tắt đầy đủ nhất của mọi lẽ thật cơ bản thiêng liêng” [Quoted by J. Sidlow Baxter, Explore the Book (Grand Rapids. Zondervan, 1960), Vol. 6, p. 66].
Nếu Rôma là sách quan trọng nhất trong Tân Ước, chúng ta sẽ chứng minh một loạt 17 bài học trong phần nghiên cứu nầy như thế nào đây? Tôi tin rằng mỗi Cơ đốc nhân sẽ nhìn biết phần bàn bạc của thư tín nầy giống như mu bàn tay của mình. Nếu bạn muốn hiểu rõ bất cứ sách nào trong Kinh Thánh, bạn phải suy gẫm từng chương một. Mặc dù phần ngihên cứu sách Rôma sẽ kéo dài, nó giúp cho bạn nhìn thấy nhiều chi tiết rất phong phú của quyển sách, giúp cho bạn nắm bắt được phần bàn bạc của vị Sứ đồ. Cho nên, chương trình của chúng ta là chiếu theo tiến trình bàn bạc của Phaolô suốt cả thư tín, với hy vọngtạo được cái khung cho phần nghiên cứu trong tương lai, bạn sẽ tiếp tục tìm tòi chiều sâu của phần trình bày quan trọng nầy về Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ .
Phần giới thiệu của Phaolô về Thư tín nầy(1.1-17)
Sâu xa như chúng ta biết, Phaolô chưa hề đặt chân tới Rôma cho tới khi bức thư nầy đã được viết ra. Nếu đây là trường hợp, một lời giới thiệu chắc chắn là cần thiết cho người ta tiếp nhận bức thư nầy như nó vốn có, ấy là Lời của Đức Chúa Trời. Trong 7 câu đầu tiên, Phaolô đã mô tả mối quan hệ củ aông với Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ, trong khi ở các câu 8-15, ông theo đuổi mối quan hệ của ông với người thành Rôma, là những kẻ mà ông viết thư gửi cho họ. Ở các câu 16-17, Phaolô đã giới thiệu lẽ đạo của thư tín, Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ, sự khải thị về sự công bình của Đức Chúa Trời.
Mối quan hệ của Phaolô với Tin Lành (các câu 1-7)
Câu chuyện nói tới sự trở lại đạo của Sau-lơ đã được tỏ ra qua đó, Phaolô không phải là sứ đồ của Đức Chúa Jêsus Christ theo ý riêng của ông. Thay vì thế, ông là sứ đồ do sự chỉ định thiêng liêng. Ông đã được ‘gọi’ (câu 1) và được ‘để riêng ra’ (câu 1). Như ông đã viết trong Galati 1, ông đã được để riêng ra từ lúc còn trong lòng mẹ (1.15).
Tin lành mà Phaolô rao giảng không phải là việc do ông tạo ra đâu. Đây là sứ điệp nằm trong phần ứng nghiệm mọi sự mà các vị tiên tri thời Cựu Ước đã hứa (câu 2). Cho nên, tin lành ấy nhất quán với mọi sự mà Do thái giáo thực sự tin tưởng và tán đồng. Đây không phải là sự khải thị điều chi mới hoàn toàn và bất ngờ đâu, mà là sự nhìn biết những điều đã được hứa cho.
Đối tượng của Tin Lành là Thân Vị Đức Chúa Jêsus Christ, Ngài đã đến trong vai trò Con của Đức Chúa Trời, là Đấng Mêsi của Israel, và là Đấng gánh lấy tội lỗi của cả thế gian (các câu 3-4). Minh chứng không thể chối cãi được về thẩm quyền của Ngài là sự sống lại của Ngài ra khỏi kẻ chết. Sự sống lại không phải là một sự thêm thắt tình cờ và không cần thiết vào Tin Lành, như một số người dị nghị đâu; đây là vầng đá tảng. Chúa Jêsus chúng ta đã buộc toàn bộ chức vụ và dang tiếng của Ngài vào biến cố nầy, như kẻ thù của Ngài cũng biết rất rõ (đối chiếu Matthew 27.62-66).
Phạm vi Tin Lành mà Phaolô rao giảng rất phổ quát (các câu 5-7). Người Do thái muốn giữ Tin Lành ở cái góc nhỏ của họ trong thế gian. Họ mong muốn biến nó thành sở hữu riêng của người Do thái. Nếu họ không thành công khi thực hiện điều nầy, ít nhất họ đinh ninh rằng muốn được cứu người ta phải cải thành người Do thái mà theo Do thái giáo (đối chiếu Galati, Công vụ Các Sứ đồ 15…). Sự kêu gọi chính của Phaolô là rao giảng Tin Lành nói tới Đức Chúa Jêsus Christ cho các dân Ngoại (câu 5). Mối quan tâm của Phaolô khi muốn đem sự cứu rỗi đến cho các dân Ngoại giải thích việc ông viết thư tín cho các thánh đồ thành Rôma.
Mối quan hệ của Phaolô với người thành Rôma (các câu 8-15)
Khi Phaolô chưa đến viếng qua thành Rôma, thật là cần thiết cho ông phải lót đường cho thư tín nầy bằng cách mở rộng mối quan hệ của ông với các độc giả. Mặc dù ông chưa đặt chân đến thành Rôma, ông đã có mối quan tâm và sở thích sâu sắc và an định trong lãnh vực thuộc linh của thành Rôma nầy.
Mối quan tâm của Phaolô dành cho thành Rôma đã được biểu lộ ra qua đời sống cầu nguyện của ông (các câu 8-10). Phaolô rất vui mừng vởi sự thực đức tin của người thành Rôma đã được truyền đi khắp thế giới. Mặc dù ông chưa biết nhiều về họ theo cách riêng, ông không quen biết họ, ngay cả tên tuổi, mà đã cầu thay không thôi cho sự tấn tới của họ, và cho đặc ân đến thăm viếng họ.
Mối quan tâm của Phaolô dành cho người thành Rôma rất rõ nét trong sự ông ao ước được đến với họ (các câu 11-12). Như Phaolô đã viết ở chỗ khác, có thể ông không có mặt theo phần xác, nhưng về phần thuộc linh thì không như vậy đâu (I Têsalônica 2.17). Là một vị Mục sư Tin Lành, Phaolô rất mong muốn đến với thành Rôma và trở nên công cụ trong sự cứu rỗi của một số người. Thêm nữa, ông muốn khích lệ và gây dựng các thánh đồ. Ở đây không có ý nói rằng chuyến thăm viếng của Phaolô sẽ là một chiều và đổi lại ông sẽ không được phước, vì họ cũng sẽ khích lệ ông rất nhiều.
Tại sao, khi đó Phaolô chưa đến viếng qua thành phố nầy? Không phải vì ông không muốn đi, và không phải vì ông không nổ lực đến thăm các thánh đồ nầy. Lý do duy nhứt rất sâu xa, ấy là Đức Chúa Trời đã ngăn trở ông không thực hiện được ý định của mình (các câu 13-15). Như chúng ta biết từ những biến cố sau cùng trong cuộc đời của Phaolô, Đức Chúa Trời đã dự trù cho Phaolô đến viếng thành Rôma, nhưng bằng một phương thức mà chúng ta không hề trông đợi. Ông đến tại Rôma với mọi chi phí được trả như một khách mời của đế quốc La mã.
Lẽ đạo trong thư tín của Phaolô (các câu 16-17)
Nếu trong các câu 1-15, Phaolô tự giới thiệu với người thànhRôma, ở các câu 16-17 ông đã tí¬I thiệu lẽ đạo của thư tín nầy. Chúng ta phải tóm tắt lẽ đạo nầy theo mẫu mực như sau: — Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ: sự công bình của Đức Chúa Trời đã được tỏ ra.
Ở câu 15, Phaolô tỏ ra thái độ sốt sắng muốn rao giảng Tin Lành — một sự sốt sắng thường hay thiếu vắng ở các Cơ đốc nhân ngày nay. Điều chi đã tạo thành con dấu của vị sứ đồ? Đâu là sức thúc đẩy ở đàng sau sự Phaolô mong muốn rao truyền Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ? Phaolô đã trình bày rồi một lý do, ấy là ông đã được Đức Chúa Trời kêu gọi vào phần việc nầy (câu 1). Nhưng thêm vào với sự nầy, đã có hai lý do đã được đưa ra trong các câu 16 và 17, những lý do đó sẽ tác động bất kỳ một Cơ đốc nhân nào muốn chia sẻ Tin Lành với tha nhân.
(1) Tin lành là sự khải thị cho con người biết về sự tiếp trợ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời (câu 16). Trong câu 16, Phaolô viết: “Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc”. Chúng ta buộc phải rao giảng Tin Lành cho người ta chỉ vì đây là phương tiện bởi đó người ta đạt tới sự hiểu biết về sự cứu rỗi. Về sau trong thư tín nầy, Phaolô viết: “Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?” (Rôma 10.14). Phương thức duy nhứt con người có thể đạt tới sự cứu rỗi là do nghe Tin Lành được rao giảng. Thêm nữa, bản thân Tin Lành có quyền phép để cứu rỗi. Ấy chẳng phải sức thuyết phục của chúng ta cứu rỗi con người đâu; chính Tin Lành có quyền phép ấy. Rao giảng Tin Lành giống như thả con sư tử ra khỏi chuồng vậy. Khi sư tử được thả ra khỏi chuồng, nó chẳng cần sự trợ giúp từ chúng ta nữa. Chúng ta là Cơ đốc nhân không được kêu gọi để bảo vệ Tin Lành nhiều cho bằng chúng ta cần phải rao giảng Tin lành ấy. Khi Tin Lành được rao ra, nó sẽ tự bảo trọng mình.
(2) Tin lành là sự khải thị cho con người biết về sự công bình của Đức Chúa Trời (câu 17). Mỗi nhà truyền đạo đều mau chóng nhìn nhận rằng sự rao giảng Tin Lành là yếu tố cần thiết cho sự cứu rỗi con người, nhưng có ít người hiểu được rằng sự rao giảng Tin lành cũng là cách trình bày sự công bình của Đức Chúa Trời. Tin lành tuyên bố con người phải là hạng tội nhân đang ở dưới sự thạnh nộ và sự xét đoán của một Đức Chúa Trời công bình và thánh khiết. Mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời không phải để cứu loài người giống như tin lành đang chứng tỏ và công bố ra sự công bình của Ngài, không những cho loài người, mà còn cho các đạo binh thiên sứ xem thấy nữa (đối chiếu Êphêsô 3.8-10). Nếu sự rao giảng Tin lành công bố ra sự công bình của Đức Chúa Trời cho loài người, mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời trong thế gian phải được nhìn biết. Vì thế, chúng ta có thể rao giảng Tin lành với lòng tin cậy, nhìn biết trước hết: ấy là bản thân Tin Lành có quyền phép để cứu loài người, và chẳng phải bản thân chúng ta; thứ hai, Đức Chúa Trời được vinh hiển trong sự rao giảng của chúng ta thậm chí khi con người từ chối sứ điệp của chúng ta.
Có hai phần ứng dụng rất quan trọng cho những gì Phaolô đã viết ra ở các câu 16 và 17. Thứ nhứt, ấy là bất cứ khi nào chúng ta vặn cong Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta cũng thu nhỏ lại sự công bình của Đức Chúa Trời như đã được tỏ ra trong Tin Lành. Âm điệu của Tin Lành ngày hôm naychẳng giống gì với âm điệu đã được tỏ ra trong Kinh Thánh. ‘Tin Lành’ hiện đại chỉ ra Đức Chúa Trời nưh đang sống cô độc và có cần tình bạn của chúng ta hơn là giận dữ bởi tội lỗi của chúng ta. Con người không được giới thiệu là một kẻ loạn nghịch đang ở dưới sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời và đã được định cho hình khổ đời đời, nhưng thay vì thế họ là kẻ có thể sử dụng một ít trợ giúp khiến cho cuộc sống họ được đầy dẫy và thoả mãn hơn. Vơi loại tin lành nầy, chúng ta đang nói xấu sự công bình của Đức Chúa Trời, thay vì lo công bố ra sự công bình ấy.
Hàm ý thứ hai tôi muốn vạch ra từ những gì Phaolô đã nói, ấy là thất bại không lo chia sẻ Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ với loài người không những cầm giữ lại không cho họ biết phương thức cứu rỗi duy nhứt, mà còn cầm giữ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời phù hợp với danh của Ngài qua sự rao giảng Tin Lành của Ngài. Khi chúng ta giữ im lặng với Tin Lành, chúng ta đang cướp đi khỏi con người cơ hội để nghe được ơn tiếp trợ của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi, và chúng ta đang cướp đi khỏi Đức Chúa Trời sự vinh hiển xứng đáng với danh của Ngài qua công tác rao giảng Tin Lành.
Bàn luận về sách Rôma
Chúng ta được dạy cho biết rằng một vị giáo sư giỏi bắt đầu bằng cách nói cho bạn biết những gì ông ấy sẽ nói, thế rồi ông ấy nói cho bạn biết, và sau cùng ông ấy ôn lại bằng cách lặp đi lặp lại những gì ông ấy đã nói ra. Trước khi chúng ta bắt đầu phân tích các chi tiết khác nhau của sách Rôma, tôi muốn xem trước quyển sách với một nhận định về sự bàn luận của cả sách. Nếu có thể được, tin hay không tin, thì phải tóm tắt sứ điệp của sách Rôma bằng năm từ: Condemnation [sự xét đoán] (các chương 1-3a), Justification [sự xưng công bình] (các chương 3b-5), Sanctification [sự nên thánh] (các chương 6-8), Dispensation [chế độ tôn giáo] (các chương 9-11), Application [phần ứng dụng] (các chương 12-16).
Sự xét đoán (1.18–3.20)
Có người nói rằng thật khó tiếp nhận một người hư mất hơn là giúp cho người được cứu rỗi. Có một lượng sự thật nhất định ở trong câu nói đó, và nó giúp chúng ta nắm bắt lý do tại sao vị sứ đồ bắt đầu quyển sách với một ân điệu tiêu cực như thế. Con người được đưa tới chỗ nhận biết rằng mình hoàn toàn bị hư mất và bị định phải chịu xét đoán đời đời thích ứng với tội lỗi của mình. Sự ‘công bình’ mà con người dâng cho Đức Chúa Trời là việc làm của chính hai bàn tay người đối với Đức Chúa Trời là không thể chấp nhận được. Dù đây là người theo tà giáo ở trong rừng rậm châu Phi hay thầy tế lễ ngụy biện Do thái, họ đang phấn đấu để giữ Luật pháp của Cựu Ước, mỗi người đều đang ở trong sự loạn nghịch chống lại Đức Chúa Trời, và đang chứng tỏ sự loạn nghịch của mình bằng cách chối bỏ sự khải thị mà Đức Chúa Trời đã ban cho con người về chính mình Ngài.
Người theo tà giáo, đã chối bỏ sự khải thị về quyền phép và bản chất thiêng liêng của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo. Thay vì thờ lạy Đấng Tạo Hoá, con người đã chọn thờ lạy loài thọ tạo. Không những người nầy đã vặn cong sự khải thị của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo, người cũng làm đồi bại và làm sai lệch cách sử dụng sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Mọi điều nầy là bằng chứng rõ ràng xưng công bình sự xét đoán của Đức Chúa Trời (Rôma 1.18-32).
Hạng tội nhân đã được khai sáng cũng ở dưới cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Họ mau mắn xét đoán người khác, họ không sống theo những tiêu chuẩn mà họ đang nắm giữ về cách xử sự của những kẻ họ đang xét đoán. Tệ hại hơn hết là người Do thái tự xưng công bình, bản thân họ kiêu ngạo vì cơ nghiệp luật pháp của họ, tuy nhiên họ thất bại không sống theo mọi đòi hỏi của luật pháp ấy (Rôma 2).
Phần kết luận của Phaolô đã được tóm tắt lại trong chương 3: “như có chép rằng: Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không. … vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rôma 3.10, 20).
Sự xưng công bình (3.21–5.21)
Nếu sự công bình của con người chỉ góp phần vào sự xét đoán người ở trước mặt Đức Chúa Trời, sự công bình của Đức Chúa Trời trong thân vị của Đức Chúa Jêsus Christ cứu loài người ra khỏi sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Những gì con người không thể làm để được đẹp lòng Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đã tiếp trợ trong Đức Chúa Jêsus Christ. Ngài làm thoả mãn mọi đòi hỏi của Luật pháp. Ngài gánh lấy án phạt vì tội lỗi của con người. Ngài tiếp trợ một sự công bình đáng chấp nhận đối với Đức Chúa Trời: “Nhưng hiện bây giờ, sự công bình của Đức Chúa Trời, mà luật pháp và các đấng tiên tri đều làm chứng cho, đã bày tỏ ra ngoài luật pháp, tức là sự công bình của Đức Chúa Trời, bởi sự tin đến Đức Chúa Jêsus Christ” (Rôma 3.21, 22a).
Nguyên tắc của ‘sự xưng công bình bởi đức tin’ đã được Phaolô diễn giải ở trong chương thứ ba không phải là không phù hợp với sự dạy của Cựu Ước. Để chứng tỏ điều nầy, Phaolô, trong chương thứ tư, đã sử dụng trường hợp của Ápraham để minh chứng rằng những người theo chế độ tôn giáo xa xưa đều được cứu, không phải căn cứ trên cơ sở những việc làm, mà căn cứ trên cơ sở đức tin. Sự xưng công bình bởi đức tin không những bền chặt với quá khứ, mà nó còn bền chặt với tương lai nữa. Ở chương 5, Phaolô luận rằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời đang tìm cách cứu chúng ta trong khi chúng ta vẫn còn là thù nghịch của Ngài bảo đảm cho chúng ta về sự chắc chắn của ơn cứu rỗi chúng ta, giờ đây chúng ta là con cái của Ngài.
Sự nên thánh (6.1–8.39)
Lẽ đạo về sự xưng công bình nói rằng chúng ta đã được cứu ra khỏi án phạt của tội lỗi chúng ta. Lẽ đạo nói tới sự nên thánh đi xa hơn trong việc bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta cũng được cứu ra khỏi quyền lực bản chất tội lỗi của chúng ta. Điều nầy có ý nói rằng không những Đức Chúa Trời đã tiếp trợ một phương giải cứu đối với những tội lỗi trong quá khứ, mà Ngài còn giúp cho sống một đời sống đẹp lòng Ngài, qua quyền phép của Đức Thánh Linh nữa.
Ở chương 6, Phaolô thúc giục Cơ đốc nhân phải sống một đời sống tin kính trên cơ sở địa vị của người trong Đấng Christ. Từ khi chúng ta đã chết đối với tội lỗi trong Đức Chúa Jêsus Christ, chúng ta không còn sống trong tội lỗi nữa. Khi chúng ta được dựng nên mới trong Đấng Christ, chúng ta sẽ sống công bình trước mặt loài người và trước mặt Đức Chúa Trời.
Chương 7 trình bày hình thái ‘bay’ như thật. Mặc dù chúng ta biết chúng ta phải sống sao cho công bình, chúng ta không sống như thế được. Những gì chúng ta biết mình phải làm, chúng ta lại không làm. Những gì chúng ta muốn tránh, những việc ấy không cứ cách nào đó chúng ta lại làm theo. Vấn đề, ấy là xác thịt thì yếu đuối và chẳng có khả năng tạo ra sự công bình. Xác thịt là đối tượng cho quyền lực mạnh mẽ hơn của tội lỗi, nó vẫn còn ở trong Cơ đốc nhân. Muốn sống một đời sống làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, cần phải có một nguồn lực mới.
Nguồn lực ấy chẳng vốn có trong con người. Giống như một người nam hay một người nữ chẳng thể làm chi để kiếm được ơn cứu rỗi cho mình, vì thế họ không thể tạo ra sự công bình trong đời sống của họ, ngay cả Cơ đốc nhân cũng vậy. Giải pháp cho tình trạng chẳng đặng đừng nầy là sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời trong thân vị của Đức Thánh Linh. Đức Chúa Trời đã tiếp trợ Đức Thánh Linh để tạo ra trong đời sống của Cơ đốc nhân sự công bình thực tế.
“Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ; vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết. Vì điều chi luật pháp không làm nổi, tại xác thịt làm cho luật pháp ra yếu đuối, thì Đức Chúa Trời đã làm rồi: Ngài đã vì cớ tội lỗi sai chính Con mình lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi chúng ta, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt, hầu cho sự công bình mà luật pháp buộc phải làm được trọn trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh” (Rôma 8.1-4).
Chế độ tôn giáo (9.1–11.36)
Tin Lành nầy về Đức Chúa Jêsus Christ thực sự rất tuyệt vời, nhưng Tin Lành ấy quan hệ với Cựu Ước, với người Do thái, với mọi lời tiên tri về Israel chưa được ứng nghiệm như thế nào? Có phải Đức Chúa Trời đã lui lại đối với Israel chăng? Câu trả lời cho các thắc mắc nầy được thấy có ở các chương 9-11.
Ở chương 9, Phaolô bắt đầu trả lời cho thắc mắc từ nhận định thiêng liêng. Đức Chúa Trời luôn vận hành bởi nguyên tắc lựa chọn. Lý do tại sao nhiều người Do thái không xây đức tin họ theo Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng Mêsi là vì Đức Chúa Trời đã không chọn họ. Họ đã tin theo sự thực họ là dòng dõi theo phần xác của Ápraham, nhưng lịch sử của qốuc gia cho thấy rằng điều nầy không bao giờ là cơ sở cho sự chọn lựa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chọn một dân sót, rất ít, rồi với số dân sót nầy Ngài sẽ làm ứng nghiệm mọi lời hứa của Ngài.
Trong khi Đức Chúa Trời không chọn hết thảy người Do thái để được cứu, những người Do thái vô tín nầy cũng không được chọn để tin theo Đấng là Đấng Mêsi của họ. Họ tìm cách thiết lập sự công bình riêng của họ trước mặt Đức Chúa Trời thay vì tiếp nhận sự công bình mà Đức Chúa Trời đã chu cấp cho trong Đức Chúa Jêsus Christ (Rôma 10.3, 4). Trong khi chương 9 cho thấy rằng chỉ có những ai được chọn mới có lòng tin theo, chương 10 bảo đảm với chúng ta rằng hết thảy những ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu (câu 13).
Trong khi chương 9 nhìn xem nan đề chối bỏ của Israel từ quan điểm chọn lựa và chương 10 từ quan điểm chối bỏ của con người, chương 11 vạch ra toàn bộ sự việc nhấn mạnh mục đích của Đức Chúa Trời trong sự chối bỏ của Israel. Đức Chúa Trời đã dự trù rằng người Do thái sẽ chối bỏ Đấng Mêsi để cứu nhiều dân Ngoại. Nhưng sự cứu của dân Ngoại đổi lại sẽ kích thích người Do thái phải ganh tỵ, nó sẽ khiến họ quay trở lại với Đấng Mêsi của họ. Đức Chúa Trời sẽ không làm gì với dân Israel, nhưng trong những ngày hầu đến Ngài sẽ phục hồi họ theo địa vị trước kia và sẽ làm ứng nghiệm hết thảy những lời hứa mà Ngài đã lập với họ qua các vị tiên tris. Sự chối bỏ của người Do thái đã dẫn tới sự chấp nhận các dân Ngoại; và sự chấp nhận các dân Ngoại trong sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời sẽ xây người Do thái quay về với Đấng Mêsi của họ. Đức Chúa Trời đang hiệp mọi sự lại vì ích cho chúng ta và vì sự vinh hiển của Ngài!
Phần ứng dụng (12.1–16.27)
Nền tảng thần học đã được đề ra. Giờ đây vị sứ đồ chuyển sang phần thể hiện thực tế sự công bình trong đời sống của Cơ đốc nhân. Phản ứng cụ thể của Cơ đốc nhân đối với ân điển của Đức Chúa Trời sẽ là sự dâng mình cho Đức Chúa Trời làm của lễ sống. Hành động hợp lẽ duy nhứt trong sự thờ phượng, ấy là hành động bắt đầu với sự hy sinh bản ngã trong sự hầu việc tin kính đối với Đức Chúa Trời. Khi mỗi Cơ đốc nhân có khả năng khác nhau trong sự phục vụ phù hợp với các ân tứ thuộc linh khác nhau, Cơ đốc nhân trước tiên phải luyện tập tâm trí đã được đổi mới của mình vào sự suy gẫm về các khả năng cho sự phục vụ mà Đức Chúa Trời đã ban cho và kế đó hãy dâng chính mình vào các chức vụ ấy.
Khi dâng mình và phục vụ trong các lãnh vực ân tứ của chúng ta, hơn thế nữa chúng ta còn có nhiều trách nhiệm đối với thân thể của Chúa chúng ta. Chúng ta được khuyên phải yêu nhau, phải vui với kẻ vui và phải khóc với kẻ khóc (Rôma 12.15). Không những chúng ta có trách nhiệm với ‘nhau’ chúng ta còn có bổn phận với những kẻ nào là thù nghịch của chúng ta nữa. Đồi với hạng người nầy chúng ta buộc phải tránh không trả đủa mà phải làm lành với những kẻ nào chống nghịch chúng ta (Rôma 12.17-21).
Bổn phận của chúng ta là điều mà tôi đang nhìn thấy trong vòng vây của trách nhiệm. Bổn phận chính của chúng ta là đối với Đức Chúa Trời, trong sự dâng mình và thờ phượng. Cần phải luyện tập các ân tứ, phục vụ anh em, thậm chí phải tử tế với kẻ thấp hèn và kẻ thù nghịch của chúng ta. Trên cả mọi sự nầy còn có bầu không khí trách nhiệm chúng ta đang có với xã hội và thể chế của loài người nữa. Chúng ta buộc phải tỏ ra sự đầu phục đối với Đức Chúa Trời qua cách sống vâng phục đối với nhà cầm quyền mà Đức Chúa Trời đã ấn định. Thâm nữa, đối với các bổn phận về luật pháp, sự vâng phục các luật lệ trong xứ, nộp các khoản thuế, chúng ta có các bổn phận về đạo đức nữa. Ngay cả khi nhà nước có hợp pháp hoá tình trạng phi đạo đức đi nữa, bổ phận của Cơ đốc nhân là phải lẫn tránh mọi điều ác của sự say sưa, tà dâm và nhục dục (Rôma 13.8-14).
Sự công bình của Đức Chúa Trời cần phải được thể hiện ra trong đời sống của các thánh đồ thuộc hết thảy các lãnh vực nầy đã được nhắc tới ở trên, trong sự phục vụ cá nhân với Đức Chúa Trời, trong phần luyện tập các ân tứ thuộc linh của chúng ta, trong sự phục vụ nhau, trong sự tử tế với mọi người, trong sự vâng phục với nhà nước và trong sự tuân giữ luật đạo đức. Thêm vào với các trách nhiệm ‘hiển nhiên’ nầy, Cơ đốc nhân là phải chứng tỏ sự công bình trong những gì được gọi là lãnh vực “xám” của cuộc sống — nghĩa là trong các lãnh vực hay tranh cãi giữa các Cơ đốc nhân. Thí dụ, một Cơ đốc nhân phải đáp ứng thể nào với anh em khác, là kẻ cảm thấy ăn thịt nhiều là sai, hay đối với người nào cảm thấy uống rượu là sai? Chúng ta phải quan hệ thế nào với một tín hữu có sức thuyết phục mạnh mẽ, là những điều chúng ta nghĩ là chẳng có cơ sở theo Kinh Thánh? Câu trả lời của Phaolô trong chương 14 và sáu câu đầu của chương 15 cho thấy chúng ta phải tiếp nhận ‘anh em yếu đuối hơn’ và đối xử với họ theo một phương thức gây dựng người anh em ấy rồi khích lệ người thay vì chỉ trích, phê phán, xét đoán và thay đổi người. Luật yêu thương cho thấy rằng chúng ta nên tránh sự sử dụng bất cứ quyền hạn nào sẽ gây cho anh em khác vấp ngã trong đức tin của mình.
Các chương sau cùng của quyển sách được xem là một lời kết. Trong các câu còn lại của chương 15, Phaolô trước tiên nói với sự tôn trọng trên cơ sở theo Kinh Thánh đối với chức vụ của ông đối với dân Ngoại (các câu 7-21) rồi kế đó về các chương trình của ông cho chức vụ trong tương lai (các câu 22-33).
Chương 16 là những lời chào thăm phong phú riêng tư, tỏ ra sự hiểu biết của vị sứ đồ đối với các nhu cần của những cá nhân trong thân thể tại thành Rôma. Chức vụ của Phaolô là một chức vụ chủ yếu không nhắm vào số đông, mà nhắm vào những người nam người nữ theo cách riêng tư. Phần kết luận nầy nhắc cho chúng ta nhớ tới tầm quan trọng rất lờng của chức vụ từ người đến người.
Phần kết luận
Chúng ta buộc phải suy nghĩ về Tin Lành theo những giới hạn của ‘những tin tức tốt lành’ trong sách Mathiơ, Mác, Luca và Giăng, nhưng theo suy nghĩ của tôi, chẳng có một câu nói nào trong Tin Lành rõ ràng và hợp lý đã được sứ đồ Phaolô trình bày kỹ càng hơn trong sách Rôma. Tôi hy vọng bạn ao ước muốn nghiên cứu sách nầy nhiều như tôi đang giảng dạy nó. Tôi cầu xin bạn sẽ không còn sống giống như trước đây nữa.














































Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét